Nằm trên địa bàn thị xã An Khê, tỉnh Gia Lai, phức hợp di tích sơ kỳ Đá cũ Rộc Tưng - Gò Đá gồm di tích Gò Đá ở phường An Bình và 12 di tích Rộc Tưng ở xã Xuân An, thị xã An Khê, tỉnh Gia Lai. Trong đó, 4 địa điểm đã khai quật là Gò Đá, Rộc Tưng 1, Rộc Tưng 4 và Rộc Tưng 7. Số còn lại đều đã đào thám sát và xác nhận thuộc cùng phức hợp với Rộc Tưng - Gò Đá. Gò Đá Nằm ở phường An Bình, thị xã An Khê, tỉnh Gia Lai, có tọa độ 13058’19,2” vĩ Bắc, 1080 39’05,1” kinh Đông, độ cao tuyệt đối 421,5m. Di tích nằm ở bờ phải và cách sông Ba khoảng 1,5km, trong vùng địa hình đồi sót của sông Ba bị bóc mòn tích tụ, niên đại sơ kỳ Cánh Tân (QI). Di tích được khai quật 2 lần (năm 2015 và 2016), với tổng diện tích là 94m2, do Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Gia Lai phối hợp với Viện Khảo cổ học Việt Nam và Viện Khảo cổ học - Dân tộc học Novosibirsk thuộc Viện Hàn lâm khoa học Nga tiến hành. Di tích Gò Đá có 1 tầng văn hóa, cấu tạo từ đá granite phong hóa tại chỗ, chứa công cụ đá và mảnh thiên thạch. Một số đặc trưng chung: đa số được làm từ đá quartz, quartzite, kích thước lớn, loại hình nổi trội là công cụ ghè hai mặt, mũi nhọn tam diện, nạo, công cụ chặt, mảnh tước, hòn ghè, chày…được ghè đẽo thô sơ, ít tu chỉnh, có hình thái khác và cổ hơn các di tích sơ kỳ Đá cũ hiện biết ở Việt Nam như Núi Đọ (Thanh Hóa) và Xuân Lộc (Đồng Nai). Gò Đá là di tích cư trú, chế tác công cụ của cư dân sơ kỳ Đá cũ, ở giai đoạn người đứng thẳng (Homo erectus), trong dòng tiến hóa của nhân loại từ đây lên người hiện đại (Homo sapiens) và là bằng chứng về văn hóa đầu tiên của nhân loại. Rộc Tưng 1 Nằm ở xã Xuân An, có tọa độ 14002’25,3” vĩ Bắc, 1080 40’82,2” kinh Đông, độ cao tuyệt đối 556m. Nằm ở bờ trái và cách sông Ba khoảng 2,5km, được khai quật 3 lần (năm 2016, 2017 và 2018); Năm 2016, khai quật hố 1 với diện tích 48m2 (6m x 8m); năm 2017, khai quật hố 2 với diện tích 70m2 (10m x 7m), được chọn dựng nhà trưng bày tại chỗ khi đào đến lớp 1.2. ở độ sâu 0,8m -1,1m (xuất lộ tầng văn hóa); năm 2018, khai quật 20m2 trong phạm vi 70m2 của hố 2, ở độ sâu lớp 2.2. còn lại 50m2 được bảo tồn trong nhà mái che. Rộc Tưng 1 là di tích cư trú và nơi chế tác, trong đó yếu tố cư trú khá điển hình, thể hiện ở bề mặt tầng văn hóa có một số cụm đất đá, liên kết rắn chắc, nổi cao hơn xung quanh, trong đó tập trung cao các mảnh đá thạch anh, một vài hạch đá, mảnh tước và công cụ ghè đẽo. Niên đại di tích Rộc Tưng 1, về cấu tạo địa chất cơ bản giống Gò Đá, thuộc sơ kỳ Pleistocene, về đặc điểm di vật cùng tồn tại của công cụ ghè hai mặt, ghè hết một mặt, mũi nhọn tam diện, nạo, choppers… mang đặc trưng sơ kỳ Đá cũ. Rộc Tưng 1 là di tích cư trú và nơi chế tác, trong đó yếu tố cư trú khá điển hình, thể hiện ở bề mặt tầng văn hóa có một số cụm đất đá, liên kết rắn chắc, nổi cao hơn xung quanh, trong đó tập trung cao các mảnh đá thạch anh, một vài hạch đá, mảnh tước và công cụ ghè đẽo. Rộc Tưng 4 Nằm ở tọa độ 14002’2,7” vĩ Bắc và 108040’35,7” kinh Đông, cao 430m, nằm cách Rộc Tưng 1 khoảng 500m và cùng ở bờ trái sông Ba. Di tích được thám sát tháng 11/2015 và khai quật vào năm 2016, 2017 và 2018. Kết quả khai quật 4 hố ở di tích Rộc Tưng 4 cho thấy, các hố có cấu trúc địa tầng, đặc điểm hiện vật giống nhau, phản ánh tính chất cư trú và chế tác công cụ. Tổ hợp công cụ đá ở các địa điểm Rộc Tưng 4 về cơ bản giống Rộc Tưng 1 và Gò Đá. Rộc Tưng 7 Nằm ở xã Xuân An, thị xã An Khê, tọa độ 14001’452” vĩ Bắc và 108041’11,3” kinh Đông, cao 438m. Di tích được phát hiện năm 2016 và khai quật 2 lần (năm 2017 và 2018) với tổng diện tích 40m2. Kết quả khai quật thu được một số công cụ đá, để chặt, mũi nhọn, nạo, công cụ ghè hai mặt, hạch và nhiều mảnh tước. Rộc Tưng 7 có đặc điểm, tính chất và niên đại tương tụ như các địa điểm đã khai quật ở thung lũng An Khê. Việc phát hiện, thám sát di tích Rộc Tưng 7 đã bổ sung vào danh sách các địa điểm sơ kỳ Đá cũ hiện biết ở vùng đồi gò thung lũng An Khê, bổ sung thêm bằng chứng về sự hiện diện của cộng đồng người giai đoạn tối cổ của nhân loại trên đất nước Việt Nam. Các di tích khảo cổ Đá cũ ở An Khê đều phân bố trên các đồi gò cao trung bình 420 - 450m so với mực nước biển, thuộc vùng chuyển tiếp từ cao nguyên xuống đồng bằng ven biển miền Trung Việt Nam. Tổ hợp hiện vật trong các di tích sơ kỳ Đá cũ An Khê có sự thống nhất, ổn định về chất liệu, loại hình, kỹ thuật chế tác, mang đặc trưng chung của một kỹ nghệ sơ kỳ Đá cũ, mang tên kỹ nghệ An Khê. Kỹ nghệ An Khê được đặc trưng bởi tổ hợp công cụ đá làm từ cuội sông, suối tại địa phương, kích thước lớn, đá cứng, hạt mịn, chủ yếu là quartz và quartzite. Công cụ đá được ghè đẽo thô sơ với các loại hình tiêu biểu: công cụ ghè hai mặt (beface), rìu tay (Handaxe), mũi nhọn (pick), mũi nhọn tam diện và công cụ chặt thô (chopper). Trong đó, công cụ chặt thô chủ yếu phân bố ở khu vực châu Á, công cụ ghè hai mặt và rìu tay nổi trội cho Đá cũ phương Tây, còn mũi nhọn và mũi nhọn tam diện rõ nét nhất ở sơ kỳ Đá cũ vùng An Khê. Với những giá trị tiêu biểu trên, Rộc Tưng - Gò Đá, tỉnh Gia Lai được Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng Di tích khảo cổ học quốc gia theo Quyết định số 3237/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thể Thao Du Lịch ngày 04/11/2020. Ngày 29/12/2022, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã ký Bằng xếp hạng công nhận “Di tích quốc gia đặc biệt” đối với Rộc Tưng-Gò Đá ở thị xã An Khê, Gia Lai. Nguồn Cục Di Sản Văn Hóa.
Gia Lai 1619 lượt xem
Cao 800m so với mực nước biển, Núi Bà là dãy núi cao nhất và lớn nhất ở vùng đồng bằng Bình Định. Trên núi có 66 đỉnh cao thấp khác nhau, những khối đá khổng lồ đủ hình thù, có nhiều cánh rừng, con suối, các điểm uốn lượn, gấp nếp của các sườn đồi tạo địa hình hiểm trở... Trong kháng chiến chống Mỹ, núi Bà giữ vị trí chiến lược quan trọng, đặc biệt đối với địa bàn khu Đông. Nơi đây từng là căn cứ hoạt động của Tỉnh ủy, các cơ quan, đơn vị lực lượng vũ trang của tỉnh, Thị ủy Quy Nhơn và các huyện ủy An Nhơn, Tuy Phước, Phù Cát. Từ căn cứ này, Tỉnh ủy đã chỉ đạo kháng chiến, mở nhiều lớp đào tạo, huấn luyện lực lượng vũ trang, cán bộ cơ sở cách mạng. Núi Bà cũng là bàn đạp mở nhiều đợt tấn công, nổi dậy trong chiến dịch Đồng khởi khu Đông năm 1964, chiến dịch Xuân Mậu Thân năm 1968 và cuộc tổng tiến công, nổi dậy mùa Xuân năm 1975 giải phóng Thị Xã Quy Nhơn và tỉnh Bình Định. Khu căn cứ Núi Bà là nơi ghi dấu về cuộc sống gian khổ, tinh thần chiến đấu kiên cường và những chiến công hào hùng của các thế hệ cán bộ, chiến sĩ, nhân dân Bình Định trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập, tự do cho đất nước. Di tích lịch sử và thắng cảnh Khu căn cứ Núi Bà được xếp hạng cấp quốc gia năm 1994, với 22 điểm di tích ở trên dãy Núi Bà thuộc thị trấn Cát Tiến và các xã Cát Hải, Cát Tài, Cát Hưng, Cát Hanh, Cát Thành của huyện Phù Cát. Tượng đài chiến thắng Núi Bà có địa thế đẹp “tựa sơn hướng thủy”, lại gần bãi biển Trung Lương, chùa ông Núi (Linh Phong) - vốn thu hút đông đảo du khách. Vì thế đây là điểm đến rất thích hợp để tổ chức các chuyến du khảo, dã ngoại về nguồn, đặc biệt là với các bạn đoàn viên, thanh niên. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Bình Định.
Gia Lai 2036 lượt xem
Đây là di tích lích sử ghi nhận về cuộc biểu tình (đêm 22 rạng ngày 23/7/1931) của hơn 3000 quần chúng nhân dân huyện Hoài Nhơn đấu tranh phản đối thực dân Pháp và bè lũ tay sai chấm dức đàn áp nhân dân Nghệ Tĩnh và Đức Phổ. Tháng 7 năm 1931, thực hiện chủ trương của Xứ ủy Trung Kỳ, Đảng bộ Hoài Nhơn đã tổ chức vận động quần chúng nhân dân xuống đường đấu tranh phản đối chính sách khủng bố trắng của đế quốc Pháp, đàn áp phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh và nhân dân Đức phổ Quãng Ngãi. Đêm 22 rạng ngày 23/7/1931, đoàn biểu tình hơn 3 nghìn người từ các xã phía Bắc huyện Hoài Nhơn tập trung thành các cánh quân sôi sục tiến về phủ đường Bồng Sơn. Đoàn biểu tình tiến đến đâu đều trấn áp đoàn phu, đốt trụi các điếm canh dọc đường. Khoảng 1h30 sáng ngày 23/7/1931, khi đoàn biểu tình kéo đến Cây số 7 Tài Lương ( xã Hoài Thanh Tây) thì bị binh lính địch chặn lại và đàn áp đẫm máu cuộc biểu tình. 13 Đảng viên và quần chúng đã hy sinh, một Đảng viên bị kết án tử hình, 3 Đảng viên bị kết án tù chung thân, 20 Đảng viên bị lưu đày lên nhà lao Buôn Mê Thuộc, 11 đồng chí bị đày lên ngục Kon Tum, 47 đồng chí bị giam cầm tại nhà lao Bình Định và hàng trăm quần chúng bị giam cầm tại nhà lao Phù Ly. Cuộc biểu tình đã làm rung chuyển bộ máy tay sai của chính quyền thực dân Pháp. Cuộc biểu tình tiêu biểu cho khí thế đấu tranh của công, nông trong cao trào 1930 - 1931; thể hiện ý chí sắt đá, một lòng kiên quyết bảo vệ và duy trì các phong trào cách mạng trong thời điểm khó khăn, ác liệt nhất của nhân dân Hoài Nhơn nói riêng và tỉnh Bình Định nói chung. Ngày 26.1.2011, Bộ trưởng Bộ Văn Hóa -Thể Thao &Du Lịch đã có Quyết định số 323 xếp hạng di tích quốc gia cho di tích lịch sử địa điểm lưu niệm cuộc biểu tình năm 1931 tại cây số 7 Tài Lương (xã Hoài Thanh Tây, huyện Hoài Nhơn). Nguồn Cổng thông tin điện tử thị xã Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định.
