Di tích lịch sử

TP Hồ Chí Minh

Di tích khảo cổ Dốc Chùa

Di tích khảo cổ Dốc Chùa là di tích cấp Quốc gia xếp hạng năm 2001 (Quyết Định 53/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thể Thao ngày 28/12/2001), nằm trên bờ sông Đồng Nai, trên đường liên tỉnh lộ Tân Uyên đi Lạc An, thuộc ấp Tân Hòa, xã Tân Mỹ, huyện Bắc Tân Uyên. ​Qua những đợt khai quật đã hình thành nhiều bộ sưu tập hiện vật có giá trị lịch sử và khoa học rất lớn. Các công cụ sản xuất bằng đá, gốm, đồng,… đặc biệt một bộ sưu tập gồm 76 khuôn đúc đồng và 68 công cụ vũ khí bằng đồng đã phát hiện trong di tích. Dốc Chùa trở thành một sưu tập hiện vật quan trọng biểu hiện cho một đỉnh cao phát triển của thời tiền sử vùng Đông Nam Bộ. Một di tích đa dạng và phong phú có nhiều yếu tố mới, sự hội tụ về kinh tế, kỹ thuật của xã hội phát triển cao, có niên đại từ 2500 – 3000 năm cách ngày nay. Trong đó, có Tượng Thú được công nhận Bảo vật quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Bình Dương.

TP Hồ Chí Minh 1432 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Di tích khảo cổ Cù Lao Rùa

​​Cù Lao Rùa thuộc phường Thạnh Hội, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương. Xếp hạng di tích quốc gia năm 2009 (Quyết Định số 836/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thể Thao Du Lịch ngày 03/3/2009). ​​Di tích có niên đại phát triển qua hai giai đoạn (sớm từ 3500 – 3000; muộn từ 3000 – 2700 năm cách ngày nay). Tổng diện tích 277 hecta, độ cao 15m so với mặt bằng khu vực. Đây là một trong những điểm khảo cổ học được phát hiện đầu tiên ở miền Đông Nam Bộ, qua các cuộc khai quật khảo cổ phát hiện Cù Lao Rùa là khu di tích cư trú - mộ táng, với nhiều công cụ bằng đá, đồ gốm và hàng ngàn mảnh gốm vỡ các loại và nhiều mộ táng. Trải qua hơn 100 năm nghiên cứu, Cù Lao Rùa đã góp phần quan trọng bảo tồn di sản văn hoá thời tiền sử và danh thắng tỉnh Bình Dương. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Bình Dương.

TP Hồ Chí Minh 1378 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Nhà cổ Trần Công Vàng

