Di tích lịch sử

Vĩnh Long

Chùa Giác Linh (Chùa Dơi)

Chùa Giác Linh tọa lạc trên một động cát cao thuộc ấp Nhứt A, xã Mỹ Long Bắc, huyện Cầu Ngang, tỉnh Trà Vinh. Chùa Giác Linh còn gọi là chùa Dơi vì trước đây trong khuôn viên chùa có rất nhiều loài chim trú ngụ trên các cây cổ thụ trong đó có loài dơi quạ, cho nên bà con lấy đặc điểm này để gọi tên chùa. Bước vào cổng chùa, bên phải là tượng Quan Thế Âm Bồ Tát khá lớn, đang mở lòng từ bi bát ái đem phép mầu nhiệm cứu độ chúng sinh. Đi thêm vài chục mét, ta sẽ gặp ngôi chùa. Chùa dựng trên một khoảnh đất cao, được bao quanh um tùm bởi nhiều loại cây: mã tiền, mù u, nhọc, tre tạo nên nét u tịch, linh thiêng. Vào trong chùa, ta sẽ nhận thấy được nét khác biệt của chùa Giác Linh với những chùa Phật khác. Bàn thờ Phật không bố trí tượng thờ theo thứ tự: Tam Thế Phật, Di Đà, Tam Tôn như ở những chùa Phật Đại thừa (Mahayana) thường có. Chùa không chỉ thờ Đức Phật cùng những vị liên quan đến Phật giáo: Bồ Tát, La Hán mà còn thờ cả Khổng Tử, Lão Tử, và dung hợp cả tín ngưỡng dân gian: Bà Chúa Xứ, Táo Quân, Cậu Tài, Cậu Quí. Chính từ cách nghĩ của những nhà tu, cho nên phật tử không chỉ chú trọng việc đạo mà cả việc đời. So với những ngôi chùa khác về qui mô xây dựng, giá trị kiến trúc, điêu khắc thì chùa Giác Linh quả khiêm tốn. Chùa chỉ có bộ bao lam bằng gỗ sơn son thiếp vàng với đề tài tứ linh là đáng nói. Tuy nhiên, ngôi chùa thật giàu thành tích cách mạng. Ngay từ những năm đầu của thế kỷ XX, Linh Sơn Điện đã là tụ điểm hội họp, sinh hoạt của những nghĩa sĩ yêu nước chống Pháp trong tổ chức Thiên Địa Hội. Năm 1922, tổ chức Thanh Niên Đỏ của tỉnh được thành lập nơi đây, trong đó có đồng chí Dương Quang Đông. Rồi một trong ba Chi bộ Cộng sản đầu tiên của Trà Vinh – Chi bộ Mỹ Long cũng chọn địa điểm này hội họp thường xuyên trong những năm đầu thành lập. Và trong cuộc biểu tình của 300 nông dân năm 1931 đòi dân sinh, dân chủ băng rôn, cờ búa liềm bay trên rào chùa. Đến năm 1934 – 1935, chùa lại được chọn làm trụ sở của cơ quan Liên Tỉnh uỷ Vĩnh – Trà – Bến. Giai đoạn cận Cách mạng Tháng 8 năm 1945, để nắm bắt thời cơ khởi nghĩa giành thắng lợi, ngôi chùa lại chứng kiến một cuộc họp trù bị nhằm củng cố lại Xứ uỷ, do đồng chí Dương Quang Đông triệu tập. Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, ni cô Phụng – một bậc chân tu của chùa đã dùng tiếng mõ làm tín hiệu triệu tập hoặc giải tán cán bộ cách mạng khi hội họp hay lẩn tránh lúc có động. Sang giai đoạn chống Mỹ cứu nước, ni cô Phụng trở thành ni sư trụ trì chùa, dưới sắc áo nhà tu đã che mắt bọn địch bằng những chuyến hành hương, để vận chuyển vũ khí cho tổ chức cách mạng. Những năm 1966 – 1967 chiến tranh ác liệt, mặt phía tây nam trong khuôn viên chùa có một hệ thống chiến hào dài hơn 300m được đào nhằm chống lại các cuộc hành quân, càn quét của địch. Cũng trong giai đoạn này, dựa vào sự tĩnh mịch của chốn tu hành, sự um tùm của cây cối, hàng chục hầm bí mật được đào trong khuôn viên chùa để cán bộ ẩn tránh. Đặc biệt, cả đại hồng chung cũng được nhà chùa hiến cho công trường chế tạo vũ khí đánh giặc. Năm 1970, địch đến đóng đồn sát rào chùa, nhằm khống chế cách mạng vùng Mỹ Long và cũng để theo dõi các nhà tu hành. Dù vậy, ni sư Phụng vẫn một lòng một dạ bám trụ chùa, để một năm sau ta đã công kích bọn chúng phải bỏ đồn rút chạy. Chùa Giác linh được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia ngày 24/01/1998. Chốn Thiền môn bất cấm vô duyên khách này giờ đây luôn rộng cửa đón chúng ta đến suy ngẫm về đạo về đời. Nguồn: Trung Tâm Xúc Tiến Du Lịch Trà Vinh

Vĩnh Long 3924 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di tích chùa Teakhinasakor Ta Lôn

Chùa Teakhinasakor Ta Lôn (Cái Cối) tọa lạc ở ấp Cái Cối, xã Long Vĩnh, huyện Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh. Trong những năm kháng chiến, ngôi chùa không chỉ là cơ sở hoạt động bí mật, địa điểm nuôi chứa, bảo vệ cán bộ cách mạng, mà còn là nơi xuất phát nhiều phong trào đấu tranh chính trị. Ngay từ khi Chi bộ xã Long Vĩnh được thành lập (04/9/1933), Chi bộ bàn với sư cả Triệu Minh Tên chọn chùa làm cơ sở hoạt động hợp pháp của cách mạng, tổ chức nuôi chứa, bảo vệ cán bộ và mở các lớp học cho sư sãi, con em trong vùng. Thông qua các lớp học này, ngoài việc học chữ, giáo lý các thầy còn tuyên truyền đường lối chính sách của Đảng, âm mưu thâm độc của kẻ thù. Nghi ngờ chùa Ta Lôn là cơ sở của cách mạng, năm 1943, tiến hành lục soát ngôi chùa nhưng không phát hiện được gì, chúng tức giận cho đốt cháy ngôi chánh điện và một tăng xá. Hành động của địch càng làm tăng thêm nỗi căm hờn trong sư sãi, phật tử và quần chúng nhân dân nơi đây. Năm 1948, ngôi chùa một lần nữa bị địch đến lục soát. Cũng như lần trước, không tìm thấy chứng cứ tên Prụm Yên cầm đầu lại cho lính đốt ngôi chính điện. Sang thời kỳ chống Mỹ, dưới sự lãnh đạo của Chi bộ xã Long Vĩnh, cơ sở cách mạng chùa Ta Lôn không ngừng phát huy truyền thống đấu tranh bất khuất. Đầu năm 1955, địch ráo riết khủng bố quần chúng, trả thù những người kháng chiến gây cho ta một số thiệt hại. Để đối phó với tình hình, các vị sư chùa Ta Lôn bất chấp khó khăn, nguy hiểm và cả tính mạng của mình đã tổ chức nuôi chứa cán bộ ngay tại phòng riêng của mình. Năm 1959, địch mở cuộc hành quân ruồng bố thẳng tay bắn phá, giết người cướp của và bắt những người dân mà chúng tình nghi là “cộng sản nằm vùng”. Trong chiến dịch này, bọn chúng đã bắt sư cả Sơn Hiến và 4 vị sư cùng 3 phật tử chùa Ta Lôn. Cuối năm 1960, tại sân chùa Tà Lôn, Mặt trận Dân tộc Giải phóng xã Long Vĩnh được thành lập và ra mắt trước hơn 500 đại biểu quần chúng. Trong buổi lễ có hơn 20 vị sư do sư cả nhì Sơn Thượng lãnh đạo khi hoàn tục đã tình nguyện tham gia kháng chiến giải phóng dân tộc. Tháng 02/1962, không thực hiện được ý đồ gom dân vào ấp chiến lược, địch bỏ thuốc độc vào nguồn nước ngọt làm chết 2 trẻ em và 1 vị sư chùa Ta Lôn. Tháng 5/1964, địch cho máy bay ném bom và tàu thủy quân lục chiến đậu ở cửa biển Định An nã đạn pháo vào chùa Tà Lôn làm hàng chục ngôi nhà, chủ chùa là ông Sơn Rượng chết cùng 8 phật tử bị thương. Ngôi tha la bị cháy rụi và chánh điện bị sụp đổ một phần. Những năm 1965-1968, địch mở nhiều cuộc hành quân càn quét và sử dụng máy bay phun thuốc khai hoang, rải chất độc màu da cam. Ngày 22/02/1966, 18 vị sư và hơn 100 phật tử của chùa kéo ra khu trù mật Cái Đôi đấu tranh với địch. Cuộc đấu tranh của sư sãi và đồng bào Khmer Long Vĩnh được sư sãi và đồng bào Khmer cả tỉnh hỗ trợ nên đã giành thắng lợi. Với những thành tích đóng góp cho sự nghiệp giải phóng đất nước, các vị sư và phật tử chùa Ta Lôn được Nhà nước tặng nhiều bằng khen, huân, huy chương. Ngày 18/4/2013, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận chùa Ta Lôn là di tích lịch sử cấp quốc gia. Nguồn: Cổng Thông Tin Điện Tử Tỉnh Trà Vinh