Gia Lai 1979 lượt xem
Được xây dựng vào cuối thế kỉ XII, nằm ở phường Đống Đa, TP. Quy Nhơn, là một công trình kiến trúc đẹp và độc đáo gồm hai tháp. Tháp Đôi được xếp vào loại đẹp “độc nhất vô nhị” của nghệ thuật kiến trúc Chămpa. Cả 2 ngôi tháp đều không phải là tháp vuông nhiều tầng theo truyền thống của tháp Chăm mà là một cấu trúc gồm hai phần chính: khối thân vuông và phần đỉnh hình tháp mặt cong, các góc tháp hiện lên những tượng chim thành Garuda hai tay đưa cao như muốn nâng đỡ mái tháp. Vòm trên của các cửa vút cao lên như những mũi tên. Kiến trúc của tháp Đôi chịu ảnh hưởng của nghệ thuật Ấn Độ giáo. Tháp được Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng là di tích Kiến trúc Nghệ thuật năm 1980. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Bình Định.
Gia Lai 2091 lượt xem
Đền thờ Đô đốc Bùi Thị Xuân được khởi công xây dựng ngày 20/9/2007 trên khu đất rộng 5.191m2, thuộc khối Phú Xuân, thị trấn Phú Phong, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định; cách di tích lịch sử Từ đường Bùi Thị Xuân khoảng 500 mét về hướng Tây Nam. Đền thờ do Công ty TNHH xây dựng Tân Phương và Công ty TNHH xây dựng Duy Tân phối hợp thi công và khánh thành ngày 10/7/2008. Việc xây dựng Đền thờ Đô đốc Bùi Thị Xuân là thể hiện tấm lòng tri ân, góp phần giáo dục thế hệ trẻ Việt Nam về truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc. Đền có diện tích 178 m2, xây dựng theo lối kiến trúc cổ lầu.,có 3 gian.Trong nội thất đặt 3 án thờ: Gian chính giữa đặt án thờ và tượng Đô đốc Bùi Thị Xuân; Tượng làm bằng gốm sứ và dát vàng bên ngoài với tư thế ngồi theo tỉ lệ 1/1 thể hiện thần thái của vị võ tướng văn võ song toàn; hai bên trước án thờ đặt cặp bát bộ binh khí và cặp liễn gỗ cẩn ốc, nội dung như câu đối thờ tại di tích Từ đường Bùi Thị Xuân: Nguyệt chiếu thanh khê lưu cựu hóa Sương kinh cao ngạn thái tiên tình Tạm dịch là: Răng rọi khe xanh in bóng cũ Sương gieo ngàn thẳm chạnh tình xưa. Bên trái án thờ bà là hương án, bên trên có đặt bài vị gia tiên bằng gỗ sơn son thếp vàng. Bên phải án thờ bà là hương án, bên trên có đặt bài vị thờ các tướng lĩnh dưới trướng bà bằng gỗ son thếp vàng. Bùi Thị Xuân sinh trưởng trong một gia đình nông dân giàu truyền thống yêu nước ở làng Xuân Hòa, huyện Tuy Viễn, phủ Quy Nhơn (nay là khối Phú Xuân, thị trấn Phú Phong, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định ). Ông tổ của Bà là Bùi Đắc Thọ là người làng Hội An, huyện Quảng Điền, phủ Nghệ An, di cư vào Đàng Trong lập nghiệp tại ấp Tây Sơn vào cuối thế kỷ XVII. Ông sinh được ba người con trai là Bùi Công Ái, Bùi Công Nghĩa và Bùi Công Minh. Ông Bùi Công Ái sinh ra ông Bùi Đắc Kế là thân sinh của Bùi Thị Xuân. Năm 1771, Bùi Thị Xuân tham gia phong trào khởi nghĩa Tây Sơn và được Nguyễn Nhạc giao trọng trách huấn luyện tân binh, thuần dưỡng voi chiến, Bà đã huấn luyện thuần thục hàng trăm thớt voi chiến, góp phần không nhỏ vào những chiến công vang đội của quân đội Tây Sơn gắn liền với tên tuổi và sự nghiệp lẫy lừng của người anh hùng dân tộc Quang Trung - Nguyễn Huệ sau này. Năm 1778, Bà được Hoàng đế Thái Đức phong chức Đô đốc chỉ huy cấm vệ quân, bảo vệ kinh thành Hoàng Đế (An Nhơn, Bình Định); Từ năm 1786 đến năm 1792, Bà cùng chồng là Thiếu phó Trần Quang Diệu phò tá Nguyễn Huệ tiêu diệt tập đoàn phong kiến Lê -Trịnh, xóa bỏ ranh giới sông Gianh đã chia cắt đất nước hơn 200 năm, đặt cơ sở cho sự nghiệp thống nhất đất nước sau này. Sau khi Quang Trung băng hà, Bà được Cảnh Thịnh giao giữ trọng trách chỉ huy đạo quân cấm vệ bảo vệ kinh đô Phú Xuân. Năm 1802, Bà chỉ huy 5000 quân góp mặt trong trận đánh ở lũy Trấn Ninh (Quảng Bình) khiến quân Nguyễn hết sức khiếp sợ. Chuyện kể rằng: khi đối mặt với vua Gia Long Bà khẳng khái cho rằng: Nếu có một nữ tướng như ta nữa thì cửa Nhật Lệ không để lạnh. Nhà ngươi khó mà đặt chân được tới đất Bắc Hà. Bùi Thị Xuân là một nữ kiệt tài sắc vẹn toàn, can trường tiết liệt, Bà đã hiến dâng cả cuộc đời cho sự nghiệp đấu tranh chống giặc ngoại xâm thống nhất nước nhà. Tên tuổi Bà đã đi vào lịch sử và mãi mãi là niềm tự hào của phụ nữ Việt Nam. Bà mất ngày 30/11/1802 tại Phú Xuân (Huế). Hằng năm, vào ngày mùng 6 tháng 11 âm lịch Bảo tàng Quang Trung long trọng tổ chức lễ tưởng niệm Bà, du khách từ mọi miền đất nước về tham dự rất đông và cùng thắp nén tâm hương tưởng nhớ công tích sự nghiệp vị nữ anh hùng, người con ưu tú của quê hương Tây Sơn – Bình Định. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định.
Gia Lai 1924 lượt xem
Từ đường họ Võ nằm cuối thôn Phú Mỹ, xã Tây Phú, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định (xưa là thôn Phú Lộc, huyện Tuy Viễn, phủ Quy Nhơn), nơi đây là vùng đất hiểm trở: đất hẹp, dân thưa, núi non trùng điệp, dân cư chủ yếu sống bằng nghề nông, khai thác lâm thổ sản và săn bắt. Chính quá trình đấu tranh cải tạo thiên nhiên khắc nghiệt để tạo dựng cuộc sống đã tôi luyện con người Phú Lộc đức tính cần cù lao động và tinh thần thượng võ. Võ Văn Dũng được tiếp thu tinh thần thượng võ của quê hương mình nên ngay từ nhỏ ông đã học được nhiều môn võ thuật cổ truyền như: cung, đao, kiếm… truyền thống của quê hương. Ông là người thông minh tài trí, lại giỏi võ nghệ nên Võ Văn Dũng sớm được đứng vào hàng tướng lĩnh của quân đội Tây Sơn, tên tuổi của ông gắn liền với những chiến công oanh liệt của dân tộc thời Tây Sơn. Tộc họ Võ sử dụng nhà từ đường họ để thờ Võ Văn Dũng và đã được Bộ Văn hóa xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia năm 1988 theo Quyết định số: 1288/Quyết Định -Bộ Văn Hóa , ngày 24/9/1988. Theo quy hoạch, Uỷ Ban Nhân Dân tỉnh đang có kế hoạch xây dựng mới Đền thờ Võ Văn Dũng trên quê hương của võ tướng, dọc theo con đường đi vào khu du lịch danh thắng Hầm Hô. Để tưởng nhớ, tri ân vị anh hùng, người con của quê hương; tỉnh Bình Định xây dựng đền thờ Đại Tư Đồ Võ Văn Dũng nhằm giáo dục truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc cho các thế hệ hôm nay và mai sau. Đền thờ được khởi công xây dựng ngày 21 tháng 10 năm 2021 trên khu đất rộng 1,05 ha thuộc thôn Phú Lâm, xã Tây Phú, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định, cách di tích lịch sử Từ Đường Võ Văn Dũng khoảng 2,5 km về hướng Tây Bắc. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Bình Định.
Gia Lai 2064 lượt xem
Đền thờ Tăng Bạt Hổ đã được tộc họ và chính quyền huyện Hoài Ân xây dựng năm 2001, đến năm 2003 được Ủy ban Nhân dân tỉnh Bình Định công nhận là Di tích lịch sử cấp tỉnh. Đến tháng 8/2013 được Bộ Văn Hóa Thể Thao Du Lịch xếp hạng Di tích lịch sử cấp Quốc gia. Để tri ân, ghi nhận công lao sự nghiệp của nhà chí sỹ Tăng Bạt Hổ trong lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc chống thực dân Pháp xâm lược, từ năm 2012 đến nay, từ nguồn kinh phí của Nhà nước, sự hỗ trợ của các tổ chức trong nước đã huy động được trên 5 tỷ đồng để nâng cấp Đền thờ Tăng Bạt Hổ trong khuôn viên được quy hoạch 5.300m2 (gấp 10 lần so với trước đây), trong đó diện tích xây dựng đền thờ chính 160m2, cùng nhiều công trình tường rào, cổng ngõ và cảnh quan trong khuôn viên của Đền thờ. Nhà chí sỹ Tăng Bạt Hổ (1858-1906), quê ở làng An Thường, xã Ân Thạnh, huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định. Xuất thân trong một gia đình có truyền thống yêu nước, lớn lên ông tham gia chiến đấu chống Pháp trong quân đội triều đình nhà Nguyễn lúc bấy giờ, tham gia phong trào Cần Vương. Đến khi phong trào Cần Vương ở Bình Định thất bại, ông bôn ba nhiều nơi để tìm đường cứu nước và cuối cùng đã tham gia phong trào Đông Du do cụ Phan Đình Phùng lãnh đạo. Những hoạt động phong phú và đa dạng trong suốt 30 năm, qua 4 thời kỳ cho thấy ông là một nhà yêu nước quật cường, bất khuất, luôn nung nấu ý chí “phục thù báo quốc.” Việc nâng cấp và công nhận Di tích lịch sử cấp quốc gia Đền thờ Tăng Bạt Hổ thể hiện sự đánh giá cao về tầm vóc, những cống hiến lớn lao của nhà chí sỹ yêu nước, chống giặc ngoại xâm để giải phóng dân tộc; qua đó giáo dục truyền thống yêu nước và cách mạng cho các thế hệ hôm nay và mai sau. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Bình Định.