Ngôi nhà tọa lạc tại số 21, đường Ngô Tùng Châu, phường Phú Cường, thị xã Thủ Dầu Một, trên một khu đất rộng 1.333m2, riêng phần chính (nhà trên) là 323m2, nhà phụ (nhà dưới) chiếm 119m2, được xây cất và hoàn thành vào khoảng năm 1889 – 1892. Ngôi nhà được công nhận di tích cấp Quốc gia ngày 07/01/1993. Nhà quay mặt về hướng Nam, lưng dựa vào ngọn đồi (nơi có trụ sở Ủy ban nhân dân Tỉnh bây giờ), đây cũng là cái thế đắc địa, nói theo các nhà phong thủy xưa. Xét về mặt vị trí địa lý của ngôi nhà cụ Vàng cũng như hai ngôi nhà cổ nữa của cánh họ Trần ở phường Phú Cường đều nằm gần con sông Sài Gòn, rất thuận tiện cho việc chuyên chở cây gỗ từ rừng về. Được biết, nội tổ của cụ Vàng đã từng làm nghề rừng, có trại cưa, xẻ gỗ. Công trình xây dựng theo kiến trúc kiểu chữ đinh nghịch, tức là phần nhà ngang nằm bên trái nhà trên, thay vì nằm bên phải. Đây là nhà chữ đinh có cải tiến, có bộ phận sân con ngăn cách nhà trên và dưới, liên lạc giữa hai bộ phận bằng một nhà cầu nhỏ cắt đôi sân con làm hai phần cửa của nhà dưới trổ ra nơi đầu sân con ấy mà không trổ ra ở đầu hồi, cái cửa này cũng được kiến trúc một cách đặc biệt, mới nhìn giống như một số cổng đền người Hoa, nhưng chủ nhân lại bảo phóng theo kiểu đền của Ấn Độ. Cũng như nhiều nhà khác, nhà cụ Vàng có bộ khung sườn làm theo kiểu nhà xuyên trính, nhưng có đến 8 đấm, 8 quyết ở hai chái nhà. Bộ trính, trổng, cối đều được đẻo gọt khéo léo, trính uốn xong có tạo gờ, các đoạn kèo được chạm tỉ mỉ, công phu, hàng lá dung thẳng tắp ở hàng cột thứ ba. Toàn phần nhà trên đếm được 48 cây cột tròn, tất cả đều đứng xa vách. Phần trang trí bên trong ngôi nhà là phần làm cho du khách thích thú nhất, đó là sự chạm khắc công phu, từ chân cột đến mái nhà, bàn ghế tủ ghế, trang thờ các khung cửa các ô lồng… hoành phi, liễn, đối, những bức tranh tứ bình, những tấm thủ quyển… tất cả đều chạm trổ, sơn thếp cẩn xà cừ công phu khéo léo, làm cho ngôi nhà tráng lệ mà trang nghiêm. Nhìn chung, những mô típ chạm khắc ở đây thường mang tính ước lệ, tượng trưng, trong đó thể hiện ước muốn một cuộc sống bình yên, hạnh phúc, và một nết sống nhân nghĩa, đạo đức… Những đường nét chú trọng sự uyển chuyển, mềm mại. Các hình ảnh chạm khắc gồm cây cỏ, hoa lá, chim thú, vật dụng, những đường hình học. Riêng tấm thủ quyển treo ở bàn thờ bên phải từ trong nhìn ra chạm hình Tùng Lộc, Mã Dương có kèm theo hai câu thơ chữ Hán tạo được cái vẻ thanh thoát, nhã đạm, tiêu sái. Phân bố mặt bằng của ngôi nhà,Trước hết là nhà trên, nhà có 5 gian hai chái, phần thờ phụng, tiếp khách, các buồng để ở và chứa đồ đạc của cải