Vĩnh Long 3477 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di tích Miếu Tiền Vãng

Miếu Tiền Vãng còn gọi là miếu Tiên Sư, tọa lạc trong khuôn viên trường Tiểu học Lê Văn Tám thuộc khóm 1, phường 1, thành phố Trà Vinh. Ngược dòng lịch sử khi thực dân Pháp vào Đông Dương rồi đặt chân lên đất Trà Vinh vấn đề đặt ra là họ cần có một số người biết tiếng Pháp, tiếng Việt phục vụ trong bộ máy chính quyền. Ban đầu họ tuyển chọn những người biết tiếng Pháp, tiếng Việt ở các nhà thờ công giáo, nhưng nhu cầu ngày càng nhiều, vì vậy nền giáo dục Pháp – Việt ra đời vào những năm cuối thế kỷ 19. Ngôi trường để đào tạo ở Trà Vinh là Ecole primaire Complementaire de Tra Vinh. Theo thời gian học sinh ngày một đông, ngôi trường cũng được mở rộng, nhiều thế hệ thầy cô giáo cũng đã ra đi vì bom đạn, khói lửa của chiến tranh. Năm 1943, với lòng tôn sư trọng đạo bằng sự tâm huyết của các vị giáo chức trong đó có công lao rất lớn của thầy Phạm Văn Lược, thầy Vương Hảo Thuận và thầy Võ Văn Hợi đề xuất và tiến hành xây dựng ngôi miếu thờ phụng các thầy cô giáo. Để có kinh phí xây dựng ngôi miếu, thầy Phạm Văn Lược và thầy Vương Hảo Thuận đã xin quan đầu tỉnh lúc bấy giờ cho tổ chức “Hội chợ phiên” trong khuôn viên của trường và xin giữ lại một phần kinh phí. Sau một thời gian gom góp, hai thầy đã cho khởi công xây dựng ngôi miếu theo bản thiết kế của thầy Võ Văn Hợi. Sau gần nửa năm thi công đến cuối năm 1943 ngôi miếu được hoàn thành. Tọa lạc giữa sân trường là ngôi miếu nhỏ quay mặt về hướng Nam. Kết cấu ngôi miếu theo kiểu tứ trụ đâm chái, khung sườn chịu lực, cửa vách đều bằng gỗ. Mái lợp ngói âm dương tiểu đại, bịt đầu mái là loại ngói có tráng men màu xanh ngọc dạng cánh sen. Nền miếu lát gạch. Đặc biệt, hai bên tả hữu ngôi miếu còn có hai giàn trống chiêng. Bên tả là giá trống, bên hữu là giá chiêng. Giá trống chiêng thiết kế theo kiểu nhị long cửu đao. Cửa miếu treo tấm biển đại tự ký ức bất vong viết bằng chữ Hán. Trong miếu, ngay giữa là bàn thờ, phía sau là tấm bia đá. Tấm bia đá này trước kia có đính tên 139 thầy cô giáo, có cả giáo viên người Pháp, người Việt, người Hoa, người Khmer đã có công trong sự nghiệp giáo dục và đã qua đời, nhưng hiện nay những bảng đồng đính vào bia không còn, chỉ sưu tầm được một số danh tính thầy cô. Cũng như nhiều công trình khác, thời gian đồng hành với hư hỏng. Từ ngày xây dựng đến nay, ngôi miếu đã qua ba lần trùng tu, sửa chữa nhưng vẫn giữ nguyên dáng vẻ ban đầu. Miếu Tiền Vãng biểu trưng độc nhất vô nhị trên đất Trà Vinh – biểu trưng của lòng tôn sư trọng đạo, nơi ghi công, tôn vinh các thế hệ thầy cô giáo có công trong sự nghiệp giáo dục, được Ủy ban nhân dân tỉnh Trà Vinh công nhận là di tích lịch sử văn hóa ngày 10/12/2004. Nguồn: Cổng Thông Tin Điện Tử Tỉnh Trà Vinh

Vĩnh Long 3730 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Chùa Ông (Chùa Phước Minh Cung)

Phước Minh cung còn có các tên gọi khác là Chùa Quan Thánh đế hay Chùa Ông là cơ sở tín ngưỡng tiêu biểu của cộng đồng người Hoa trên địa bàn tỉnh Trà Vinh. Như tên gọi chùa Quan Thánh đế, vị thần chính được thờ tại Phước Minh cung là Quan Công, tức Quan Vũ hay Quan Vân Trường – viên tướng văn võ song toàn, nổi tiếng trung hiếu tiết nghĩa của lịch sử Trung Hoa thời Tam quốc. Cùng được phối tự với Quan Thánh đế tại Phước Minh Cung còn có Phước đức chính thần, Chúa sanh nương nương và hai vị tùy tướng của Quan Thánh đế là Quan Bình và Châu Xương. Phước đức chính thần trong quan niệm của người Hoa ở Trà Vinh là sự đồng nhất giữa Thổ công, Thần tài và Bổn đầu công. Riêng Bổn đầu công, hay còn gọi là ông Bổn là viên quan có tên Trịnh Tu Hòa – người được hoàng đế nhà Minh cử đi thương thuyết với triều đình các nước Đông Nam Á tạo điều kiện cho Hoa kiều làm ăn, sinh sống. Phước sanh nương nương hay còn gọi là Mẹ Thai sanh, trong quan niệm của người Hoa, là vị nữ thần cai quản việc sinh đẻ, nuôi dưỡng trẻ con. Phước Minh cung tọa lạc tại số 44 đường Điện Biên Phủ, Phường 3, thành phố Trà Vinh. Khuôn viên ngôi chùa rộng hơn 800 m2, chùa có kiến trúc theo kiểu nội công ngoại quốc (bên trong là chữ Công, vòng ngoài là chữ Quốc). Mặt bằng tổng thể gồm ba tòa nhà tiền điện, trung điện và chính điện song song nhau; dọc hai bên có hai dãy nhà Tả điện và Hữu điện đối diện nhau, tạo thành hình chữ Khẩu. Giữa các tòa nhà có sân thiên tĩnh và hành lang thông thương nhau. Toàn bộ các tòa nhà đều thiết kế theo tầng bậc và lợp ngói lưu ly. Mặt dựng đầu hồi trang trí bằng các đồ án truyền thống Trung Quốc như lưỡng long tranh châu, bát tiên, hoa lá, muông thú. Tiền điện có 16 trụ cột bằng gỗ lim sơn màu son, trong đó có 4 cột vuông trên tảng đá tròn và 12 cột tròn trên tảng đá vuông, biểu trưng của âm dương hòa hợp. Tiền điện là nơi thờ Ngọc hoàng thượng đế ở án giữa cùng phối tự Tiên hiền – Hậu hiền hai bên tả hữu. Trung điện là tòa nhà nhỏ hình vuông, có bốn cột đều vuông trên tảng đá tròn. Đây là nơi thiện nam tín nữ thập phương tề tựu chuẩn bị lễ vật cúng tế trước khi bước vào ngôi Chính điện. Chính điện là tòa nhà cân đối với Tiền điện với 16 cột tròn trên tảng đá vuông. Ngôi chính điện được chia thành ba gian: – Gian trung tâm đặt án thờ Quan Thánh đế quân dưới bức đại hoành phi bằng chữ Hán Càn khôn chính khí. Ba pho tượng Quan Vân Trường ở giữa cùng Quan Bình, Châu Xương hầu hai bên với ngựa Xích thố bằng mây. – Gian trái đặt án thờ Chúa sanh nương nương dưới bức hoành phi Tải sinh tải dục bằng chữ Hán. – Gian phải đặt án thờ Phúc đức chính thần dưới bức hoành phi Uy linh uy đức bằng chữ Hán. Phước Minh cung thực sự là một Bảo tàng mỹ thuật truyền thống của cộng đồng người Hoa trên địa bàn Trà Vinh cũng như cả Nam bộ. Với các giá trị văn hóa về nghệ thuật kiến trúc, hội họa, điêu khắc, âm nhạc truyền thống cũng như vai trò của ngôi chùa trong đời sống văn hóa tâm linh của cộng đồng người Hoa, vai trò củng cố tình đoàn kết các dân tộc cùng cộng cư trên vùng đất Trà Vinh, Phước Minh cung đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng di tích lịch sử – văn hóa cấp quốc gia vào năm 2005. Nguồn: Du lịch Trà Vinh