Gia Lai 2035 lượt xem
Tháp Bình Lâm là một ngôi tháp Chămpa cổ tại thôn Bình Lâm, xã Phước Hòa, huyện Tuy Phước, cách Tp.Quy Nhơn 22km. Đây là một ngôi tháp tương đối đặc biệt ở Bình Định, vì khác với các tháp khác nằm trên đồi thì tháp Bình Lâm nằm ngay trên đồng bằng và như hòa mình vào thiên nhiên và khu dân cư bao quanh. Tháp có bình đồ vuông, mỗi cạnh khoảng 10m, cao khoảng 20m chia làm 3 tầng, trang trí hoa văn tinh tế, kiến trúc hài hòa với những đường nét vừa tinh tú vừa khỏe khoắn. Tháp được xếp hạng là di tích Kiến trúc Nghệ thuật vào năm 1993. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Bình Định.
Gia Lai 2054 lượt xem
Đào Duy Từ (1572-1634) là một nhân vật lịch sử thế kỷ 17, một người tỏ ra xuất sắc trên nhiều lĩnh vực kinh tế, chính trị, quân sự và văn hóa. Đào Duy Từ sinh năm 1572 tại phủ Tĩnh Gia, Thanh Hóa (tức huyện Tĩnh Gia, Thanh Hóa ngày nay). Vốn là người tinh thông sử sách, lý số và binh pháp, nhưng do bị kìm hãm dưới Triều Lê-Trịnh, không cho ông thi vào hạng Cổng Cử (tức Cử nhân) vì xuất thân từ gia đình kép hát (xướng ca vô loài), nên ông uất chí bỏ vào Đàng Trong lập nghiệp. Đó là vào năm 1625, khi đó Đào Duy Từ đã 53 tuổi. Khi mới vào Nam, do gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống, ông phải ẩn thân đi ở chăn trâu cho nhà phú hộ Chúc Trịnh Long ở xã Bồ Đề (nay thuộc thị trấn Bồng Sơn, huyện Hoài Nhơn thuộc tỉnh Bình Định).Vì mến tài của Đào Duy Từ, quan Khám lý Trần Đức Hòa đã gả con gái cho đồng thời tiến cử Đào Duy Từ cho Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên (quan Khám lý Trần Đức Hòa (còn gọi là Cống Quận công) người cùng xã và cũng là anh em kết nghĩa với Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên (còn gọi là Thụy Quận Công). Chúa Sãi đã phong cho ông làm Nội tán, xem như người tâm phúc. Do được trọng dụng, ông đã hết lòng tận tụy giúp chúa Nguyễn về tổ chức quân sự, chính trị, văn hóa và đã đương đầu thành công với Chúa Trịnh ở Đàng Ngoài và được chúa Sãi ví như Ngọa Long Gia Cát (Khổng Minh) của mình. Sinh thời, ông sáng tác nhiều tác phẩm văn, thơ và là ông tổ của nghệ thuật hát tuồng, nổi tiếng với hai ngâm khúc là "Ngọa Long cương văn" và "Tư Dung vãn". Ông đồng thời là tác giả bộ sách quân sự đặc biệt "Hổ trướng khu cơ", được xem là một trong hai bộ sách về nghệ thuật quân sự (tác phẩm kia là "Binh thư yếu lược") của người Việt Nam. Ông mất năm Giáp Tuất (1634), thọ 62 tuổi. Sau khi mất, được Chúa Sãi phong tặng “ Hiệp niên đồng đức công thần, Đặc tiến kim tứ Vinh lộc đại phu” cho thờ ở Thái Miếu. Đến triều Minh Mạng, Đào Duy Từ được truy phong tước” Đại học sỹ -Thái Sư Hoằng Quốc công” và cho lập đền thờ tại nơi ở của ông - nay là thôn Ngọc Sơn, xã Hoài Thanh Tây, huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định. Đền thờ ngày nay vẫn giữ được khuôn viên của nó và vẫn được dòng họ và nhân dân địa phương thờ tự và gìn giữ. Ngày 15/10/1994, khu Đền thờ Đào Duy Từ được công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử thị xã Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định.
Gia Lai 2287 lượt xem
Đào Tấn (Đào Đăng Tiến, Đào Tiến), tự Chỉ Thúc, hiệu Mộng Mai, Mai Tăng, sinh năm Ất Tỵ (năm 1845). Ông quê làng Vinh Thạnh, phủ Tuy Phước, nay thuộc thôn Vinh Thạnh, xã Phước Lộc, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định. Ông đậu cử nhân năm Đinh Mùi (năm 1867), 4 năm sau, vua Tự Đức mời ông vào Hiệu Thư triều đình Huế, chuyên soạn các vở tuồng theo lệnh nhà vua. Năm Giáp Thìn (năm 1904), ông về hưu sau khi giữ chức Thượng Thư Bộ Công. Ông là người yêu nước nổi tiếng thanh liêm, đồng thời là nhà thơ, nhà biên soạn và đạo diễn tuồng xuất sắc của Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Với những đóng góp to lớn, Đào Tấn được suy tôn là “Hậu Tổ” của nghệ thuật tuồng Việt Nam. Mộ Đào Tấn được khởi dựng sau khi ông qua đời tại quê nhà ngày 15.7.1907 (năm Thành Thái thứ 19) theo nghi lễ Quốc Triều. Mộ của ông toạ lạc trên núi Huỳnh Mai (Hoàng Mai) thuộc thôn Huỳnh Mai, xã Phước Nghĩa, huyện Tuy Phước, cách thành phố quy Nhơn 15 km. Mộ nhìn về hướng nam, hướng về ngôi làng nơi ông từng sinh sống. Mộ Đào Tấn dài 3 mét, rộng 2 mét, trước mộ có bia ghi thời điểm lập mộ và bình phong che chắn. Xung quanh mộ là khuôn viên hình chữ nhật được bo tròn, trước có trụ cổng, lưng có bình phong mang hình cuốn thư. Trước và sau ngôi mộ có 4 con sư tử đứng chầu, đuôi vểnh lên trên, mặt nhìn ra hướng chính diện. Di tích này đã được Bộ Văn hoá – thông tin xếp hạng ngày 24.1.1998. Năm 1994, Sở Văn hoá – Thông tin Bình Định phối hợp với Uỷ Ban Nhân Dân huyện Tuy Phước cùng với xã Phước Nghĩa tiến hành gia cố, trùng tu mộ Đào Tấn dựa trên nguyên bản. Ngày nay, di tích mộ Đào Tấn là địa điểm tham quan của du khách gần xa mến mộ người nghệ sĩ đã có nhiều cống hiến cho nghệ thuật, nơi dâng hương tưởng nhớ danh nhân tài hoa của đất nước do ngành Văn hoá – Thông tin tỉnh và Uỷ Ban Nhân Dân huyện Tuy Phước tổ chức ngày 15.7 âm lịch hàng năm. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Bình Định.
Gia Lai 1972 lượt xem
Chùa Nhạn Sơn tục gọi là chùa Ông Đá, thuộc địa phận thôn Bắc Nhạn Tháp, xã Nhơn Hậu, thị xã An Nhơn, cách thành phố Quy Nhơn 23km về phía Tây Bắc. Ngôi chùa nằm dưới bóng một vườn xoài, lưng dựa vào núi Long Cốt, phía trước là Hồ Sen với cảnh trí thơ mộng. Chùa Nhạn Sơn có giá trị lớn về lịch sử và nghệ thuật, là sự giao thua giữa văn hoá Chăm bản địa và văn hoá Việt mà đặc biệt hơn cả là hai pho tượng bằng đá sa thạch khổng lồ thờ bên trong khuôn viên chùa - một phong cảnh điêu khắc Chăm. Đây là hai tượng Dvarapalla( Môn Thần) với ý nghĩa người bảo vệ cho đạo pháp, đứng đối xứng nhau 2,3m rất sống động. Nghệ thuật điêu khắc mang phong cách điển hình của nghệ thuật điêu khắc Chămpa thế kỷ XII, XIII. Hai tượng đá được sơn đen, đỏ tượng trưng cho ông thiện và ông ác trong tín ngưỡng của người Việt. Năm 2011, ngôi chùa này được Bộ Văn hóa - Thể Thao và Du lịch xếp hạng Di tích kiến trúc nghệ thuật; nơi lưu giữ hai tượng môn thần - tác phẩm điêu khắc Chăm thế kỉ XIII. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Bình Định.
Gia Lai 1994 lượt xem
Tàu không số cập bến Lộ Diêu là tàu không số vận chuyển vũ khí đầu tiên cho Quân khu 5 và là chuyến tàu không số duy nhất cập bến vùng biển Bình Định. Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, Trung tá Hồ Đắc Thạnh, nguyên Thuyền trưởng tàu không số là người tham gia vận chuyển 3 chuyến vũ khí vào tỉnh Phú Yên nói riêng và 12 chuyến vào miền Nam nói chung. Những vũ khí do những con tàu không số mang vào đã góp phần tạo nên chiến thắng An Lão, Đèo Nhông-Dương Liễu, góp phần thay đổi cục diện chiến trường miền Nam để đi đến thống nhất đất nước. Di tích Bến tàu không số Lộ Diêu được đầu tư 15,8 tỷ đồng, xây dựng trên diện tích 15.000m2. Điểm nhấn của di tích là một phần con tàu được làm bằng đá, mô phỏng con tàu không số năm xưa. Đây là nơi ghi nhớ công ơn của những chiến sỹ “tàu không số 401” và là địa điểm giáo dục truyền thống cách mạng đối với người dân huyện Hoài Nhơn. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Bình Định.
Gia Lai 2059 lượt xem
Tháp Phú Lốc còn có tên gọi là tháp Thốc Lốc, tháp Phốc Lốc, hay tháp Vàng (Tour d'Or) như những nhà nghiên cứu người Pháp đã gọi, là một ngôi tháp Chăm Pa cổ thuộc xã Nhơn Thành, thị xã An Nhơn cách Thành Phố Quy Nhơn 35km về phía bắc. Đây là một ngôi tháp thuộc phong cách Bình Định, nhưng đồng thời phong cách kiến trúc có ảnh hưởng một phần từ kiến trúc Angkor của người Khmer. Tháp được xây dựng trên một đỉnh đồi có độ cao là 76m, vì thế tháp Phú Lốc nổi bật lên giữa vùng đồng bằng tỉnh Bình Định như một ngọn hải đăng khổng lồ. Như các tháp mang phong cách Bình Định, các cột ốp, đặc biệt là các cột ốp ở góc, các ô dọc giữa các cột ốp nhô mạnh ra và hoàn toàn để trơn. Các cửa giả đều co ba thân và ba tầng như ở các tháp Cánh Tiên và tháp Thủ Thiện. Phần trên các tầng của các cửa giả là vòm cung nhọn khá dài trông như hình mũi giáo, cả hai tầng còn lại phía trên của tháp đều cùng lặp lại kiểu dáng và bố cục của phần thân. Tháp Phú Lộc, được xây dựng vào đầu thế kỷ 12, mang phong cách Bình Định. Đây là thời kỳ luôn có sự giao tranh thường xuyên giữa Chăm Pa và vương quốc Khmer, có nghiên cứu cho biết tháp này được xây dựng trong thời kỳ quân đội Khmer đang chiếm đóng kinh đô Vijaya, Bình Định bởi vị vua người Chăm là Vidyanandana do người Khmer dựng nên, vì thế kiến trúc và nghệ thuật Angkor ảnh hưởng rất nhiều trong việc xây dựng tháp này. Tháp có vẻ đẹp ngạo nghễ nhưng đượm buồn, đứng từ chân tháp du khách có thể nhìn khắp 4 hướng những cảnh trí kỳ vĩ xung quanh. Tháp được Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng di tích Kiến trúc Nghệ thuật năm 1995. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Bình Định.