được ngăn chia rạch ròi. Phần thờ phụng chiếm ba gian dựa theo nguyên tắc gian bên trái thờ cha mẹ của chủ nhà, bên phải thờ ông bà, bàn thờ giữa thờ ông bà cao hơn gọi chung là gia tiên. Mỗi bàn thờ gồm tủ thờ cẩn xà cừ, bên trên là đồ ngũ sự, bên trong là bài vị hoặc chân dung người quá cố, sát vách lụa là bức thờ, trên có bài châm, câu đối, đầu bức thờ có phần Mi chạm “Lưỡng long tranh châu” và tấm thủ quyển. Hai gian hai bên là phòng ngủ của vợ chồng chủ nhân, phía sau vách thờ là dãy buồng chứa đựng đồ đạc... Trên các bàn thờ là những trang thờ có đặt các bài vị, đề quan thánh đế quân, thổ công, đông trù, tư mệnh, phước đức thánh thần, tài thần. Phần dành để tiếp khách gồm hai lòng căn (tức từ hàng cột thứ hai đến hàng cột thứ tư), nơi đây có đặt bàn ghế để tiếp khách, bao gồm ở gian giữa làm một bàn tròn lớn, mặt bàn lót đá cẩm thạch, trên bàn đặt giá Bát bửu (tám món binh khí cổ), chung quanh bàn có đặt ghế với chạm trổ tinh vi và giàu ý nghĩa tượng trưng. Hai bên bàn tròn ấy là những bàn hình chữ nhật đóng theo kiểu ghế chân nghi. Ở gian đầu là hai bàn hình hộp xoài, chung quanh đặt ghế kiểu hiện đại, tất cả các bàn ghế đều bằng gỗ. Dọc theo vách ngăn giữa phần tiếp khách và phần thờ có đặt những bàn nhỏ hình vuông bên trên có những đĩa trái cây bằng sứ, cũng nơi đây chủ nhân cho đặt một tấm Phả đồ nêu khái quát thế thứ của những người trong họ. Ở hai đầu chái nhà cũng có đặt bàn, bên trái trên bàn thờ để ảnh chủ nhân, có cặp đôi hai bên, bộ tranh tứ bình cở nhỏ, cặp câu đối và tranh tứ bình. Đặc biệt, trước của buồng ngủ đặt một cái tủ kiếng, bên trong chứa nhiều món quý như tiền cổ, nón quai thao, đồ cho cô dâu khi về nhà chồng, theo kiểu xưa… Nhà dưới là một căn nhà ngang, cất theo lối xuyên trính nhưng đơn giản hơn nhà trên. Nhà ngang dùng để tiếp khách bình thường, là nơi sinh hoạt gia đình, nhà ăn, nhà bếp,… phía trước nhà ngang là nhà xe hướng cửa ra cổng. Sân trước trồng nhiều chậu hoa kiểng, cây kiểng… tôn thêm nét đẹp cổ kính của ngôi nhà. Nhà cụ Vàng vừa mang tính nghệ thuật – nhân văn đậm nét văn hóa truyền thống Việt Nam; đồng thời, khẳng định kỹ thuật điêu khắc, chạm trổ đã có truyền thống lâu đời ở Bình Dương. Các hiện vật trang trí và đồ dùng trong nhà còn nhiều và hầu hết là cổ vật. Toàn bộ kiến trúc ngôi nhà và hiện vật bên trong, cho ta thấy được nét sinh hoạt của gia đình thuộc tầng lớp giàu có ở cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, thể hiện sự phát triển về đời sống của cư dân người Việt trên đất Bình Dương. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Bình Dương.