Vĩnh Long 3680 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền Thờ Bác Hồ

Đền thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Long Đức (Trà Vinh) tọa lạc ở ấp Vĩnh Hội, xã Long Đức, thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh; cách trung tâm thành phố Trà Vinh khoảng 5 km về hướng Bắc. Đền thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh tỉnh Trà Vinh đã được Bộ Văn hóa Thông tin, nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng di tích lịch sử – văn hóa cấp quốc gia vào năm 1989. Khu di tích đền thờ Bác Hồ rộng 5,4 ha với các hạng mục chính như: Đền thờ Bác Hồ, nhà trưng bày thân thế sự nghiệp Chủ tịch Hồ Chí Minh, khuôn viên cây xanh, ao cá, khu vui chơi cắm trại và đặc biệt là mô hình Nhà sàn Bác Hồ được thiết kế, in sao và lắp khoa học với tỉ lệ 97 phần trăm theo nguyên bản nhà sàn Bác Hồ tại Phủ Chủ tịch ở thủ đô Hà Nội. Khuôn viên đền thờ rất rộng với những hàng cây rợp bóng quanh bờ hồ gợn sóng lăn tăn. Nơi được chia làm nhiều khu khác nhau, nhưng toàn bộ nơi đây đều nhắc nhớ tới công ơn đời đời của Bác – vị cha già kính yêu của toàn dân tộc Việt. Những hiện vật nơi đây vẫn nguyên vẹn như ngày đầu: chiếc máy bay B52 mà quân đội ta đã bắn rơi, chiếc xe tăng của cuộc chiến năm ấy, ngôi nhà sàn gỗ mà bác Hồ từng sống. Nhà Trưng bày được xây dựng theo kiến trúc truyền thống dân tộc. Trong đó, nhiều hiện vật, hình ảnh, tài liệu giúp người tham quan hiểu được một cách khái quát về cuộc đời hoạt động của Bác; truyền thống đấu tranh kiên cường, bất khuất trong kháng chiến và những thành tựu trong công cuộc đổi mới của Đảng bộ, nhân dân tỉnh Trà Vinh; quá trình xây dựng và chiến đấu bảo vệ ngôi Đền. Nơi đây còn trưng bày những bức ảnh trắng đen thắm đượm tình quân dân, khung cảnh chiến tranh tàn khốc mà người dân nơi đây trải qua. Công viên với hồ sen lớn hài hòa cùng hệ thống cây xanh, hoa kiểng quanh năm khoe sắc tạo ra khu vui chơi, giải trí đa dạng, hấp dẫn. Trong đó, những tán cây cổ thụ và lũy tre bao quanh cùng hệ thống hầm hào, công sự là chứng nhân của quá trình xây dựng, chiến đấu bảo vệ ngôi Đền được phục hồi và bảo quản một cách nghiêm túc, chu đáo. Đền thờ Bác Hồ đã trở thành niềm tự hào, là biểu trưng của tấm lòng người dân Trà Vinh đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nguồn: Du lịch Trà Vinh

Vĩnh Long 3811 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Bảo Tàng Tỉnh Bến Tre

Bảo tàng Bến Tre được thành lập năm 1981, tọa lạc tại số 146 đường Hùng Vương, phường An Hội, thành phố Bến Tre với diện tích khoảng 20.000m2. Mặt chính Bảo tàng hướng về phía sông Bến Tre với những cây cổ thụ tỏa bóng mát cùng nhiều hoa kiểng tươi tốt, quý giá - cảnh sắc nên thơ, nhẹ nhàng, sâu lắng mang đầy sự quyến rũ và thu hút; mặt sau hướng về đường Cách mạng tháng Tám, một trong những con đường nhộn nhịp nhất của thành phố Bến Tre. Đến với Bảo tàng Bến Tre quý khách có thể tham quan, học tập, nghiên cứu tìm hiểu các địa điểm trong quần thể này đó là: Di tích quốc gia “Nơi ở và hoạt động của Đại tá Phạm Ngọc Thảo” (được công nhận Di tích lịch sử quốc gia năm 2015), Ngôi nhà là Dinh Tham biện (Pháp) - Dinh Tỉnh trưởng (Mỹ) được xây dựng theo lối kiến trúc Pháp (1876) mang nét trang nghiêm và cổ kính, nơi đây trưng bày những hình ảnh và hiện vật về lịch sử, truyền thống cách mạng của nhân dân tỉnh nhà trong 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ xâm lược; trưng bày hình ảnh, tư liệu về người chiến sĩ tình báo, Đại tá Phạm Ngọc Thảo; trưng bày Di chỉ khảo cổ học Giồng Nổi. Nhà trưng bày thành tựu Kinh tế - Xã hội của tỉnh (2003): trưng bày những hình ảnh, hiện vật trong xây dựng kinh tế, văn hóa, xã hội của địa phương từ sau ngày 30.4.1975 đến nay - nơi đây còn là nơi trưng bày các chuyên đề đặc sắc và phong phú trên nhiều lĩnh vực với những thành tựu lớn của tỉnh nhà. Nhà dừa (2012): Ngôi nhà 3 gian được cất bằng gỗ dừa theo kiểu nhà nông thôn Nam bộ. Ngôi nhà được thiết kế một cách nhẹ nhàng, khoáng đạt mang tính chất dân tộc đậm đà, phản ánh được tính giản dị và tâm hồn con người Việt Nam. Bên trong ngôi nhà thờ Bác Hồ và AHLLVTND, Đại tá Phạm Ngọc Thảo, trên vách trưng bày các hình ảnh, hiện vật liên quan đến cây dừa Bến Tre trong kháng chiến cũng như trong sinh hoạt văn hóa. Nhà dừa còn tổ chức giao lưu “đờn ca tài tử”, “hát Sắc bùa”,… vào đêm 30 mỗi tháng. Đến đây du khách có thể cảm nhận được sự yên bình, ấm áp đồng thời thưởng thức những làn điệu diễn xướng dân gian Bến Tre được các nghệ nhân, tài tử trình diễn. Khu trưng bày ngoài trời: gồm những hiện vật thuộc thể khối có kích thước lớn như xác máy bay, pháo, vỏ bom…thu gom trong chiến tranh; Xung quanh khuôn viên là các tiểu cảnh đan xen: ruộng lúa, con trâu, hồ sen, cầu dừa,… tạo cảm xúc gần gũi, thân quen với du khách. Là một trong những địa chỉ đỏ về giáo dục truyền thống cách mạng vô cùng ý nghĩa, là điểm du lịch thú vị, hấp dẫn. Mỗi năm, Bảo tàng Bến tre thu hút khoảng 40.000 du khách trong và ngoài tỉnh cũng như du khách quốc tế đến tham quan, tìm hiểu, học tập, giải trí, trải nghiệm, thưởng thức di sản văn hóa và nghệ thuật dân gian Bến Tre. Bảo tàng Bến Tre được công nhận là Di tích Lịch sử quốc gia ngày 28.8.2015 bởi Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch. Nguồn: Du lịch Bến Tre