Gia Lai 2331 lượt xem
Tháp Long Dương ở xã Tây Bình, huyện Tây Sơn, cách Thành Phố Quy Nhơn khoảng 50km, được xây dựng vào cuối thế kỉ XII, đây là thời kỳ phát triển rực rỡ nhất của nền văn hóa Champa. Cụm tháp này gồm ba tháp: Tháp giữa cao 42m, tháp Nam cao 36m và tháp Bắc cao 34m. Phần thân của các tháp xây bằng gạch, các góc được ghép bởi những tảng đá lớn chạm trổ công phu. Tính quy mô của tháp Dương Long được thể hiện không chỉ ở chiều cao của nó (cao nhất trong các tháp Chăm còn lại ở Việt Nam) mà còn ở lối kiến trúc độc đáo, đặc biệt là các hoa văn, hoạ tiết được khắc tạc trực tiếp trên những tảng đá đồ sộ đặt ngay trên đỉnh tháp với nghệ thuật điêu khắc chạm trổ điêu luyện, các đường nét thể hiện vừa hoành tráng vừa lộng lẫy, vừa tinh tế mềm mại, những con vật và họa tiết trang trí vừa sống động chân thực, vừa huyền ảo kì bí. Tháp Dương Long được đánh giá là một trong những tháp Chăm đẹp nhất Việt Nam. Tháp Dương Long được Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng là di tích Kiến trúc Nghệ thuật năm 1980 và được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng là di tích quốc gia đặc biệt ngày 23/12/2015. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Bình Định
Gia Lai 2216 lượt xem
Tháp Thủ Thiện là một ngôi tháp cổ Chăm Pa hiện nằm ở bờ nam sông Côn, thuộc địa phận làng Thủ Thiện, xã Bình Nghi, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định Đến nay thì tháp vẫn còn khá nguyên vẹn. Không như một số cụm tháp Chăm Pa khác, tháp Thủ Thiện là di tích chỉ có một ngôi tháp. Trước năm 1985, trên đỉnh tháp Thủ Thiện bị một cây đa đồ sộ mọc trên đỉnh tháp phủ kín, vào những năm 1980 cả ngôi tháp Thủ Thiện như biến thành một gốc cây đa cổ thụ, không ai dám chặt cây đa này vì cả tháp và cây đều như đã trở thành linh thiêng, điều cũng tương tự với các tháp khác có cây mọc trên. Tuy nhiên trận bão năm 1985 đổ bộ vào tỉnh Bình Định đã thổi bay cây đa khổng lồ khỏi đỉnh tháp, nhưng rất kỳ lạ là cây đa đổ xuống mà không hề làm hư hại lớn cho tháp chăm cổ này. Như các ngôi tháp Chăm truyền thống khác, tháp Thủ Thiện là một kiến trúc tháp tầng vuông gồm thân và ba tầng phía trên mô phỏng than tháp nhưng nhỏ hơn. Trên các mặt tường phía ngoài của than và các tầng tháp được tô điểm bằng các hình tháp nhỏ, đầu cùng các cột ốp góc tường có những hình điêu khắc đá nhô ra, tuy nhiên ở tháp Thủ Thiện các cột ốp trơn, phẳng và không có hoa văn trang trí, các ô dọc trên tường nằm giữa các cột không những không được chạm khắc hoa văn mà còn biến thành một gờ nổi lớn nhô ra mạnh. Các cửa giả ở giữa ba mặt tường tây, nam, bắc và cửa ra vào phía đông đều có hình cung nhọn lớn như mũi giáo khổng lồ phía trên, đầu các cột ốp hợp thành bộ diềm mái nhô ra mạnh, các tháp nhỏ ở góc các tầng mái không còn là một ngôi tháp thu nhỏ nữa mà biến thành một khố hình chóp nhiều tầng. Tháp có niên đại xây dựng vào khoảng thế kỷ 11 trong thời kỳ chuyển tiếp giữa phong cách Mỹ Sơn A1 và phong cách Bình Định nhưng đậm nét phong cách Bình Định nhiều hơn.Tháp có quy mô nhỏ, kiểu dáng trang nhã, thanh thoát, kì bí. Tháp được Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng di tích Kiến trúc Nghệ thuật năm 1995. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Bình Định.
Gia Lai 2171 lượt xem
Được xây dựng vào cuối thế kỷ XI, đầu thế kỷ XII tại xã Phước Hiệp, Tuy Phước, trên đỉnh một quả đồi nằm giữa hai nhánh sông Kôn là Tân An và cầu Gành bên cạnh quốc lộ 1A, cách Tp.Quy Nhơn khoảng 20km. Đây là một quần thể gồm 4 tháp, đứng nhìn từ xa trông giống như chiếc bánh ít nên người dân nơi đây gọi là Tháp Bánh Ít. Tháp còn có tên là Tháp Bạc do khi nghiên cứu quần thể kiến trúc này, người Pháp ghi tên tháp là Tour d’Argent (tháp Bạc). Mỗi tháp ở đây đều có kiến trúc riêng biệt, sắc thái khác nhau. Về phương diện nghệ thuật, trong toàn bộ di tích tháp Chàm còn lại trên đất nước Việt Nam, Bánh Ít là quần thể kiến trúc độc đáo với dáng vẻ kiến trúc đa dạng, trang trí đẹp, có giá trị nghệ thuật cao. Cụm tháp này được Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng di tích Kiến trúc Nghệ thuật vào năm 1982. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Bình Định.
Gia Lai 2275 lượt xem
Thuở vàng son, thành Cha có tên là Phật Thệ, thành đô của kinh đô Vijaya. Đây là một trong bốn thành cổ Chăm Pa ở Bình Định, từng là trung tâm kinh tế, chính trị của khu vực này khoảng từ thế kỉ 8 đến thế kỉ 15. Thành Cha nằm ở phía nam kinh thành Vijaya, nay thuộc địa phận thôn An Thành xã Nhơn Lộc huyện An Nhơn – Bình Định. Nằm trên một dải đất cao ở bờ nam sông Kôn, thành Cha gồm hai khu thành lớn nhỏ được xây dựng gần nhau (còn gọi là thành nội, thành ngoại), đều có bình đồ hình chữ nhật. Ở khu vực thành lớn, các cặp tường thành đối diện nhau với chiều dài chênh lệch không đáng kể. Khi xây dựng, người xưa dựa vào hướng sông Kôn, nên chiều dài của bức tường thành phía bắc dài hơn phía nam một đoạn khoảng 100m. Cặp tường thành phía đông và phía tây dài gần 350m, còn cặp tường thành phía bắc và phía nam dài gần 950m. Ngoại trừ mặt thành phía bắc do gần sông Kôn nên bị xói lở gần hết, các mặt còn lại tương đối nguyên vẹn. Ở góc tây bắc của khu vực thành lớn còn có dấu tích một khuôn viên hình chữ nhật, được bao bọc xung quanh một gò gạch mà trong đó số lượng gạch ngói còn sót lại rất lớn với những thềm cửa, trụ cửa có kích thước lớn, đặc biệt là có rất nhiều viên gạch ngói âm dương và ngói ống - loại vật liệu kiến trúc có trang trí chỉ tìm thấy tại kinh đô cũ của ChămPa như Trà Kiệu. Tại khu vực này, người ta đã phát hiện ra bức tượng bán thân của nữ thần Kabêra Yakshini rất đẹp cùng với những bức phù điêu được làm bằng đất nung rất tinh xảo, là minh chứng cho sự tồn tại hiện thực của một kiến trúc đô thành. Khu thành nhỏ được nằm giáp lưng với khu thành lớn theo hướng tây bắc, có chiều rộng 134m và chiều dài 240m. Một điều thú vị ở đây là nhà kiến tạo nên thành cổ Phật Thệ này đã cố tình bố trí hai khu thành lớn nhỏ theo thế liên hoàn, được thể hiện ở chỗ là bức tường phía đông thành nhỏ cũng chính là một phần bức tường phía tây thành lớn nối thêm một đoạn nữa. Tại khu thành nhỏ này, người ta không tìm thấy dấu vết bức tường ở phía bắc và nó lấy sông Kôn làm hào để tạo thành lá chắn bảo vệ thành. Chính điều này cho thấy khu thành nhỏ được người đời xưa bố trí như một tiền đồn của khu thành lớn, là tuyến giao thông đường thủy rất quan trọng. Thành Cha là toà thành còn có nhiều tên gọi khác trong dân gian như thành Hời, thành Hồ Xứ, thành Bắc, thành Cừ … nhưng tên gọi thông dụng nhất là thành Cha. Toà thành lớn nằm về phía Đông. Tường thành mặt Bắc chạy theo hướng Tây-Đông, dài 947m, mặt rộng 3 đến 5m, chiều cao hiện còn khoảng 1m. Ở vị trí chính giữa tường thành nổi lên một gò đất cao 8m, thoải dần về hai phái mặt thành, có tên gọi là gò Cột Cờ. Bức tường phía Nam có chiều dài tương tự, nhưng đã bị bào mòn, chỉ còn cao hơn mặt đất một chút. Phần di tích còn rõ nhất là hai bức tường phía Đông và phía Tây. Tường phía Đông chạy theo hướng Bắc-Nam, dài 345m với chiều cao trung bình 4m, mặt thành rộng tới trên 30m. Bức tường phía Tây có độ dài và chiều cao tương tự, nhưng bề mặt hẹp hơn, khoảng 7 đến 10m. Góc Tây Bắc của toà thành lớn được vây kín bởi hai đoạn tường thành, một chạy từ gò Cột Cờ xuống phía Nam dài 240m và một đoạn vuông góc với nó chạy sang phía Tây, nối với bức tường phía Tây của thành lớn tạo thành một khuôn viên hình chữ nhật. Chính giữa khuôn viên này có một gò gạch lớn, dấu tích còn lại của một công trình kiến trúc đã bị sập đổ. Thành hình chữ nhật nhỏ hơn nằm kề phía Tây Bắc thành lớn có chiều dài 440m, chiều rộng 134m. Di tích Thành Cha được Bộ Văn hóa Thông tin và Thể thao xếp hạng di tích lịch sử, văn hoá cấp quốc gia vào ngày 27 tháng 11 năm 2003. Nguồn: Bảo tàng Lịch sử Quốc gia
Gia Lai 3833 lượt xem