TP Hồ Chí Minh 1431 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Chợ Bến Thành

Lịch sử hình thành Chợ Bến Thành gắn liền với thăng trầm của đô thị Sài Gòn – Chợ Lớn. Chợ được khởi công xây dựng từ năm 1912, trải qua nhiều lần trùng tu, di dời mới có được diện mạo và vị thế hôm nay. Ban đầu, chợ nằm bên bờ sông Bến Nghé, nơi có một bến sông để quân lính và người dân ra vào thành Gia Định (Quy Thành, thành Bát Quái), vì thế nên gọi là Chợ Bến Thành. Sau cuộc nổi dậy Lê Văn Khôi (1833-1835), thành Gia Định bị phá bỏ, Chợ Bến Thành cũng hoang vắng. Sau khi người Pháp tấn công Sài Gòn (tháng 2-1859), chợ bị thiêu rụi hoàn toàn. Năm 1860, người Pháp cho xây lại Chợ Bến Thành ở địa điểm cũ. Sau nhiều lần trùng tu, ngôi chợ dần khang trang hơn với hệ thống cột gạch, sườn sắt, mái ngói, .. Đến đầu thế kỷ XX, người Pháp cho xây lại Chợ Bến Thành mới tại vị trí ngày nay trong khoảng thời gian 1912-1914, cửa nam có gắn chiếc đồng hồ mang tính biểu tượng. Phía trước cửa chính (cửa nam) là Bùng binh Chợ Bến Thành, còn gọi là Công trường Diên Hồng, Quảng trường Quách Thị Trang... Đến năm 1952, khi tu sửa chợ người ta cho gắn 12 bức phù điêu của xưởng mỹ nghệ Biên Hòa ở bốn cửa chợ. Từ đó đến nay hình ảnh Chợ Bến Thành trở nên quen thuộc, gần gũi, trở thành một miền ký ức văn hóa đô thị của thành phố. Nguồn: Báo điện tử Pháp Luật thành phố Hồ Chí Minh

TP Hồ Chí Minh 3198 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp thành phố Mở cửa