Vĩnh Long 5688 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình Long Phụng

Đình Long Phụng ở Ấp Long Hòa 2, Xã Long Định, Huyện Bình Đại, Tỉnh Bến Tre. Đình Long Phụng là đình làng thứ 5 của tỉnh Bến Tre được xếp hạng Di tích lịch sử văn hoá, Kiến trúc Nghệ thuật cấp Quốc gia, vào ngày 20/6/2018. Ngôi đình này có lịch sử lâu đời, khắc họa rõ nét văn hóa tín ngưỡng và kiến trúc của vùng đất Bình Đại xưa. Đình Long Phụng được khởi công xây dựng lần đầu tiên vào năm 1833, đến cuối năm 1834 thì hoàn thành. Ban đầu, đình chỉ được dựng lên bằng cây lá đơn sơ bên bờ sông Bình Đại. Lúc này, đình không được nhiều người biết đến, chỉ có một vài hộ dân trong vùng lui tới thắp nhang cúng Thành Hoàng để cầu nguyện những điều bình an, may mắn. Đến năm Thiệu Trị thứ 5, đình được sắc phong lần đầu tiên với 2 sắc Đại càn Quốc gia Nam Hải và Bổn cảnh Thành hoàng vào ngày 27/11/1845. Đến ngày 26/12/1845, đình được Vua Thiệu Trị sắc phong lần thứ hai cũng gồm 2 sắc như trên. Đợt thứ ba là vào ngày 8/11/1850, Đình Long Phụng nhận thêm 2 sắc phong dưới thời Vua Tự Đức năm thứ 3. Tổng cộng đình có tất cả 6 sắc phong. Theo quan niệm lúc bấy giờ, sắc phong chính là sự công nhận của Vua - Thiên Tử dành cho những đình làng đang thờ các vị thần linh thiêng. Đến cuối năm 1916 đình được xây mới chắc chắn với quy mô lớn hơn đình cũ, hầu hết kiến trúc vẫn còn nguyên vẹn cho đến tận ngày nay. Khuôn viên đình Long Phụng có tổng diện tích 2.580m2. Trong đó, diện tích xây dựng ngôi đình là khoảng 750m2. Đình được tạo nên từ những bức tường bằng gạch chắc chắn, mái lợp ngói âm dương, hệ thống cột, kèo, rui bằng gỗ giáng hương nên màu sắc trải qua hàng thế kỷ với rất đẹp, nền lát gạch tàu. Đình được xây dựng theo lối kiến trúc chùa chiền cổ truyền với các gian võ ca, võ quy nối liền với chính điện. Ngoài ra, ở phía bên trái nối liền gian chính điện còn có khu vực nhà khách và nhà ở của tiên sư. Cấu tạo toàn bộ kiến trúc theo dạng hình chữ Đinh. Bước qua cổng đình, là bức bình phong lớn, giữa sân là bàn thờ Thần nông và hai ngôi miếu nhỏ gọi là miếu Ông Hổ (Sơn quân) và miếu Ngũ Hành. Gian võ quy được xem là nơi quan trọng của đình. Tại đây trang trí bằng các đường nét hoa văn đặc trưng như: ba hương án, cặp quy – hạc, hoành phi, trong đó có 3 bức hoành phi dạng cuốn thư sơn son thếp vàng. Đặc biệt, những cây xà ngang tại gian võ ca đều được chạm khắc thành đầu rồng cực kỳ tinh xảo, phía trên đầu là các câu đối với hình tứ giác chạm lộng tứ linh uy nghi. Gian chính điện của Đình Long Phụng có diện tích rộng nhất. Điện thiết kế theo kiến trúc 3 gian kiểu tứ trụ với vách gạch, nền lát gạch hoa, mái lợp ngói âm dương. Phần mái đình được trang trí với nhiều đồ án sắc sảo, sống động như rồng vờn mây, lưỡng long tranh châu, cá chép hóa rồng, rùa cõng châu ngọc. Bên cạnh kiến trúc độc đáo thì đình Long Phụng còn trưng bày và lưu giữ nhiều hiện vật có giá trị như long đình, khánh thờ, hương án, liễn áp cột, lỗ bộ, hoành phi. Trong đó, hiện vật có tính lịch sử và văn hóa nhất phải kể đến là khánh thờ thần. Khánh thờ của đình Long Phụng được chạm trổ ba lớp, bên ngoài chạm khắc nhiều hoa văn trong bộ tứ linh, tứ quý. Bên cạnh đó, đình cũng còn lưu giữ hai sắc phong do Vua Tự Đức ban tặng vào năm 1852: sắc Bổn Cảnh Thành Hoàng và sắc Đại Càn Quốc gia Nam Hải tứ vị tôn thần. Vì một số phần kiến trúc của đình đã bị sạt lở nên đã được trùng tu, xây dựng lại. Tuy nhiên, nhìn chung thì đình vẫn giữ được vẻ đẹp đậm chất văn hóa truyền thống, từng đường nét đều khắc họa niềm tin tín ngưỡng lâu đời của mảnh đất Bình Đại nói riêng và Bến Tre nói chung. Nguồn: Du lịch Bến Tre

Vĩnh Long 4328 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình Tiên Thuỷ

Là một trong những ngôi đình được tạo lập sớm nhất ở Ấp Khánh Hội Đông, xã Tiên Thủy, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre, Đình Tiên Thủy không chỉ là nơi tôn thờ vị thần của làng mà còn là chứng tích văn hóa nghệ thuật và lịch sử. Dấu tích kiến trúc nghệ thuật có từ những năm đầu thế kỷ 19 của Đình Tiên Thủy đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xác nhận đủ chuẩn xếp hạng Di tích cấp Quốc gia. Đình Tiên Thủy nằm bên bờ nhánh nhỏ của sông Hàm Luông. Với cấu trúc theo hình chữ Sơn (từ Hán), Đình Tiên Thủy được xây theo thể thống nhất, liên hoàn trong diện tích trên 1ha, gồm: nhà võ ca, võ quy, chính điện, chỉnh y, bếp và nhà tiệc. Phía trước có bức bình phong và 4 ngôi miếu: Ông Hổ, Ngũ Hành, Thổ Thần, Bà Chúa Xứ và bàn thờ Thần Nông. Đình Tiên Thủy được lập ngay sau khi Nguyễn Ánh chạy trốn quân Tây Sơn, dừng chân nơi này vào những năm 1778. Đến năm 1852, Đình được vua Tự Đức chuẩn y và ban 7 sắc phong. Tuy nhiên, do trước đây Tiên Thủy và Tiên Long cùng một làng, có hai đình gọi là Đình Ông và Đình Bà nên khoảng 10 năm trở lại đây, Đình Tiên Thủy (Đình Bà) đưa về Đình Tiên Long 3 sắc phong. Hiện tại, Đình còn 4 sắc phong thờ thần Cao Các Quảng Độ tôn thần, Thiên Y A Na Diễn Ngọc Phi, Bổn Cảnh Thành Hoàng và Đại Càn Quốc Gia Nam Hải. Đình Tiên Thủy có kiến trúc của nhà xuyên trính, 3 gian, hai chái, mái ngói âm dương. Vẫn mang đậm kiến trúc cổ, đặc trưng của công trình ở thế kỷ 19, Đình Tiên Thủy được xây dựng ban đầu bằng cây lá đơn sơ, sau đó là gỗ, ngói, sành, sứ. Đình có 42 cột bằng gỗ lim, căm xe với bề hoành từ 90cm đến 1m. Cột, kèo, đòn tay được kết dính với nhau bằng kỹ thuật mộng chốt và đầu kèo đều được chạm hoa văn. Nóc đình chính là ngọn tháp với phong cảnh 4 mặt và trên nóc trang trí hoa văn đắp nổi, cùng 2 đầu rồng ở 2 góc tháp. Cũng như bao đình cổ khác, điêu khắc chạm nổi, chạm lộng, chạm khắc, xà cừ, sơn son thếp vàng được thể hiện sắc sảo ở các hoành phi, câu đối, bao lam, thành vọng. Nhiều loại hoa trái, chim cảnh đậm nét dân gian Việt Nam được thể hiện ở đây như hoa mai, mẫu đơn, hoa lựu, hoa sen, cúc, trúc, bướm, dơi, chuột, cua, ếch, long-lân-quy-phụng... Kiến trúc đặc sắc và công phu nhất của Đình Tiên Thủy là chạm nổi hai lớp hoa văn ở các ô, hộc. Lớp bên trong sử dụng chạm lộng như một lớp lưới hay tổ ong để làm nền cho lớp hoa văn chạm nổi bên ngoài. Đình hiện còn lưu giữ 14 hoành phi, 6 bao lam, 4 khánh thờ, 4 sắc phong, 2 liễn áp cột, 2 hương án và nhiều liễn đối, bài vị... Cho đến nay, Đình Tiên Thủy vẫn là đình quy tụ đông đảo người dân về cúng bái. Đình có cả sân khấu dành cho hát Bội vào lễ Kỳ yên và Lễ Du thần trên sông chính - nét riêng của Đình Tiên Thủy. Ngoài ra, Đình còn có các lễ cúng lệ kỳ hàng năm như lễ Khai sơn, cúng Quan Thánh, Giỗ tổ Hùng Vương, lễ Hạ điền và Thượng điền. Với mục đích cầu cho mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an, mùa màng thuận lợi, hàng năm có hàng ngàn lượt người tham dự. Đặc biệt là lễ Kỳ yên, người dân xa xứ thường hội tụ về đây cúng bái, giao lưu gắn kết thêm tình làng nghĩa xóm. Nguồn: Du lịch Bến Tre