Căn cứ địa cách mạng Khu 10 (nay là địa bàn xã Krong, huyện Kbang) hội tụ đủ các yếu tố “thiên thời, địa lợi, nhân hòa”, được tỉnh chọn làm “An toàn khu” trong suốt 20 năm của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1955-1975). Mặc dù quân thù huy động nhiều phương tiện, lực lượng và dùng mọi cách để đánh phá nhưng Căn cứ địa cách mạng Khu 10 luôn đứng vững, bảo đảm an toàn cho các cơ quan đầu não của tỉnh Gia Lai. Địa bàn xây dựng Căn cứ địa cách mạng Khu 10 vốn là căn cứ địa liên hoàn của 3 huyện Đông Bắc Gia Lai từ thời kháng chiến chống Pháp. Căn cứ liên hoàn này gồm 3 xã: Lơpà (huyện Plei kon), Hơn nơng (huyện Nam Kon Plông), Bơnâm và một phần xã Nam (huyện An Khê). Địa hình núi cao, rừng rậm, sông suối chia cắt; ba mặt Đông, Tây và Bắc dựa vào thế núi; mặt phía Nam tiếp giáp vùng trũng An Khê, tiến có thể đánh địch, lui có thể đứng chân yên ổn dưỡng quân, luyện quân. Nơi đây có khí hậu nhiệt đới ẩm mát, cư dân hầu hết là đồng bào Bahnar với bản tính chịu thương, chịu khó, cần cù lao động, sống thủy chung một lòng theo Đảng, Bác Hồ. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, người dân nơi đây đều bất hợp tác với giặc, nhiều làng đến trước năm 1945 vẫn còn nằm ngoài vòng kiểm soát của địch. Vùng này trở thành hành lang giao liên, hành lang tiếp tế, tiến quân của các đội vũ trang tuyên truyền, các đội vũ trang từ đồng bằng tiến lên vùng Bắc Pleiku và Tây Bắc đường 14, mở rộng cơ sở. Những năm 1950-1954, nơi đây là địa bàn đứng chân của các đơn vị quân chủ lực để tiến đánh địch trong các chiến dịch An Khê và Nam Bắc đường 19. Lúc đầu, cơ quan Tỉnh ủy chỉ có 8-10 người. Sau đó, phong trào phát triển, nhất là khi Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam ra đời (1960), tiếp đến khi Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam thành lập thì các ban, ngành của tỉnh cũng hình thành. Ngoài các cơ quan chủ chốt như: Tỉnh ủy, chính quyền giải phóng, Mặt trận, Ban quân sự thì còn có các ban chuyên môn: Kinh tế-Tài chính, Văn hóa, Giáo dục, Y tế... Trong khó khăn gian khổ, đối phó với biện pháp chiến tranh hủy diệt của địch, cán bộ của cơ quan đã cùng quân và dân đoàn kết, gắn bó để tồn tại, vừa sản xuất vừa chiến đấu chống giặc, giữ vững căn cứ. Không chỉ là căn cứ cách mạng của tỉnh, Khu 10 còn là nơi che chở một số cơ quan của Liên khu 5, các tỉnh bạn trong những lần địch càn quét, đánh phá ở đồng bằng. Đặc biệt, Khu 10 còn là địa bàn đứng chân của các trạm giao liên-một mắt xích quan trọng của tuyến hành lang Trung ương Bắc-Nam và đường hành lang Đông-Tây song song với quốc lộ 19. Mặc dù phải hứng chịu dưới mưa bom, bão đạn của kẻ thù, song dưới sự che chở, đùm bọc của núi rừng và đồng bào nơi đây, Căn cứ địa cách mạng Khu 10 luôn đứng vững, bảo đảm an toàn cho các cơ quan đầu não của tỉnh hoạt động và lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Mỹ thành công, giải phóng tỉnh nhà vào ngày 17-3-1975, góp phần giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Với đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, ngày 17-3-2017, Ban Thường vụ Tỉnh ủy quyết định khởi công xây dựng Khu di tích lịch sử cách mạng của tỉnh tại xã Krong. Khu di tích được thiết kế theo kiểu mô phỏng các công trình trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước gồm: lán Bí thư, lán Phó Bí thư, lán Cơ yếu, lán Văn phòng, hầm chữ A, nhà ăn, bếp Hoàng Cầm, nhà tưởng niệm, nhà bia ghi sự kiện; đồng thời, khôi phục rừng và bảo vệ cảnh quan môi trường sinh thái trong khu di tích. Ngày 19-5-2018, Khu di tích lịch sử căn cứ địa cách mạng Khu 10 được khánh thành. Đây là “địa chỉ đỏ” để giáo dục lòng yêu nước và truyền thống cách mạng cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân trong tỉnh, nhất là thế hệ trẻ hiện nay luôn ghi nhớ công lao, sự cống hiến, hy sinh quên mình của thế hệ cha anh trong cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do của dân tộc. Nguồn: Báo Gia Lai điện tử
Gia Lai 3207 lượt xem
Khu di tích Láng Le Bàu Cò tọa lạc tại xã Tân Nhựt, huyện Bình Chánh, Tp HCM. Láng Le Bàu Cò gắn liền với cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược vào năm 1948 với những trận đánh lớn đi vào lịch sử. Di tích Láng Le Bàu Cò được công nhận là di tích lịch sử cấp thành phố vào năm 2003. Sở dĩ được gọi tên là khu di tích Láng Le Bàu Cò vì Tên gọi của khu di tích Láng Le Bàu Cò là do người dân địa phương đặt ra. Xóm làng được thành lập cạnh những con kênh rạch chằng chịt và dòng sông. Láng Le Bàu Cò có vị trí nằm ở bên trong cánh đồng có diện tích rộng lớn và có rất nhiều tôm, cua, cá. Cùng với nhiều loài chim như vịt trời, cò, con le le, cúm núm, cồng cộc, đa đa, diệc, đỏ nách tới kiếm ăn tại đây. Vì vậy, người dân Tân Nhựt gọi với cái tên thân thuộc và mộc mạc đó là Láng Le Bàu Cò. Di tích Láng Le Bàu Cò được xem là cửa ngõ để di chuyển tới trung tâm căn cứ Vườn Thơm và tấn công cơ quan đầu não của quân địch tại Sài Gòn. Trước đây khu di tích Láng Le Bàu Cò vốn là cánh đồng lau sậy mọc um tùm. Vào ngày 15/4/1948 thực dân Pháp đưa 3 nghìn quân lính cùng nhiều vũ khí hiện đại đồng loạt tấn công khu vực Láng Le Bàu Cò nhằm tiêu diệt căn cứ Vườn Thơm. Khi đó lực lượng vũ trang cách mạng ở Láng Le - Bàu vì lực lượng nhỏ và vũ khí thô sơ tuy nhiên được sự giúp đỡ của người dân địa phương cùng với lợi thế về địa hình. Chỉ sau hơn nửa ngày đấu tranh đã chuyển sang tấn công khiến quân Pháp bị thương vong với số lượng lớn. Chiến thắng Láng Le Bàu Cò đã tiêu diệt 300 tên địch và bắt sống 30 lính đánh thuê cùng phá hủy nhiều máy móc, xe nhà binh, súng các loại của quân giặc. Tuy nhiên, về phía ta có nhiều cán bộ chiến sĩ đã anh dũng hy sinh với tuổi đời còn rất trẻ. Ngày 14/10/1966 tại Láng Le tiểu đoàn biệt động quân Việt Nam Cộng Hòa bị dân quân du khách tiêu diệt. Khu di tích Láng Le Bàu Cò có ý nghĩa lịch sử to lớn đối với người dân Sài Gòn nói riêng và cả nước nói chung. Trước lòng căm thù thực dân Pháp, quân dân Láng Le Bàu Cò đã có cuộc chiến vang lừng lịch sử và có ý nghĩa to lớn mở đầu cho phía ta và phía địch. Đối với phía ta trận đánh mở đầu cho sự anh dũng trong tư thế kháng chiến vững mạnh. Còn với quân địch đã phải lùi vào thế bỏ chiến lược và bị tiêu diệt. Thực dân Pháp không còn định hình được chiến lược đánh bại Việt Minh. Hơn thế, tại căn cứ Vườn Thơm, Láng Le Bàu Cò còn diễn ra trận chiến quyết tâm bảo vệ căn cứ của ta và đập tan mọi kế hoạch phá hoại của quân giặc. Khu di tích Láng Le Bàu Cò sau phong trào Đồng Khởi vào năm 1960 còn là hậu cần, bàn đạp của lực lượng vũ trang để giải phóng Long An - Sài Gòn - Gia Định. Để tưởng nhớ sự hy sinh của đồng bào và các chiến sĩ của ta, vào năm 1988 huyện Bình Chánh đã xây dựng công trình lịch sử tại vùng đất Láng Le Bàu Cò với diện tích rộng 1000m2. Nguồn: Báo thông tin điện tử TP Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 12070 lượt xem
Nhà lao Tân Hiệp còn có tên là "Trung tâm cải huấn Tân Hiệp" tọa lạc ở khu phố 6, phường Tân Tiến, TP Biên Hòa. Di tích Nhà lao Tân Hiệp đã được Bộ Văn Hoá Thể Thao xếp hạng là di tích cấp quốc gia ngày 15-1-1994. Nhà lao Tân Hiệp là một trong sáu nhà tù lớn nhất miền Nam Việt Nam và là nhà tù lớn nhất vùng Đông Nam bộ, được xây dựng ở vị trí quân sự quan trọng, án ngữ phía đông bắc thị xã Biên Hòa. Phía trước là quốc lộ 1; phía sau là đường xe lửa Bắc - Nam. Đây là vị trí biệt lập, thuận tiện trong giao thông, dễ dàng cho việc bảo vệ, canh gác, nhận tù từ nơi khác đến và chuyển tù đi Côn Đảo, Phú Quốc... Nhà lao Tân Hiệp có diện tích 46.520m2 với 8 trại giam, trong đó có 5 trại giam những người tù cộng sản, người yêu nước. Xung quanh nhà tù được bao bọc bởi 4 lớp kẽm gai bùng nhùng với 9 lô cốt, 3 tháp canh cùng đội lính bảo vệ và hệ thống báo động tối tân. Mang tên "Trung tâm cải huấn" nhưng thực chất bên trong là kho súng, phòng xét hỏi, tra tấn với những dụng cụ hiện đại bậc nhất. Mỗi trại giam chỉ có diện tích gần 200m2 nhưng giam giữ từ 300-400 người, có lúc lên đến cả ngàn người. Đặc biệt ở đây có các phòng "cải hối", "chuồng cọp" rất nhỏ hẹp và điều kiện sinh hoạt cực kỳ khắc nghiệt, tù nhân sống chẳng khác gì trong lò thiêu xác. Chế độ ăn uống cực kỳ mất vệ sinh, bọn cai ngục mua gạo mục, cá thối dùng để bón ruộng, chiên bằng dầu luyn cho tù nhân ăn dẫn đến nhiều người bị ngộ độc. Với quyết tâm thoát khỏi nhà tù đế quốc, trở về với Đảng, với nhân dân để tiếp tục chiến đấu, giải phóng dân tộc, ngày 2-12-1956, được sự nhất trí của Liên Tỉnh ủy miền Đông, những chiến sĩ cộng sản bị "câu lưu" trong nhà lao Tân Hiệp dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Nguyễn Trọng Tâm (Bảy Tâm) - phụ trách Đảng ủy nhà tù và một số đồng chí khác đã bất thần làm một cuộc phá xiềng tập thể giải thoát gần 500 đồng chí, đồng bào yêu nước. Sự kiện này đã làm xôn xao cả Lầu Năm Góc. Mỹ - Diệm vội vã huy động cả quân chủ lực lẫn bảo an, dân vệ đang trấn thủ 3 tỉnh Biên Hòa, Bà Rịa, Thủ Dầu Một và hai biệt đoàn biệt động quân đến bủa lưới bao vây, truy bắt đoàn tù nhưng đều thất bại. Các đồng chí, đồng bào của ta thoát khỏi nhà lao Tân Hiệp đã được sự giúp đỡ, che chở của các cơ sở địa phương, trở về căn cứ an toàn. Trong số tù nhân vượt ngục có các đồng chí: Bảy Tâm, Hai Thông, Lý Văn Sâm... đã trở thành những hạt nhân nòng cốt cho phong trào Đồng Khởi sau này. Năm 2001, để tái hiện phần nào tội ác của Mỹ - Diệm đối với các đồng chí, đồng bào ta bị giam cầm tại nhà lao Tân Hiệp và diễn tả lại toàn bộ cuộc nổi dậy phá khám Tân Hiệp ngày 2-12-1956, Bảo tàng Đồng Nai đã tiến hành sưu tầm hình ảnh, tài liệu, hiện vật trưng bày tại di tích và làm một sa bàn để phục vụ nhu cầu nghiên cứu, tham quan của mọi tầng lớp nhân dân. Hàng ngày, di tích luôn mở cửa đón khách tham quan. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 11025 lượt xem