Hồ Con Rùa

Hồ Con Rùa ở trung tâm TP HCM có tên chính thức là Công trường Quốc tế, là nút giao của các tuyến đường Phạm Ngọc Thạch, Trần Cao Vân và Võ Văn Tần. Xung quanh hồ tập trung rất nhiều nhà hàng, quán bar, cà phê nên khu vực này luôn nhộn nhịp từ sáng đến khuya. Nguyên thủy vị trí Hồ Con Rùa vào năm 1790 là cổng thành Khảm Khuyết của thành Bát Quái (còn gọi là thành Quy) được xây theo lệnh vua Gia Long. Tuy nhiên, sau cuộc nổi loạn của Lê Văn Khôi (1833-1835), vua Minh Mạng đã cho phá thành Bát Quái và xây một ngôi thành nhỏ hơn mang tên là thành Phụng (thành Gia Định). Vị trí cửa Khảm Khuyết trở thành một điểm ở ngoài thành và nối thẳng con đường ngoài mặt tây thành xuống bến sông (đường số 16 - Catinat và bây giờ là Đồng Khởi). Sau khi chiếm được Sài Gòn năm 1859, người Pháp đã cho phá hủy toàn bộ thành Gia Định. Năm 1878, một tháp nước được xây tại vị trí Hồ Con Rùa ngày nay để phục vụ nhu cầu cung cấp nước uống cho cư dân trong vùng. Đến năm 1921, tháp nước bị phá bỏ và con đường được mở rộng nối dài đến đường Mayer (nay là đường Võ Thị Sáu). Từ đó, vị trí này trở thành giao lộ của các tuyến đường như ngày nay. Cũng tại vị trí này, người Pháp cho xây một tượng đài ba binh sĩ bằng đồng với hồ nước nhỏ, để đánh dấu cuộc xâm chiếm và biểu tượng của người Pháp làm chủ Đông Dương. Do đó, người dân thường gọi nó là Công trường Ba hình. Các tượng đài này tồn tại đến năm 1956 thì bị Chính quyền Việt Nam Cộng hòa phá bỏ, chỉ còn lại hồ nước nhỏ. Giao lộ cũng được đổi tên thành Công trường Chiến sĩ. Sau khi người Pháp rút khỏi Việt Nam, địa điểm Công trường Chiến sĩ trở thành vòng xoay giao thông của đường Duy Tân (nay là Phạm Ngọc Thạch) và Trần Quý Cáp (nay là Võ Văn Tần - Trần Cao Vân). Thời điểm xây Hồ Con Rùa chưa được xác định chính xác, song một số tài liệu cho là nó được xây năm 1965-1967. Người thiết kế là kiến trúc sư Nguyễn Kỳ. Trong những năm 1970 đến 1974, Hồ Con Rùa được chính quyền Việt Nam Cộng Hòa trùng tu và chỉnh trang. Trong đó có việc dựng thêm và điều chỉnh 5 cột bêtông cao có dạng năm bàn tay xòe ra giống như các cánh hoa đón đỡ một nhụy hoa. Công trình mới này còn bao gồm một vòng xoay giao thông với đường kính khoảng gần 100 mét, được trang trí bởi cây xanh và hồ phun nước hình bát giác lớn với 4 đường đi bộ xoắn ốc đồng hướng đến khu vực trung tâm và hình tượng con rùa bằng hợp kim đội trên lưng bia đá lớn. Do đó, mới có tên gọi dân gian là Hồ Con Rùa. Ban đầu, khu giao lộ này được đặt tên là Công trường Chiến sĩ Tự do, đến năm 1972 thì đổi tên thành Công trường Quốc tế. Tuy nhiên, đầu năm 1976, tấm bia và con rùa bị phá hủy trong một vụ nổ, dù con rùa không còn nhưng người dân vẫn quen cách gọi cũ thay vì tên chính thức. Do có kiến trúc khá kỳ lạ, Hồ Con Rùa được gắn với giai thoại trấn yểm long mạch của tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu. Theo lời thuật của tác giả Huỳnh Bá Thành trong cuốn sách Vụ án Hồ Con Rùa (Nhà xuất bản Tuổi Trẻ 1982), có giai thoại truyền miệng kể là vào năm 1967 khi tướng Nguyễn Văn Thiệu lên làm tổng thống Việt Nam Cộng Hòa, đã cho mời một thầy phong thủy người Hoa nổi tiếng đến coi thế đất tại dinh Độc Lập. Ông thầy phong thủy này khen dinh được xây trên long mạch. Con rồng này có đầu nằm ngay dinh Độc Lập (vì vậy Dinh Độc lập còn có tên gọi là Phủ Đầu Rồng) và đuôi rồng nằm tại vị trí Công trường Chiến sĩ. Tuy phát hưng vượng nhưng do đuôi rồng hay vùng vẫy nên sự nghiệp không bền, cần phải cúng yểm bùa bằng cách đúc một con rùa lớn để trấn đuôi rồng không vùng vẫy, mới giữ được ngôi vị tổng thống lâu dài. Vì vậy, ông Nguyễn Văn Thiệu đã nghe theo và cho xây dựng một hồ nước có hình bát giác, phỏng theo bát quái trận đồ, một biểu tượng phong thủy thường dùng để trấn yểm của người xưa, và cho đặt một con rùa lớn đúc bằng đồng ngay chính giữa hồ. Cũng vì thế, nhiều người cho rằng kiến trúc tháp cao giống như hình một thanh gươm hoặc một cây đinh khổng lồ đóng xuống hồ nước để giữ chặt đuôi rồng, và khuôn viên hồ nước có hình bát quái, bên giữa có hình âm dương. Nguồn: Báo tiếng Việt