Vĩnh Long 4124 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình Phú Lễ

Tọa lạc tại ấp Phú Khương, xã Phú Lễ, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre, Đình Phú Lễ được vua Minh Mạng cho phép lập đình vào năm 1826, trên cơ sở ngôi đình bằng gỗ lá được xây dựng trước đó. Ngày 29.01.1852, đình nhận được sắc phong của vua Tự Đức. Giữa không gian yên tĩnh, cổng đình Phú Lễ hiện ra uy nghi và nổi bật. Đình đã gần hai trăm tuổi, qua nhiều lần tu sửa nhưng vẫn giữ nguyên nét cổ kính. Ngôi đình ẩn mình giữa những tán cây cổ thụ, khi mặt trời ló rạng, những tia nắng len lỏi qua từng kẽ lá, chiếu vào tường gạch, thềm đá rêu phong càng tôn thêm nét uy nghiêm, trầm mặc vốn có của đình. Thềm và móng đình được cấu trúc bằng đá xanh, bên trên xây gạch. Đình gồm tất cả 10 gian: 6 gian chính dính liền với mái và 4 gian phụ bố trí theo lối “chữ Đinh” cũng là nhà phổ biến ở đồng bằng sông Cửu Long trước đây. Cột đình bằng gỗ lim, gỗ quí hiếm ở miền Tây Nam bộ, đường kính 40cm, mái lợp ngói vảy cá. Trong Đình gồm 6 bàn hương án đều sơn son thếp vàng với hình tượng long lân qui phụng rất tinh xảo theo mô típ của đình chùa cổ Việt Nam. Ðặc biệt là nghệ thuật chạm khắc nhiều tầng trên gỗ bao quanh các cột ở gian chánh đường cho thấy tay nghề lão luyện của người thợ ngày đó. Tương truyền, khi xây đình, các cụ cao niên trong vùng đã mời các thợ và nghệ nhân từ Huế vào chạm khắc nên những tác phẩm gỗ tuyệt đẹp này. Không chỉ là những hình ảnh các con vật tứ linh mang tính ước lệ của văn hóa cổ Việt Nam mà còn có cả hình ảnh con cá, con cua của vùng biển Ba Tri – những con vật bình dân cũng được đưa vào trong kiến trúc tạo hình. Sự hoành tráng, uy nghi của ngôi đình cho thấy cuộc sống trù phú và bề dày văn hóa của cư dân Phú Lễ nói riêng và vùng Ba Tri nói chung vào đầu thế kỷ trước. Do chiến tranh và thời gian, các công trình kiến trúc và các hiện vật bài trí bên trong (hương án, cuốn thư, hoành phi, bình phong, bao lam, đồ lễ bộ…) đã bị xuống cấp và hư hỏng nhiều. Tuy nhiên, những phần cơ bản về kiến trúc vẫn còn nguyên, không bị bom đạn tàn phá, đặc biệt những tác phẩm nghệ thuật điêu khắc gỗ sơn son, thếp vàng còn lưu giữ được đến hôm nay. Đình Phú Lễ là trung tâm tín ngưỡng của cộng đồng cư dân, là nơi dân làng gửi gắm những mong ước của mình vào vị thần phò trợ cho làng, được nhà nước sắc phong là Thành hoàng Bổn cảnh. Ngoài thần Thành hoàng, các vị Tiền hiền, Hậu hiền có công khai phá, lập làng cũng được nhân dân đưa vào đình thờ phụng. Điểm khác biệt của đình Phú Lễ là vào ngày Tết hoặc Lễ hội cúng đình (Lễ Kỳ Yên) được tổ chức vào 18 và 19 tháng 3 âm lịch hàng năm, ngay trước đình sẽ tổ chức hát bội thu hút sự quan tâm của đông đảo người dân và du khách thập phương. Ngày 9 – 10 tháng 11 Âm lịch đình tổ chức lễ cầu bông, cầu mong mùa màng bội thu. Ngày 7-1-1993, Đình Phú Lễ được Bộ Văn hoá – Thông tin ra quyết định công nhận là di tích lịch sử – văn hóa cấp quốc gia. Du lịch Bến Tre, đến Phú Lễ bạn còn khám phá làng nghề truyền thống Phú Lễ (gồm đan đát, nấu rượu), trong đó có nghề nấu rượu đế đã tồn tại rất lâu đời. Rượu đế Phú Lễ được nhiều người tiêu dùng ưa chuộng và biết đến bởi sản phẩm rất thơm ngon, tinh khiết, chất lượng ổn định, không gây độc hại và hợp khẩu vị của người tiêu dùng. Nguồn: Báo du lịch Bến Tre

Vĩnh Long 5504 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình Bình Hoà

Đình Bình Hòa nằm sát tỉnh lộ 26, thuộc ấp Bình Ninh, xã Bình Hòa cũ nay là tỉnh lộ 88, ấp 5A, Thị Trấn Giồng Trôm, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre. Đình Bình Hòa được xây dựng lần đầu tiên vào năm 1812. Đình do bà con nhân dân dựng lên từ những vật liệu đơn sơ như cây, lá , tre, nứa để thờ thành hoàng làng. Đến năm 1852, Đình Bình Hòa Bến Tre được vua Tự Đức sắc phong. Đây là nghi lễ rất có ý nghĩa khi các thần linh thờ trong đình nhận được sự công nhận từ nhà vua. Từ đó, đình được bà con nhân dân biết đến nhiều hơn, họ về đây dâng lễ để cầu nguyện những điều bình an, may mắn. Đến năm 1903, ban khánh tiết đã đứng ra để tổ chức, vận động người dân đóng góp công sức, tiền của xây dựng lại Đình Bình Hòa Bến Tre với quy mô rộng lớn hơn. Quá trình thi công mất 10 năm, từ 1903 đến 1913 thì hoàn thành. Vật liệu chủ yếu được sử dụng là gỗ tứ thiết, kết cấu gắn bằng mộng và chốt khớp, hoàn toàn không dùng đinh. Đây là kiểu xây dựng đình chùa rất quen thuộc dưới thời nhà Nguyễn, dù thô sơ nhưng vẫn vô cùng chắc chắn. Ngày 25/12/1959 âm lịch, một trung đoàn công an Ngô Quyền do tên Lê Xuân Khánh chỉ huy từ Bến Tre xuống đây đóng quân. Chúng lấy đình Bình Hòa làm nơi giam cầm, tra tấn các chiến sĩ cách mạng và đồng bào ta. Quân Ngụy đã sử dụng rất nhiều hình thức tra tấn dã man, tàn ác. Theo một số ghi chép, tổng số đồng bào bị chúng bắt đến đây và tra tấn, thiệt mạng lên hơn 400 người. Ngôi đình trăm năm tuổi đã chứng kiến máu của biết bao đồng bào đổ xuống, đồng thời là chứng nhân lịch sử cho tội ác của kẻ thù. Đến năm 2012, đình Bình Hòa được trùng tu bởi Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Bến Tre kết hợp cùng Ủy ban nhân dân huyện Giồng Trôm. Quá trình tôn tạo di tích kéo dài trong 1 năm, vẫn giữ nguyên những nét đặc trưng của đình nhưng mở rộng quy mô và xây thêm những công trình phụ trợ để phục vụ khách đến tham quan và du lịch. Khi hoàn thiện, tổng diện tích đình Bình Hòa là 9.000m2 với các hạng mục chính bao gồm: nhà võ ca, thiêu hương, chính điện, tiền sảnh, hành lang, hậu đường, miếu Quan Thánh. Hiện nay, đình Bình Hòa vẫn đang lưu giữ hơn 100 tác phẩm điêu khắc gỗ tinh xảo bao gồm các bức hoành phi, liễn đối, bao lam, phù điêu, hương án. Đình Bình Hòa đã được xếp hạng là Di tích lịch sử văn hoá, Kiến trúc Nghệ thuật Quốc gia ngày 7/1/1993. Nguồn: Tổng hợp báo du lịch Bến Tre