Di tích chiến thắng La Ngà (tại km số 104-112 trên quốc lộ 20 đi Đà Lạt, thuộc xã Phú Ngọc, huyện Định Quán) được Bộ Văn hóa xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 12-12-1986. Để cổ vũ cho chiến thắng Việt Bắc thu - đông 1947 và cũng để giáng cho kẻ thù một đòn chí mạng, Ban chỉ huy chi đội 10 đã quyết định phải tổ chức một trận đánh lớn, để quân giặc thấy rằng dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam không dễ dàng chịu khuất phục trước bất kì một kẻ thù nào; Bằng tinh thần quả cảm và sự khôn khéo sau gần nửa năm chuẩn bị, nghiên cứu địa hình, chọn địa điểm: vào lúc 15 giờ 12 phút ngày 1/3/1948 trận chiến phục kích La Ngà bắt đầu và kết thúc vào lúc 15 giờ 57 phút cùng ngày, chỉ trong vòng 45 phút. Chiến thắng La Ngà đã làm nức lòng nhân dân Định Quán nói riêng, quân dân Đồng Nai nói chung. Đây là chiến thắng thể hiện sự mưu trí, dũng cảm của quân và dân ta làm cho địch một phen kinh hồn, bạt phía. Từ chiến thắng này lực lượng ta ngày càng thêm lớn mạnh, góp phần đánh bại kế hoạch đánh nhanh, thắng nhanh của địch, buộc chúng phải rơi vào thế bị động. Quần thể danh thắng đá Chồng, Thác Mai, sông La Ngà và Tượng đài chiến thắng La Ngà là một quần thể du lịch kì thú của Định Quán. Vẻ đẹp kỳ thú của Hòn Ba Chồng, Núi Đá Voi, Hòn Dĩa, cùng với ngôi chùa thiên nhiên dưới chân núi đá là những cụm tiêu biểu tạo thành cảnh đẹp hài hòa cho khu danh thắng Đá Chồng. Quần thể Đá Chồng Định Quán còn là nơi lưu lại những dấu tích của cuộc sống người tiền sử. Tại đây dưới các mái đá, ven các khe suối và cả các sườn dốc ven thung lũng đã phát hiện nhiều công cụ sản xuất, sinh hoạt của người xưa bằng đá, đồng, đất nung. Trong suốt cuộc kháng chiến dài 30 năm. Định Quán là một phần quan trọng của Chiến khu Đ. Đá Chồng đã chứng kiến sự hình thành, phát triển, trú quân, triển khai chiến đấu của lực lượng cách mạng. Ngày nay, một phần đất của khu danh thắng Đá Chồng Định Quán đã được sử dụng, xây dựng thành khu Trung tâm văn hóa thể thao huyện Định Quán. Tương lai không xa khu danh thắng Đá Chồng Định Quán sẽ được đầu tư tôn tạo góp phần làm cho cảnh quan thiên nhiên ngày càng tươi đẹp, là địa điểm du lịch sinh thái hấp dẫn. Nguồn: Uỷ Ban Nhân Dân Huyện Định Quán
Đồng Nai 8880 lượt xem
Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh còn gọi là đình Bình Kính tọa lạc bên tả ngạn sông Đồng Nai, xưa kia thuộc ấp Bình Kính, thôn Bình Hoành, tổng Trấn Biên, nay là ấp Nhị Hòa, xã Hiệp Hòa, TP Biên Hòa, đã được Bộ Văn Hoá – Thông Tin – Thể Thao & Du Lịch xếp hạng là di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 25-3-1991. Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ 18, ban đầu ngôi đền có qui mô nhỏ, vách làm bằng ván, mái ngói âm dương, cách ngôi đền hiện tại khoảng 400m về hướng Nam. Các tư liệu cho biết: ngôi đền được xây dựng lại lần đầu tiên vào năm Tự Đức thứ tư (1851); đến năm 1923, đền được tái thiết lại ở địa điểm hiện nay. Nguyễn Hữu Cảnh sinh vào năm 1650 tại Gia Miêu, huyện Tống Sơn, tỉnh Thanh Hóa trong một gia đình có nhiều bậc danh tướng đương triều. Ông là người văn võ song toàn, lập được nhiều chiến công lớn và được chúa Nguyễn tin yêu, trọng vọng. Mùa Xuân năm Mậu Dần (1698), ông vâng lệnh chúa Nguyễn vào kinh lược xứ Đàng Trong khi ấy còn rất hoang vu. Đến đất Đồng Nai, ông đặt Đại bản doanh ở Cù lao Phố (nay là xã Hiệp Hòa); lấy đất Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng dinh Trấn Biên, lấy xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn, đất đai mở mang ngàn dặm. Ông chiêu mộ lưu dân đến lập nghiệp, tổ chức bộ máy hành chính từng bước có qui củ, khuyến khích khai hoang, thúc đẩy Cù lao Phố phát triển thành một trong những cảng thị sầm uất, năng động nhất đàng Trong suốt thế kỷ 18 và chính thức sáp nhập vùng đất mới phương Nam vào bản đồ Đại Việt. Sau khi kinh lược phương Nam trở về, năm sau ông lại phụng mệnh chúa Nguyễn Phúc Chu thống lĩnh đại binh dẹp vua Chân Lạp giữ vững miền biên ải phương Nam. Tháng 4 năm Canh Thìn (1700), sau khi hoàn thành sứ mệnh, trên đường trở về đến Rạch Gầm (Tiền Giang) thì ông thọ bệnh qua đời nhằm ngày 16 tháng 5 âm lịch, thọ 51 tuổi. Trên đường di quan ông về quê an táng, quan tài của ông được đình lại khu đất khi xưa ông đặt Đại bản doanh ở Cù lao Phố để cho nhân dân địa phương có dịp bái biệt ông lần cuối. Nơi đình quan đã được nhân dân địa phương xây một ngôi mộ vọng để ghi nhớ sự kiện này. Khi hay tin Nguyễn Hữu Cảnh mất, Chúa Nguyễn vô cùng thương tiếc đã phong tặng ông là Thượng đẳng công thần đặc Trấn phủ Chưởng cơ với tước: Lễ Thành Hầu và đưa bài vị của ông vào thờ tại Thái miếu. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 8861 lượt xem
Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt, tọa lạc ấp Xóm Tháp, xã Tân Phong, huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh, được Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích lịch sử - văn hóa ngày 23 tháng 7 năm 1993. Đồng thời là một trong ba công trình tháp cổ cuối cùng còn lại ở miền Nam nước ta. Trải qua nhiều lần trùng tu vào các năm 1938, 2003 và gần đây nhất là vào năm 2013. Mặc dù trải qua các đợt trùng tu tôn tạo, nhưng khu di tích tháp cổ Chót Mạt đã mang cho mình một diện mạo mới nhưng vẫn giữ nguyên được tinh thần kiến trúc cổ. Toàn bộ tòa Tháp được xây dựng bằng gạch và đá phiến với phần đỉnh tháp nhọn dần lên, từ mặt đất lên nơi cao nhất của đỉnh tháp được ước tính là 10m. Ngoài ra, ngọn tháp cổ này nằm trên gò đất cao giữa cánh đồng nên nhìn từ xa nó tựa như ngọn bút đang vươn lên cao dần. Năm 2003 Uỷ ban nhân dân tỉnh Tây Ninh quyết định phê duyệt dự án đầu tư trùng tu tôn tạo bảo tồn di tích tháp Chót Mạt và được tiến hành triển khai trùng tu tôn tạo phục hồi, trưng bày mở hố khai quật năm 2003 đưa vào sử dụng. Ngày 27/11/2019 UBND tỉnh ban hành Quyết định Quy định về phân cấp quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh Tây Ninh. Quyết định giao UBND huyện Tân Biên trực tiếp quản lý 4 di tích, trong đó có di tích cấp Quốc gia di tích Lịch sử- văn Hóa Tháp Chót Mạt. Đặc biệt Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt trên địa bàn xã Tân Phong, huyện Tân Biên được chọn nằm trong chũi liên kết phát triển du lịch của Tỉnh Tây Ninh. Đây là một địa điểm tham quan rất đáng để khám phá, góp phần phát triển du lịch trên địa bàn xã Tân Phong nói riêng và huyện Tân Biên nói chung. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Tây Ninh
Tây Ninh 8470 lượt xem
Thời kỳ nhà Mạc đóng đô ở Cao Bằng, để phòng bị quân nhà Lê tiến đánh, nhà Mạc đã tu bổ, sửa chữa thành Na Lữ (nay thuộc xã Hoàng Tung, Hòa An) và thành Bản Phủ (nay thuộc xã Hưng Đạo), thành Phục Hòa, ngoài ra còn xây dựng nhiều thành lũy khác ở Cao Bằng, làm cho Cao Bằng trở thành một trung tâm chính trị và quân sự ở vùng biên viễn Đông Bắc thời bấy giờ. Thành Na Lữ và thành Phục Hoà là hai thành được xây dựng từ trước. Theo ghi chép của Bế Hựu Cung trong Cao Bằng thực lục, thành Na Lữ và thành Phục Hòa mở đầu từ đời Đường Ý Tông năm Giáp Thân, niên hiệu Hàm Thông thứ 5 (874). Căn cứ vào sự hiện diện của nhiều ngôi mộ cổ có đá khắc ghi bia mộ tên, địa chỉ, quê quán những người phu dịch xây thành chết ở đây từ thời Hàm Thông có thể khẳng định hai thành này xây từ đời Đường. Thành Na Lữ được xây qua nhiều triều đại khác nhau. Khi nhà Mạc lên Cao Bằng đã cho xây lại bằng gạch. Thành Na Lữ có hình gần chữ nhật, có tổng diện tích khoảng 37,5 ha, chiều dài khoảng 800 m, chiều rộng khoảng 600 m, thành có 4 cửa. Thành Bản Phủ tại kinh đô Nam Bình, nước Nam Cương của Thục Phán khi xưa ở Cao Bình (Cao Bằng), nhà Mạc đã tu bổ thành Vương phủ tại vòng trong của kinh đô cũ Nam Bình và được gọi là thành Bản Phủ hay Vương phủ. Tại kinh đô Nam Bình xưa của nước Nam Cương và của nhà Mạc, thành Bản Phủ vẫn còn dấu tích khá rõ nét. Kinh đô Nam Bình gồm có hai vòng thành, để bảo vệ kinh thành, vòng ngoài có chu vi khoảng 5 km, gồm cả một vùng gò đồi thấp, quanh