TP Hồ Chí Minh 3075 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp thành phố Mở cửa

Trại tạm giam Chí Hòa

Trại giam Chí Hòa, còn gọi là Khám Chí Hòa, nằm tại quận 10, TP HCM, là nhà tù được người Pháp xây dựng từ năm 1943 nhằm thay thế Khám Lớn Sài Gòn ở góc đường Lý Tự Trọng - Nam Kỳ Khởi Nghĩa. Công trình được cho là do người Nhật khởi xướng sau khi đảo chính Pháp để giam tù nhân, tuy nhiên khi thi công chưa hoàn thành, họ đã rút khỏi Việt Nam. Sau đó, người Pháp tiếp tục công việc bỏ dở. Hầu như toàn bộ vật liệu như xi măng, sắt, thép đều chở từ Pháp sang. Ngày 8/3/1953, khi Khám Chí Hòa xây dựng hoàn chỉnh, Khám Lớn Sài Gòn bị phá bỏ. Ngoài một số tù nhân được phóng thích, còn lại khoảng 1.600 người cùng chiếc máy chém chuyển về Khám Chí Hòa. Với diện tích 7 hecta, Khám Chí Hòa cao 3 tầng lầu, 238 phòng. Trong đó có hai dãy nhà dành cho phạm nhân nữ. Nơi đây từng giam tù chính trị chống lại thực dân Pháp, chống chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Ngày nay, nơi này được Công an TP HCM dành cho các bị can trong các vụ án trên địa bàn. Khám Chí Hòa do một kiến trúc sư người Nhật thiết kế và xây dựng theo thuyết ngũ hành, bát quái được đánh giá là một công trình kiến trúc đặc biệt. Vừa hòa hợp những đặc trưng cơ bản của kiến trúc Pháp: kiên cố, kín đáo, mát mẻ, vừa mang nét huyền bí âm dương ngũ hành của phương Đông. Khám có hình bát giác với 8 cạnh đều nhau, 8 góc tượng trưng cho 8 quẻ: Càn, Khôn, Chấn, Tốn, Cẩn, Khảm, Đoài, Ly trong Kinh Dịch. Khám có 8 khu giam phạm nhân, xây hình bát giác vuông. Một vài tài liệu nghiên cứu lại cho rằng, Khám Chí Hòa được xây dựng dựa trên bát quái trận đồ của Khổng Minh Gia Cát Lượng thời Tam Quốc. 8 quẻ tương ứng với 8 cửa trận là: Hưu - Sinh - Thương - Đỗ - Cảnh - Tử - Kinh - Khai. Mỗi cạnh của bát quái trận đồ là một khu, lưng xây bịt kín ở phía ngoài còn phía trong toàn song sắt và mỗi khu có 4 buồng giam. Chí Hòa chỉ có một cửa vào nên người ta gọi đó là "cửa tử". Qua cửa này là hệ thống đường hầm thiết kế theo cung vị nếu không được hướng dẫn, người đi vào sẽ bị mất phương hướng, giống như lọt vào một mê cung, không thể tự tìm đường ra được. Giữa Khám Chí Hòa là khoảng sân rộng cũng hình bát giác chia thành 8 khu tam giác nhỏ, với rất nhiều cây, bãi cỏ sạch sẽ và thoáng mát. Ở giữa là một vọng gác cao hơn 20 m, trên có bể chứa nước phình to như một cây kiếm cắm thẳng xuống. Đứng tại đây, lính canh có thể dễ dàng quan sát tất cả các phòng giam. Với kiến trúc trận đồ bát quái của Chí Hòa, phạm nhân khi đã vào đây thì khó mà vượt ngục. Lịch sử cho đến nay chỉ có 3 lần vượt ngục thành công. Trường hợp thứ nhất là các chiến sĩ cách mạng vào thời điểm Nhật đảo chính Pháp năm 1945, thứ 2 là tướng cướp Điền Khắc Kim vào năm 1972 và người thứ ba là tử tù khét tiếng Phước "Tám Ngón" năm 1995. Từ lâu, Khám Chí Hòa đã gắn với những giai thoại kỳ bí. Người ta đồn rằng, vọng gác chính giữa khám chính là thanh kiếm trấn. Những tên tội phạm dù có xảo quyệt đến đâu thì khi ở đây mọi thủ đoạn của chúng cũng bị thanh kiếm "linh" này hoá giải. Thanh kiếm này chính là "trái tim" của của toà nhà, nếu nó bị nhổ lên thì toàn bộ "trận đồ" sẽ tự vỡ. Một câu chuyện ly kỳ khác vẫn được người ta truyền miệng là do có nhiều người chết trong Khám Chí Hòa nên âm khí ở đây rất nặng nề. Vì thế, trời thường xuyên làm sấm sét đánh bể một góc để khai một cửa Sanh, cho oán khí được thoát ra, người chết được siêu thoát. Từng có thông tin cho rằng, chính quyền Việt Nam Cộng Hòa đã rước một thầy địa lý rất cao tay về nhằm hoá giải một phần "trận đồ" này. Thực tế, một trong 8 nóc nhà của hình bát giác đã được san bằng, phá vỡ tính hoàn hảo của "bát quái", thuận theo thiên ý mở một cửa Sanh cho các linh hồn được bay đi. Trong khi đó, một số nhà khoa học thì cho rằng bên dưới của tòa nhà có thể là mỏ quặng khiến sét hay đánh trúng Khám Chí Hòa. Trong khuôn viên Khám Chí Hòa còn có một nhà thờ (ngày nay được sử dụng làm Hội trường của Trại) được Pháp xây dựng làm nơi "rửa tội" cho những tù nhân trước khi bị xử tử. Ngoài ra, để giải thoát "âm khí", năm 1954, cai ngục Khám Chí Hòa cho xây bên ngoài "bát quái trận" (nhưng vẫn nằm trong khuôn viên khám) ngôi chùa đặt tượng Phật. Sau này ngôi chùa không còn, bức tượng Phật hiện nằm trên một hồ nước nhỏ. Nguồn: Báo tiếng Việt

TP Hồ Chí Minh 4047 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Khu Trại Giam Bệnh Viện Chợ Quán