Vĩnh Long 5474 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình Tân Thạch

Đình Tân Thạch ở Ấp 9, Xã Tân Thạch, Huyện Châu Thành, Tỉnh Bến Tre. Đình Tân Thạch được xây dựng vào năm 1841, lúc bấy giờ có tên gọi là đình Thạch Hồ. Đình được xây để thờ Thành Hoàng làng. Cấu trúc đình làng theo hình chữ Tam (三) với ba gian chính là Võ ca, Võ quy và Chánh điện liền kề nhau. Đình Tân Thạch có diện tích khuôn viên khoảng hơn 7.600m2. Trong đó, diện tích mặt bằng của đình là 1.250m2. Đình được xây dựng với lối kiến trúc đậm chất truyền thống, mái đình lợp ngói âm dương, trang trí bằng những hình ảnh quen thuộc như lưỡng long tranh châu, cá chép hóa rồng và bát tiên. Cổng tam quan của Đình Tân Thạch được xây dựng bằng gạch và xi măng, phần mái lợp ngói, trên mái là hình tượng hai con rồng bằng sứ trắng. Cổng thiết kế thành ba cửa với cửa chính ở giữa. Theo quan niệm dân gian thì cổng chính dành cho sư sãi và vua chúa, quan lại đến đình dâng hương. Còn cửa phụ dành cho khách thập phương, bên trái là nam, bên phải là nữ. Hai bên mái cổng đình trang trí bằng con lân làm từ gốm men màu xanh đang trong tư thế ngồi chầu. Bên cạnh là hai câu đối đắp nổi, thể hiện mong muốn quốc thái dân an, mưa thuận gió hòa. Xung quanh tường rào bằng đá xanh, trang trí thêm chấn song hình con tiện. Trước sân Đình Tân Thạch còn có bức bình phong lớn hình Thần Nông từ vật liệu đá, cao khoảng 3m, chạm nổi hình rồng đang vươn mình bay lên. Bên dưới là con hổ ẩn hiện trong những dải hoa văn hình núi, mây, cây cối. Hai bên bình phong là hai câu đối bằng tiếng Hán ghi. “Hổ cư sơn lâm phù xã tắc”. “Long du nguyệt điện tráng sơn hà”. Bên trái bình phong là miếu thờ nhỏ của Sơn quân, thờ Thần Hổ linh thiêng. Bên phải là miếu thờ thần Thổ địa và thần Hà bá, theo quan niệm dân gian là thần cai quản đất đai và cai quản sông nước. Ngoài ra, trong miếu còn thờ 3 hòn đá theo tín ngưỡng thờ Neak Tà của người Khmer. Gian Võ ca: Đây là gian gồm ba căn hai chái, nơi tổ chức các hoạt động xây chầu đại bội vào những dịp lễ lớn như cúng Kỳ Yên. Gian Võ quy: Gian này gồm năm căn hai chái, xây theo lối kiến trúc nhà xuyên trính với các thanh xà ngang nối xuyên qua từng cột. Gian Võ quy đặt một bàn hương án thờ Phật, đồng thời cũng là nơi hành văn lễ tế thần. Gian Chính điện: Phía trước Chính điện đặt một bàn thờ, bên phải là hai bài vị ghi: “Nam Hải Cự Tộc Ngọc Lân Thần” và “Thủy Đức nương nương”. Còn bên trái bàn thờ là hai bài vị “Chúa xứ Thánh Mẫu nương nương” và “Thái giám Bạch mã mộc trụ ngũ phương tôn thần”. Chính điện được xây theo kiểu nhà ba căn, hai chái thoáng mát, rộng rãi. Gian giữa thờ Quốc tổ Hùng Vương, kế đến là thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh. Gian bên đặt khánh thờ thần Thành hoàng với bức tượng sơn son thếp vàng, tả ban và hữu ban đều đặt bàn thờ tiền hiền, hậu hiền. Nhà tiền vãng: Nối liền với chính điện của Đình Tân Thạch là ngôi nhà trù (hay còn gọi là nhà bếp). Ngay bên cạnh nhà trù là nhà tiền vãng - Nơi thờ các vị tiền hiền khai khẩn đất đai, hậu hiền có công với dân với nước. Đình Tân Thạch còn lưu giữ những hiện vật có giá trị lâu đời như: 6 đạo sắc phong thần được triều đình nhà Nguyễn ban cho Đình Tân Thạch. Trong đó có 4 đạo sắc phong dưới thời Vua Thiệu Trị (1845), 2 đạo sắc phong dưới thời Vua Tự Đức (1850). 4 bộ lư mắt tre tinh xảo. 7 lư trầm bằng đồng thau với màu sắc đẹp mắt. 13 bức hoành phi khổng lồ được chạm nổi, sơn son thếp vàng rực rỡ. 13 bao lam thành vọng bằng gỗ quý, đặt trên cột chính ở gian Võ ca, Võ quy và Chính điện. Các hiện vật có niên đại khác nhau, đôi chỗ hư hại trong quá trình trùng tu. Tuy nhiên nhìn chung, tất cả đều được chạm trổ công phu, thể hiện tài hoa và bàn tay khéo léo của các thế hệ nghệ nhân thời bấy giờ. Các bức hoành phi, câu đối với nội dung ca ngợi công đức của Thành hoàng làng, thể hiện sự biết ơn và tấm lòng ngưỡng vọng của người dân đối với những công ơn của các vị thần. Ngày 28/12/2001, Bộ Văn hóa-Thông tin đã công nhận Đình Tân Thạch là Di tích lịch sử văn hoá, Kiến trúc Nghệ thuật cấp Quốc gia. Nguồn: Báo du lịch tỉnh Bến Tre

Vĩnh Long 3833 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Quân khu ủy Sài Gòn – Gia Định