chân đồi được bạt dựng đứng như một bức tường thành, thuận lợi cho việc xây dựng phòng tuyến bảo vệ. Bờ thành phía Tây chạy song song với bờ sông Bằng đến đầu làng Bó Mạ, nối bờ thành Đông Nam chảy qua trước mặt Bản Phủ theo chân đồi ra gặp quốc lộ 4, phía Đông Bắc chạy theo chân đồi sát phía ngoài quốc lộ 4, lên đến Đầu gò là phía Tây Bắc tiếp tục chạy theo chân đồi, ra đến bờ sông gặp bờ thành phía Tây tạo thành một vòng thành khép kín. Khi nhà Mạc lên đóng đô đã tu sửa lại và xây dựng thêm một số công trình, trong đó thành Bản Phủ (thành nội - nơi của vua làm việc) được xây lên cao hơn trên các tường thành cũ từ thời kỳ Thục Phán, thành nằm trên một khu đất bằng phẳng. Cùng với việc xây dựng lại kinh thành, nhà Mạc còn xây dựng một hệ thống đồn bốt, thành lũy khá dày xung quanh kinh đô và một số điểm biên giới quan trọng, tạo thành một hệ thống bảo vệ kinh thành và bảo vệ biên giới. Thành Phục Hòa (huyện Phục Hoà) được xây theo kiểu hình vuông, mỗi chiều khoảng 400 m, gồm hai vòng thành, khoảng cách giữa hai vòng là 80 m. Hiện nay, tường thành phía Nam đã bị phá huỷ hoàn toàn. Thành Phục Hòa có 2 cổng chính: Cổng phía Bắc được mở thông ra quốc lộ đi Cửa khẩu Tà Lùng ngày nay, nhân dân thường gọi là Pác Cổng, cổng này được xây theo kiểu hình chữ nhật, rộng 8 m, cao 5 m, gồm hai cánh cổng làm bằng gỗ nghiến dày rất chắc chắn; cổng thứ hai ở phía Nam, mở thông ra bờ sông. Cả hai cổng đều bị san phẳng từ lâu, hiện nay không còn vết tích. Gần thành, tại phía Tây Bắc ngoại thành dọc bờ sông còn có nhiều vết tích lò nung gạch, nhân dân cho biết trong quá trình lao động, khai phá đã tìm thấy ở khu vực này nhiều lò gạch còn nguyên vẹn. Qua nghiên cứu, khảo sát cho thấy, tại Cao Bằng, nhà Mạc đã tu bổ, tôn tạo và xây dựng thêm nhiều thành, đồn luỹ, trong đó tu bổ, tôn tạo xây lại thành Bản Phủ, thành Na Lữ, thành Phục Hoà. Các đồn luỹ này đã tạo thành một hệ thống liên hoàn bảo vệ kinh thành khá vững chắc. Đến nay, những thành cổ nhà Mạc xây dựng thời kỳ đóng đô ở Cao Bằng, một số thành xây dựng bằng đất chỉ còn vết tích, nhưng các thành được xây bằng đá vẫn còn rất rõ. Nguồn: Báo Cao Bằng điện tử
Cao Bằng 7937 lượt xem
Dinh Quận Hóc Môn tọa lạc tại số 1, đường Lý Nam Đế, thị trấn Hóc Môn, (cạnh trụ sở UBND huyện) là nơi để lại nhiều sự kiện đấu tranh nổi bật suốt chặng đường dài lịch sử từ 1885 đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng của Nhân dân 18 Thôn vườn trầu. Sau khi hạ được Đại đồn Chí Hòa, thực dân Pháp xây dựng tại nơi đây một ngôi nhà gỗ cao 3 tầng dùng làm Đồn binh. Khi tên Trần Tử Ca về nhậm chức Đốc Phủ, dùng Đồn làm Dinh huyện Bình Long. Vốn là một tay say quỷ quyệt của thực dân Pháp, Trần Tử Ca bị nhóm do các ông Phan Văn Hớn (Quản Hớn) và Nguyễn Văn Quá (Chánh Lãnh Binh) cầm đầu gần 1.000 nghĩa quân tiến về đốt Dinh Quận, bắt và cắt đầu bêu giữa chợ. Đó là ngày 8/2/1885 Tết Ất Dậu. Sau đó, Dinh Quận Hóc Môn được xây dựng lại với nền móng đá xanh, tường gạch, có hệ thống phòng thủ từ lầu cao đến tận vòng rào. Lối kiến trúc y như Đồn binh nên người địa phương gọi là Đồn Hóc Môn. Trấn nhậm thay Trần Tử Ca là Đốc phủ Ngôn, đến Quận Trà rồi Quận Thọ. Đây là khoảng thời gian dài người dân vùng Hóc Môn hứng chịu bao cảnh tham tàn, bỉ ổi của thực dân Pháp và bọn tay sai đầu sỏ kể trên. Với truyền thống kiên cường bất khuất của Nhân dân Hóc Môn. Ngày 4/6/1930, khoảng 6 giờ sáng trước Dinh Quận, hàng trăm bà con Hóc Môn kéo biểu tình đòi “bãi bỏ thuế thân, giảm các thuế môn bài và thuế chợ, cấp đất cho dân cày nghèo”. Quận Trà cho mời những người cầm đầu vào Dinh thương lượng, nhưng chúng xảo quyệt bắt giữ họ trong đó có ông Lê Văn Uôi (Bí thư xã Tân Thới Nhì), là người cầm đầu cuộc biểu tình. Mọi người không nao núng, quyết liệt đòi hỏi Quận Trà phải thả những người bị cầm giữ. Đoàn biểu tình càng lúc càng đông, khí thế đấu tranh có phần lan rộng, khiến Quận Trà nhượng bộ. Một mặt chúng thả những người bị giữ, mặc khác chúng gọi điện cho quan thầy ở Sài Gòn cứu viện. 2 giờ sau, cuộc đấu tranh bị 2 tên Blachôlê và Nobbot chỉ huy bắn xối xả vào đoàn biểu tình, gây thương vong nhiều người. Nhưng sự kiện lịch sử gây ấn tượng nhất tại Dinh Quận Hóc Môn là cuộc khởi nghĩa Nam kỳ ngày 23/11/1940. Đồn Hóc Môn rất kiên cố, xây bằng đá xanh như là một pháo đài, cao khoảng 15 thước, có ụ súng và hệ thống phòng thủ lỗ châu mai do một trung đội lính khố xanh trấn giữ. Ngày 22/11/1940, Pháp tăng cường thêm 1 trung đội để đối phó với tình hình. Chiều 22/11/1940, cánh quân của ông Đỗ Văn Cội đột nhập vào thị trấn, giả dạng thường dân, phục kích sau lưng Đồn chờ lệnh cướp Đồn. Một cánh quân khác có nhiệm vụ phá cầu, đốn cây ngăn lộ, đánh chiếm các công sở, nhà việc... Cánh quân từ Phước Vĩnh An, Tân Thông, Tân An Hội, Tân Phú Trung do ông Phạm Văn Sáng và Đặng Công Bỉnh chỉ huy, xuất phát từ ấp Bến Đò, đánh chiếm nhà việc, diệt 1 tên, thu 4 súng, làm chủ tình hình tại đây (Tân Phú trung). Liền đó cánh quân này được lệnh kéo về Hóc Môn. Cánh quân Long Tuy Thượng do ông Bùi Văn Hoạt chỉ huy. Cánh quân thuộc Tổng Long Tuy Trung do ông Đỗ Văn Dậy và Lê Bình Đẳng chỉ huy. Khoảng 24 giờ đêm ngày 22/11/1940, vẫn chưa nghe thấy tiếng pháo lệnh ở Sài Gòn. Sau khi hội ý, các vị chỉ huy những cánh quân thống nhất tấn công Đồn giặc. Lập tức các cánh quân tiến thẳng về Đồn Hóc Môn, nơi trú ngụ của tên Quận trưởng Bùi Ngọc Thọ. 2 nghĩa quân tên Nghé và Kinh xung phong vào cổng trước, hy sinh. Nghĩa quân bốn phía xông vào Đồn như nước vỡ bờ. Trước sức mạnh của nghĩa quân và quần chúng, bọn lính trong Đồn không còn tinh thần kháng cự, bỏ chạy tán loạn. Nghĩa quân chiếm lĩnh hoàn toàn bên trong Đồn nhưng trên lầu, địch vẫn ngoan cố dùng súng bắn tẻ, cùng lúc gọi điện về Sài Gòn, Thủ Dầu Một cấp cứu. Vì nóng lòng bắt cho được tên Quận Thọ nên đồng chí Đỗ Văn Dậy bám ống máng nước để leo lên tầng trên Đồn. Đến lưng chừng bị trúng đạn, đồng chí bị rơi xuống và hy sinh sau đó. Cuộc chiến đấu đang thế giằng co thì viện binh địch đến. Không thể cầm cự, nghĩa quân rút khỏi thị trấn, phân tán về các làng, lực lượng vũ trang rút về ấp Bến Đò (Tân Phú Trung) rồi di chuyển sang ấp Mỹ Hạnh (Đức Hòa). Cuộc tiến công Đồn Hóc Môn (sau gọi là Dinh Quận Hóc Môn) tuy thất bại nhưng đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng mọi người dân sự khâm phục lòng dũng cảm của các chiến sĩ cách mạng trong cuộc chiến đấu chống thực dân cướp nước. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, 7 giờ sáng ngày 30/4/1975, thị trấn Hóc Môn hoàn toàn được giải phóng, lá cờ Tổ quốc phất phới bay trên Dinh Quận, nơi tên Quận trưởng Nguyễn Như Sang và bọn tay sai đã chạy trốn từ tối đêm trước. Ngày nay Dinh Quận Hóc Môn được chọn làm Bảo tàng huyện, nơi đây tập trung nhiều tư liệu trưng bày, minh họa các giai đoạn lịch sử thăng trầm cũng như khí thế đấu tranh cách mạng của quân và dân trong huyện Hóc Môn qua 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Một Tượng đài đặt trước di tích Dinh Quận Hóc Môn thể hiện gương hy sinh bất khuất của quân và dân 18 Thôn Vườn trầu, được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia. Nguồn: Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn
TP Hồ Chí Minh 7823 lượt xem
Di tích tòa Đại sứ Mỹ còn được gọi "Nhà trắng phương Đông" là nơi xuất phát các âm mưu thâm độc về quân sự lẫn chính trị nhằm thôn tính lâu dài đất nước Việt Nam, địa điểm di tích là tòa nhà 5 tầng xây dựng theo kiến trúc hiện đại, tọa lạc tại góc đường Mạc Đĩnh Chi - Lê Duẩn, Phường Bến Nghé, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, trên một mảnh đất rộng gần 5.000m2. Trước đó, tòa đại sứ Mỹ nằm tại số 39 đường Hàm Nghi. Khoảng 10 giờ sáng ngày 30/3/1963, tòa đại sứ Mỹ trên đường Hàm Nghi đã bị đội Biệt động F21 đánh chất nổ làm sập 3 tầng lầu: 1, 2, 3 do đó Mỹ đã quyết định xây lại. Tòa nhà được khởi công xây dựng vào năm 1965, hầu hết vật liệu cũng như máy móc xây dựng đều được chở từ Mỹ sang, dưới sự điều khiển của kỹ sư người Mỹ. Theo thiết kế, tòa nhà bao bọc bởi 7.800 viên đá Taredo có khả năng chống đỡ mìn, đạn pháo. Cửa chính trang bị bằng thép dầy, những cửa khác chắn bởi lớp kín dầy đặc biệt chống đạn. Tất cả cửa sử dụng hệ thống tự động kể cả cửa sắt chắn lối lên các tầng lầu. Bên trong tòa nhà gồm 140 phòng với 200 nhân viên phục vụ ngày đêm ngoài ra bên cạnh tòa nhà còn được xây thêm một dãy nhà phụ gọi là khu "Norodom" dành riêng cho nhân viên C.I.A. Khi khánh thành, tòa nhà chỉ có 3 tầng. Cuối năm 1966 xây thêm 2 tầng và 1 sân thượng dùng làm nơi hạ cánh cho máy bay lên thẳng. Bao quanh tòa nhà là bức tường cao 3m, hai đầu tường sát đường Lê Duẩn xây 2 lô - cốt cao, canh gác ngày đêm. Tòa Đại sứ hoàn thành tháng 9/1967 với một hệ thống phòng thủ như là một pháo đài có 60 lính gác, một hầm tránh bom, một hệ thống màn hình ra-đa nhằm kiểm soát mặt tiền. Ngay sau khi tòa nhà hoàn tất, ngày 24/9/1967, hàng ngàn sinh viên, học sinh kéo đến trước cổng Đại sứ quán Mỹ đấu tranh đòi "Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc", "Mỹ cút về nước" và ra thông báo tố cáo Mỹ "chà đạp và vi phạm nghiêm trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam". Nhưng sự kiện nổi bật xảy ra tại Tòa Đại sứ Mỹ là trận đánh của Biệt động thành trong Tổng Tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968. Mục tiêu đánh Đại sứ quán Mỹ được bổ sung ngày 24/ 1/1968 do Ngô Thành Vân phụ trách chung. Đội Biệt động 11 nhận lãnh nhiệm vụ quan trọng này gồm đội trưởng Út Nhỏ (đội trưởng trinh sát quân khu) và các chiến sĩ: Bảy Truyền, Tước, Thanh, Chức, Trần Thế Ninh, Chính, Tài, Văn, Đực, Cao Hoài Vinh, Mang, Sáu và 2 lái xe: Trần Sĩ Hùng và Ngô Văn Thuận. Một sự kiện khác cũng không kém phần tủi nhục cho Toà Đại sứ Mỹ là cảnh hỗn loạn tháo chạy xảy ra trong 2 ngày 29 và 30/04/1975 của Mỹ và đồng bọn. Trước sức tấn công thần tốc của quân và dân Việt Nam trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, trên 1.000 người Mỹ và hơn 5.000 người Việt thân Mỹ đã chen lấn, xô đẩy, đạp nhau để tranh giành một chỗ trên sân thượng của toà nhà hòng được trực thăng cứu thoát. Di tích này đã được cấp bằng công nhận của Bộ Văn hoá ngày 25/6/1976. Hiện nay, toà nhà Đại Sứ Mỹ đã bị phá bỏ, xây mới thành lãnh sự quán tại Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng cạnh đó một bia tưởng niệm ghi nhớ mãi chiến công của các chiến sĩ biệt động đã hy sinh trong trận đánh. Nguồn: Thành Đoàn Thành phố Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 7719 lượt xem
Mai Xuân Thưởng là người lãnh đạo phong trào Cần Vương chống Pháp cuối thế kỷ XIX ở Bình Định. Mai Xuân Thưởng sinh năm Canh Thân 1860, mất năm Đinh Hợi 1887 người thôn Phú Lạc, tổng Phú phong, huyện Tuy Viễn, tỉnh Bình Định (nay là thôn Phú Lạc, xã Bình Thành, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định). Cha là Mai Xuân Tín làm Bố chánh ở Cao Bằng, mẹ là Huỳnh Thị Nguyệt con của một nhà quyền quý trong làng. Mai Xuân Thưởng vốn là người thông minh, ham học. Năm 18 tuổi (1878) ông đỗ Tú tài tại Trường thi Bình Định. năm 25 tuổi (1885) thi đỗ cử nhân. Hưởng ứng chiếu Cần vương của vua Hàm Nghi, Mai Xuân Thưởng về quê Phú Lạc, chiêu mộ nghĩa binh, lập căn cứ ở hòn Sưng dựng cờ cần vương chống Pháp, sau đó Mai Xuân Thưởng đã đem lực lượng của mình gia nhập vào nghĩa quân do Đào Doãn Địch lãnh đạo và được Đào Doãn Địch phong giữ chức Tán lương quân vụ (phụ trách về lương thực của nghĩa quân). Kể từ đó cho đến năm 1887, phong trào cần vương ở Bình Định phát triển mạnh mẽ và lan ra đến Quảng Ngãi, Phú Yên...thu hút hàng chục ngàn người thuộc mọi tầng lớp tham gia. Ngày 20/9/1885 Đào Doãn Địch mất, giao toàn bộ lực lượng cho Mai Xuân Thưởng. Ông chọn vùng núi Lộc Đổng (nay thuộc xã Bình Tường, huyện Tây Sơn) làm đại bản doanh và tổ chức lễ tế cờ , truyền hịch kêu gọi sỹ phu, văn thân, nhân dân tham gia phong trào cần Vương chống Pháp. Trong buổi lễ ấy, nghĩa quân nhiều vùng trong tỉnh Bình Định đã nhất trí suy tôn ông làm Nguyên soái lãnh đạo cuộc khởi nghĩa và nêu cao khẩu hiệu: “Tiền sát tả, hậu đả Tây”. Đầu năm 1887, quân Pháp dưới sự chỉ huy của Trung tá Cherrean và quân triều đình do Trần Bá Lộc chỉ huy cùng với Công sứ Trira đã mở cuộc tấn công lớn lên căn cứ đại bản doanh của phong trào Cần Vương Bình Định, trận giao chiến giữa lực lượng nghĩa quân với giặc Pháp diễn ra vô cùng ác liệt, cuộc chiến đấu không cân sức, cuối cùng lực lượng khởi nghĩa bị đẩy lùi. Tháng 3 năm 1887, sau trận ác chiến ở Bàu Sấu (thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định), Mai Xuân Thưởng bị thương nặng, nghĩa quân rút về Mật khu Linh Ðổng. Ngày 21 tháng 4 năm 1887, Trần Bá Lộc bao vây đánh chiếm căn cứ mật khu Linh Đổng và bắt được một số nghĩa quân, trong đó có thân mẫu Mai Nguyên Soái. Đêm 30 tháng 4 năm 1887, Mai Xuân Thưởng đã cử một đội quân cảm tử đột nhập doanh trại Trần Bá Lộc, giải vây cho những người bị bắt, ông cùng đoàn thuộc hạ gồm 50 người vượt núi vào Phú Yên, tiếp tục kháng chiến, nhưng khi đến đèo Phú Quý (ranh giới giữa Bình Định và Phú Yên) thị bị phục binh Trần Bá Lộc bắt và đưa ra xử trảm tại Gò Chàm (Phía đông Thành Bình Định). Di tích Lăng mộ nhà yêu nước Mai Xuân Thưởng tọa lạc trên ngọn đồi cao của dãy núi Ngang (thuộc thôn Hòa Sơn, xã Bình Tường, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định) cách thành phố Quy Nhơn khoảng 50km về hướng Tây Bắc; Lăng mộ được xây dựng trên khu đất rộng 1988m2, khánh thành ngày 22 tháng 1 năm 1961.Về tổng thể, Lăng được thiết kế theo kiểu lăng mộ cổ, xung quanh có thành thấp bao bọc. Cổng Lăng (tam quan) là 4 trụ vuông, phía trên thắt lại theo kiểu bầu lọ mang dáng dấp kiến trúc cổng đình, miếu cuối thế kỷ XIX. Giữa nhà Lăng là mộ phần Mai Xuân Thưởng hình khối chữ nhật theo hướng Đông - Tây; Phía đầu mộ dựng tấm Bia đá khắc bài ký ghi tiểu sử và sự nghiệp của Mai Xuân Thưởng: Di tích được Bộ Văn hóa Thông tin quyết định xếp hạng cấp Quốc Gia ngày 20 tháng 4 năm 1995. Nguồn: UBND Huyện Tây Sơn tỉnh Bình Định
Gia Lai 7610 lượt xem
Di tích Ngã Ba Giồng là di tích lịch sử cách mạng thuộc Ấp 5, xã Xuân Thới Thượng, huyện Hóc Môn. Được bao quanh bởi ba con đường: Phan Văn Hớn, Nguyễn Văn Bứa và tỉnh lộ 19. Khu di tích Ngã Ba Giồng là khu tưởng niệm về những sự kiện lịch sử trong hai cuộc khácg chiến chống ngoại xâm. Được công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia vào năm 2002. Ngã ba Giòng (còn có tên gọi đầy đủ là Ngã ba Giòng Bằng Lăng) nằm trên địa phận thôn Xuân Thới Tây thuộc 18 thôn vườn trầu xưa được hình thành từ những năm 1698 đến năm 1731. Từ lâu đời, Ngã ba Giồng là 1 địa danh có tên gọi dân gian đã đi vào lịch sử của quê hương 18 thôn vườn trầu Hóc Môn – Bà Điểm. Tục truyền rằng xưa kia nơi đây là 1 vùng đất giồng tương đối cao ráo và là nơi mọc nhiều cây bằng lăng nên địa danh này có tên gọi từ đó. Sau khi cuộc khởi nghĩa Nam kỳ (23/11/1940) bị thất bại, thực dân Pháp đã tăng cường đàn áp, khủng bố khốc liệt phong trào cách mạng vùng Hóc Môn – Bà Điểm. Chúng đã lập ra ở Hóc Môn 3 trường bắn để giết hại các đồng chí lãnh đạo Đảng, các đồng chí đồng bào yêu nước của quê hương Hóc Môn và các vùng lân cận. Ngã ba Giồng là trường bắn thứ ba ghi lại tội ác tày trời của giặc pháp và bọn tay sai đối với nhân dân Hóc Môn. Rút kinh nghiệm từ 2 trường bắn trước (1 tại rạp hát cũ trung tâm Quận lỵ Hóc Môn, 1 cạnh giếng nước sau Bệnh viện Hóc Môn ngày nay), chúng xử bắn công khai, bắt nhân dân đến xem nhằm mục đích uy hiếp tinh thần cách mạng của nhân dân Hóc Môn. Nhưng cách xử bắn đó đã phản tác dụng, nhân dân Hóc Môn đã tận mắt chứng kiến sự tàn ác của thực dân Pháp, sự hy sinh cao cả của các chiến sĩ cộng sản nên ngọn lửa yêu nước của họ càng bùng lên mãnh liệt. Trường bắn thứ 3 này, chúng không dám xây dựng gần trung tâm Quận lỵ nữa mà đưa ra khu vực Ngã ba Giồng là vùng hoang vắng, thưa dân để tránh sự phản kháng của nhân dân. Tại đây, chúng xây dựng thành 1 trường bắn có mô đất kiên cố dài 12m, cao 2,2m, phía trước có trồng 6 cột bắn, mỗi cột cao 1.7m, hướng bắn quay về phía đồng ruộng (bưng Tràm Lạc). Vào năm 1941, tại đây chúng lén lúc xử bắn rất nhiều lần, không cho nhân dân xem, hàng trăm chiến sĩ cộng sản và đồng bào yêu nước bị chúng giết hại. Với ý nghĩa lịch sử vô cùng thiêng liêng của Ngã ba Giồng, nơi ghi dấu tội ác dã man của giặc Pháp, nơi thể hiện ý chí chiến đấu bất khuất kiên cường và sự hy sinh cao cả của đồng chí và đồng bào ta sau cuộc khởi nghĩa Nam kỳ (23/11/1940); sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng (30/4/1975), huyện Hóc Môn đã nhanh chóng khôi phục và tôn tạo khu di tích lịch sử cách mạng Ngã ba Giồng nhằm giáo dục truyền thống cho các thế hệ thanh thiếu niên. Nơi đây đã trở thành điểm tham quan, nơi tổ chức lễ hội truyền thống trong những ngày lễ lớn hàng năm của huyện Hóc Môn và thành phố đặc biệt là lễ kỷ niệm ngày Nam kỳ Khởi nghĩa (23/11). Hiện nay được sự nhất trí của thành phố, huyện đang tiến hành tôn tạo xây dựng Ngã ba Giồng thành “Khu tưởng niệm liệt sĩ Ngã ba Giồng”. Nguồn: Cổng thông tin điện tử Hóc Môn
TP Hồ Chí Minh 7440 lượt xem