Khu ủy Sài Gòn - Gia Định tọa lạc tại xã Tân Phú Tây, huyện Mỏ Cày Bắc, tỉnh Bến Tre còn có mật danh là T4, Y4, là cơ quan đầu não chỉ huy cuộc kháng chiến chống Mỹ ở khu vực đô thị Sài Gòn - Gia Định từ tháng 7/1969 đến tháng 10/1970. Cách đây 50 năm, vào tháng 7-1969, Khu ủy Sài Gòn - Gia Định do đồng chí Võ Văn Kiệt làm Bí thư, hai đồng chí Trần Bạch Đằng và Mai Chí Thọ làm Phó bí thư đã lãnh đạo, chia thành nhiều bộ phận nhỏ, bằng nhiều hình thức bí mật di chuyển đến căn cứ xã Tân Phú Tây. Tuy thời gian đóng tại đây không dài nhưng Căn cứ Khu ủy Sài Gòn - Gia Định đã để lại những dấu mốc lịch sử đáng nhớ, đó là nơi làm việc của các đồng chí lãnh đạo Đảng. Căn cứ Khu ủy Sài Gòn - Gia Định qua những tư liệu lịch sử hiện vẫn còn được tỉnh bảo tồn, giới thiệu tại di tích lịch sử cách mạng cấp quốc gia cùng tên, tọa lạc tại xã Tân Phú Tây, huyện Mỏ Cày Bắc, tỉnh Bến Tre. Đây là một trong những địa điểm di tích thu hút đông đảo du khách trong và ngoài tỉnh tham quan hàng năm. Căn cứ Khu ủy Sài Gòn - Gia Định được chuyển về đóng tại xã Tân Phú Tây và Thành An vào thời điểm như đã nêu. Đây là vùng mới giải phóng, nhân dân kiên cường, có trình độ giác ngộ chính trị cao, địa hình lại rất hiểm trở, nhiều kênh rạch chia cắt, có nhiều vườn dừa liên tiếp che chắn, địch không thể đổ quân bằng xe cơ giới, thiết giáp, kể cả việc dùng trực thăng đổ quân cũng bị nhiều hạn chế. Chỉ bằng những vật liệu thô sơ, chủ yếu là sử dụng những thứ có sẵn tại chỗ, các du kích địa phương đã xây dựng 16 hầm nổi và 14 hầm bí mật (phân bố ở hai xã liên hoàn: Tân Phú Tây và Thành An), tất cả được bố trí chặt chẽ để có thể chi viện cho nhau lúc cần thiết. Các hầm nổi là nơi ở, làm việc, hội họp của các đồng chí lãnh đạo Khu ủy, ban y tế, bộ phận điện đài cơ yếu; ngoài ra, còn có một hầm được đặt tên là “nhà hạnh phúc”, là nơi ở đêm tân hôn của các chiến sĩ Y4. Đến tháng 10-1970, địch đã phát hiện lãnh đạo Khu ủy hoạt động tại xã Tân Phú Tây, chúng đã nhiều lần đổ quân đánh phá nơi đây và các xã lân cận. Trước tình hình đó, đồng chí Võ Văn Kiệt đã họp lãnh đạo Khu ủy, quyết định rút khỏi vùng căn cứ. Thời gian đóng tại khu căn cứ, lãnh đạo Khu ủy Sài Gòn - Gia Định đã nhận được sự cưu mang đầy nghĩa tình của quân và dân trong toàn huyện. Sau chiến tranh, vùng căn cứ gần như bị phá hủy hoàn toàn. Để nhắc nhớ sự kiện ấy, tháng 11-1997, Đảng bộ và nhân dân tỉnh đã phục chế lại hai hầm trú ẩn: hầm số 1 là nơi hội họp điện đài cơ yếu và hầm số 2 là nơi ở và làm việc của đồng chí Võ Văn Kiệt và sau đó mở rộng khoảng 2ha xây dựng thêm một số hạng mục. Di tích được Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) công nhận là Di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 23-12-1995. Nguồn: Tạp chí bộ lao động thương binh xã hội

Vĩnh Long 4923 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Chùa Tuyên Linh

Chùa Tuyên Linh tọa lạc tại ấp Tân Thới Đông B, xã Minh Đức, huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre. Chùa Tuyên Linh được xây năm Tân Dậu (1861), dưới triều Tự Đức năm thứ 14. Lúc đầu, chùa có tên là Tiên Linh do Hòa thượng Khánh Phong trụ trì và được làm bằng tre, lá để thờ bà Sầm - người bị cọp vồ nhưng rất linh thiêng. Chùa Tuyên Linh là nơi mà cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, thân sinh Bác Hồ, nhiều lần ghé lại tá túc. Thời gian cụ Phó bảng ở đây lâu nhất là từ năm 1927 đến 1929. Trong thời gian lưu trú tại chùa, cụ Phó bảng đã mở lớp dạy học, xem mạch bốc thuốc cho nhân dân trong vùng và cùng Hòa thượng trụ trì bàn việc dân, việc nước. Những năm trước Đồng khởi, Bến Tre trong thế kìm kẹp khắc nghiệt của Mỹ, Diệm, vùng Tân Hương - Minh Đức, nơi có chùa Tuyên Linh , vẫn là một trong những nơi có phong trào Cách mạng phát triển mạnh mẽ nhất của tỉnh. Các cơ quan Huyện ủy Mỏ Cày và Tỉnh ủy Bến Tre đã từng trú đóng tại chùa Tuyên Linh dưới sự giúp đỡ, che giấu của nhân dân và tín đồ đạo Phật giáo trong thời gian hoạt động Cách mạng. Trong 2 cuộc kháng chiến, chùa Tuyên Linh là nơi che giấu, nuôi dưỡng cán bộ cách mạng nên đã hai lần bị giặc dùng máy bay ném bom, phá hủy và đốt chùa. Chùa được trùng tu nhiều lần và được xây mới vào năm 1999 trên nền cũ rất khang trang. Tuy nhiên, những hiện vật gắn với quá khứ của chùa không còn nhiều. Năm 1941 Chùa được tu sửa lần đầu, đến năm 1983 Chùa tiếp tục được tu sửa và mở rộng. Năm 1999 Chùa được đại trùng tu trên nền ngôi chùa cũ. Chùa có pho tượng hộ pháp cao 0,7m bằng đồng cổ. Vườn chùa có dựng bảo tháp ghi tên ba vị Tổ: Hòa thượng Khánh Phong (1823-1905), Thiền sư Minh Bảo (1846-1919) và Pháp sư Khánh Hòa (1877-1948). Năm 2003, chùa tiếp nhận đại hồng chung cao 1,7m, nặng trên 330kg. Ngày 20/7/1994, Bộ Văn hóa-Thông tin đã công nhận chùa Tuyên Linh là Di tích Lịch sử Văn hóa quốc gia. Nguồn: Tổng hợp báo tỉnh Bến Tre

Vĩnh Long 3635 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình Rắn Bến Tre

Đình Rắn ở Mỏ Cày, Bến Tre từ xa xưa đã trở thành chốn linh thiêng, bởi nơi đây gắn liền với nhiều huyền tích về thần rắn hộ người. Không những thế, Đình Rắn còn là nơi Anh hùng lực lượng vũ trang Nguyễn Thị Định – tức nữ tướng Ba Định khởi phát phong trào Đồng Khởi. Có giai thoại còn kể rằng, khi cô Ba Định bị Việt gian chỉ điểm, chính rắn thần trong Đình Rắn đã “hộ thể” cho cô Ba, giúp bà thoát khỏi nòng súng nanh ác của quân thù… Đình Rắn hay còn gọi là đình Định Nhơn tọa lạc ở xã Định Thủy, huyện Mỏ Cày, nay là Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre. Đình Rắn nằm trong một con đường nhỏ heo hút, hai bên đường trồng cây bạch đàn khẳng khiu. Theo lời người dân nơi đây, vào đầu thế kỷ 18, bốn tộc họ Nguyễn, Phan, Trịnh, Võ được coi là những người khai phá đất này. Nơi đây xưa kia còn hoang vắng, ít bóng người, nhiều thú dữ. Thế nên, khi đặt chân đến vùng đất này, các cụ đã lập một ngôi miếu nhỏ thờ ông Hổ. Miếu lập chẳng bao lâu, nhiều cư dân trong vùng đến chiêm ngưỡng, cúng bái ngày càng đông. Các bậc lão làng nơi đây mới xin lập làng và lấy tên là làng Định Phước. Miếu nhỏ được dựng lên thành Đình Rắn. Gọi là Đình Rắn vì ngày xưa ở đây nhiều mô đất cao, có rất nhiều rắn trú ngụ. Mỗi lần đến ngày cúng đình rắn đều xuất hiện và biến mất trong chốc lát, đồ cúng sau khi cúng xong để lại, rồi rắn đến mang đi. Cũng từ đó, đời sống của bà con trong vùng khấm khá hơn, mùa màng luôn được bội thu, dân làng đều khỏe mạnh. Khi xưa, trước cổng đình có cặp rắn to. Cặp rắn đó không làm hại dân trong vùng mà chỉ ăn thịt ác thú, hùm, beo. Dân trong vùng gọi là “Ông, Bà Rắn” hiển linh. Sau ngày thống nhất đất nước, đôi rắn ấy cũng không thấy đến nữa. Đầu năm 1960, bà Nguyễn Thị Định mà dân xứ dừa hay gọi là cô Ba Định bí mật cùng các cán bộ lãnh đạo Tỉnh ủy Bến Tre về đình Rắn họp bàn ngày Đồng Khởi. Tin tức bị lọt ra ngoài, đến tai chế độ Việt Nam cộng hòa. Họ Ngô liền sai một đạo quân dẫn đầu là viên Trung úy bảo an phục kích ngay đình Rắn để bắt các chiến sĩ cách mạng. Rất nhiều lính sợ “thần Rắn” không dám đi. Hơi hoang mang, viên Trung úy giắt theo bên mình rất nhiều lựu đạn để khi gặp “ông bà Rắn” to lớn là cho nổ banh thây luôn. “Thần hồn nát thần tính”, lúc đã gần bắt được cô Ba Định, thì bỗng nhiên một tên lính la hét tán loạn, cho rằng mình đã thấy “ông bà Rắn”. Tên lính rút chốt lựu đạn, tính ném cho “ông bà Rắn” tan thây thì không hiểu sao lại ném ngược vào đồng bọn. Tụi lính lại xôn xao anh lính kia chắc bị “Rắn thần” nhập. Viên Trung úy chỉ huy cũng bị thương nặng và mấy ngày sau bị một con rắn độc cắn chết. Lính nguỵ toan phá hoại đình Rắn. Nhưng vì sợ không dám bén mảng đến đình, chúng dùng bom, lựu đạn hòng đánh sập ngôi đình linh thiêng. Tuy có hoang tàn, đổ nát nhưng đình Rắn vẫn là vùng đất linh bao bọc lấy các chiến sĩ cách mạng trong suốt những năm kháng chiến máu lửa kinh hoàng. Đến năm 1993, Bộ văn hóa thông tin công nhận đình Rắn là Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia. Nguồn: Tổng hợp báo nhân dân điện tử

Vĩnh Long 5632 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di tích Quốc gia đặc biệt Đồng Khởi Bến Tre

Di tích Đồng Khởi Bến Tre thuộc xã Định Thủy, huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre. Nơi diễn ra sự kiện lịch sử Đồng Khởi Bến Tre, mở đầu cho phong trào Đồng Khởi của cách mạng miền Nam Việt Nam. Tháng 5/1959, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 15 kiểm điểm tình hình trong nước và đề ra đường lối cách mạng của cả nước và của miền Nam, xác định nhiệm vụ cơ bản: Giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc, thực hiện độc lập dân tộc và người cày có ruộng, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, tiến tới xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh. Đầu tháng 12/1959, đồng chí Nguyễn Thị Định - Phó Bí thư Tỉnh ủy Bến Tre tổ chức cuộc họp tại Cù lao Minh, Tỉnh ủy Bến Tre đã chọn 3 xã Định Thủy, Phước Hiệp và Bình Khánh thuộc huyện Mỏ Cày (nay là huyện Mỏ Cày Nam) làm căn cứ chỉ đạo và là nơi bắt đầu Đồng Khởi. Vào 11 giờ trưa ngày 12/01/1960, tại xã Định Thủy, toàn thể nhân dân nổi dậy và tiến công địch. Mở đầu phong trào đồng khởi, sáng ngày 17/01/1960, lực lượng cách mạng bắt và xử tử Đội Tý - chỉ huy Tổng đoàn dân vệ, khét tiếng ác ôn. Tiếp đó, lực lượng cách mạng cùng quần chúng nhân dân, bao vây đình Rắn - nơi đóng quân của Tổng đoàn dân vệ và bao vây đánh chiếm đồn Vàm Nước. Lực lượng của ta chiếm được đồn và làm chủ tình hình, quân ta thu được 15 súng, 10 lựu đạn và 1000 viên đạn các loại, giải phóng toàn bộ tề xã, tề ấp ở Định Thủy, bọn tề ngụy và binh lính trong đồn tan rã,. Vào 10 giờ đêm 17/01/1960, được lệnh nổi dậy, nhân dân Phước Hiệp nhất tề đổ ra đường biểu dương sức mạnh hỗ trợ cho các tổ hành động bao vây đồn dân vệ và tề xã. Phước Hiệp chìm trong tiếng reo hò, trống mõ và tiếng nổ liên hồi của ống lói, tiếng loa kêu gọi đầu hàng. Nhân dân xã Phước Hiệp đã đập tan bộ máy kìm kẹp của địch, giành quyền làm chủ trong toàn xã. Ngày 18/01/1960, nhân dân xã Bình Khánh đã đồng loạt đứng lên đánh bọn tề ấp, tề xã, bọn do thám, chỉ điểm, giành được chính quyền. Do lực lượng tề ngụy ở đây rất mạnh nên phải đến 12 giờ đêm ngày 20/01/1960, xã Bình Khánh mới hoàn toàn được giải phóng. Theo sự chỉ đạo của tỉnh, nhân dân khắp huyện Mỏ Cày đồng loạt nổi dậy, ngày cũng như đêm; tiếng trống mõ liên hồi lan khắp Cù lao Minh, Cù lao Bảo. Các thanh niên nam nữ được tổ chức thành đội ngũ, trương cờ, vác súng lớn, súng nhỏ bằng bập dừa, kéo đi như nước vỡ bờ để biểu dương khí thế cách mạng, uy hiếp tinh thần địch, khiến chúng lo sợ nằm yên trong đồn bốt. Từ Bến Tre, phong trào Đồng Khởi nhanh chóng lan rộng khắp các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Đêm 24, rạng ngày 25/01/1960, nhiều vùng nông thôn đã nổi dậy diệt ác, phá kìm, giải tán tề xã, tề ấp, giành quyền làm chủ. Cho đến giữa năm 1960, ngọn lửa Đồng Khởi tiếp tục lan sang các tỉnh Tây Nguyên, làm thành cuộc khởi nghĩa dây chuyền sôi động khắp các tỉnh miền Nam và Tây Nguyên. Nhà Truyền thống Đồng Khởi được xây dựng năm 2001, có tổng diện tích 5.029,3m2, gồm các hạng mục chính: nhà đón tiếp, bia chiến thắng và nhà truyền thống. Nhà đón tiếp xây dựng bằng bê tông cốt thép, nền lát gạch men màu hồng, mái lợp ngói màu đỏ. Ngôi nhà có ba cửa ra vào bằng khung sắt sơn màu xám, lộng kính, cửa chính quay về hướng Đông, hai cửa phụ quay về hướng Nam. Bia chiến thắng được xây dựng phía bên phải của khu di tích, gồm bảy bậc tròn đồng tâm ốp đá mài màu xanh lam. Mặt trước quay về hướng Nam được chạm khắc tám chữ vàng “Anh dũng đồng khởi, thắng Mỹ diệt Ngụy”. Mặt sau bia khắc nội dung “Ngọn lửa thần kỳ” do tỉnh Bến Tre phát động cuộc thi viết văn bia ca ngợi Đồng Khởi năm 1960, và được khắc trên bia nhân kỷ niệm 45 năm ngày Đồng Khởi Bến Tre. Nhà Truyền thống có tầng trệt và một tầng lầu, trên nóc là biểu tượng ngọn đuốc Đồng Khởi cao 12m. Bên trong của tầng trệt trưng bày hình ảnh, tư liệu và hiện vật của phong trào đấu tranh chính trị của nhân dân Bến Tre từ tháng 7/1954 đến cuối năm 1959. Tầng lầu trưng bày hình ảnh, tư liệu và hiện vật trong phong trào Đồng Khởi. Nơi sảnh giữa có một bức tường cách điệu đắp nổi dòng chữ “Anh dũng đồng khởi, thắng Mỹ diệt Ngụy”, bên cạnh là sa bàn thể hiện phong trào Đồng Khởi Bến Tre. Di tích Đồng Khởi Bến Tre được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng là di tích quốc gia đặc biệt ngày 22 tháng 12 năm 2016 Nguồn: Cục di sản văn hoá

Vĩnh Long 5895 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Điểm di tích nổi bật