Bệnh viện Chợ Quán (nay là Bệnh viện Bệnh Nhiệt Đới) là bệnh viện xưa nhất ở Sài Gòn được xây dựng xong năm 1864. Bệnh viện chuyên điều trị các loại bệnh truyền nhiễm và bệnh tâm thần. Do nhu cầu điều trị bệnh tâm thần nên trong bệnh viện có xây một khu riêng biệt để nhốt các bệnh nhân tâm thần. Khu nhốt bệnh nhân đó nay đã trở thành một di tích lịch sử văn hóa. Trong quá trình xâm lược nước ta, thực dân Pháp đã bắt bớ, tra tấn dã man đến lâm bệnh nhiều chiến sĩ cách mạng và đồng bào yêu nước. Vì cần khai thác tin tức, nên chúng đưa tù nhân vào khu nhà nhốt bệnh nhân tâm thần của bệnh viện Chợ Quán để vừa điều trị cầm chừng vừa tiếp tục tra hỏi. Từ đó, khu nhà nhốt bệnh nhân tâm thần trở thành nơi giam giữ nững người tù bị bệnh. Năm 1931, đồng chí Trần Phú – Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng Cộng sản Đông Dương nay là Đảng Cộng sản Việt Nam đã bị thực dân Pháp giam giữ và trút hơi thở cuối cùng tại nơi đây. Ngày 18/4/1931, đồng chí Trần Phú đã bị bắt tại nhà số 66 đường Champagne (nay là đường Lý Chính Thắng) – cơ quan ấn loát của Đảng . Sau khi giam giữ và dùng nhiều cực hình tra tấn dã man đồng chí Trần Phú ở nhiều trại giam khác nhau, chúng chuyển đồng chí về Khám Lớn Sài Gòn để chuẩn bị xét xử. Lúc này, sức khỏe của đồng chí Trần Phú đã ngày càng suy kiệt. Thực dân Pháp muốn duy trì sự sống của đồng chí để khai thác những bí mật của Đảng, nên ngày 26/8/1931, chúng đưa đồng chí đến trại giam trong bệnh viện Chợ Quán để điều trị bệnh. Ngày 6/9/1931, đồng chí Trần Phú chút hơi thở cuối cùng tại đây. Thi hài của đồng chí được đặt ở phòng cá nhân. Các đồng chí trong trại giam đã làm lễ truy điệu đồng chí ở phòng này. Toàn thể tù chính trị trong trại giam đã đứng dọc theo hành lang để tiễn đưa đồng chí Trần Phú – người Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng. Ngoài đồng chí Trần Phú, trong suốt 2 cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, nhiều chiến sĩ cách mạng khác như Trần Não, Hà Huy Tập, Trần Bạch Đằng, Nguyễn Văn Trỗi cũng đã từng bị giam giữ ở khu trại giam này. Ngày nay, khu trại giam trong bệnh viện Chợ Quán được mở cửa để đón khách tham quan. Di tích vẫn còn in đậm dấu vết của gông cùm, xiềng xích dưới chế độ thực dân; cũng như những dấu ấn về cuộc chiến đấu kiên cường bất khuất của các chiến sĩ cách mạng với những khẩu hiệu đấu tranh bằng máu còn rõ nét trên các bức tường. Từ cổng bệnh viện đi vào khu trại giam, ở phía bên phải, mặt bằng kiến trúc của khu trại giam hình chữ U. Dãy ngang của hình chữ U dài 32m, rộng 12m. Hai dãy dọc bằng nhau, mỗi dãy dài 14m, rộng 7,5m. bên ngoài phía trước cửa trại giam có phòng gác nhỏ, lợp ngói móc. Xung quanh có tường gạch cao 2,5m bao bọc. Từ cửa trại giam đi vào, đầu tiên là phòng giam lớn, giam khoảng 20 người. Kế đến là 2 phòng giam lớn và 2 phòng giam nhỏ. Giữa lối đi có xây thêm một bức tường từ cửa ra vào đến cuối dãy nhà ngăn cách các phòng giam bên trái và bên phải. Bên trái cửa trại giam, cách 10,5m là 2 phòng giam bằng nhau, bề ngang mỗi phòng 10,75m. gần cuối dãy có 2 phòng giam cá nhân nhỏ, trên nóc phòng có giăng lưới sắt. Cuối dãy có 3 phòng vệ sinh nhỏ. Nhìn chung, khu trại giam trong bệnh viện Chợ Quán là một di tích lịch sử khá nguyên vẹn. Những năm gần đây, quận 5 đã đầu tư gần 700 triệu đồng để trùng tu giai đoạn một di tích, làm một trong những địa điểm sinh hoạt chính trị, giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ. Sau khi khánh thành, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh quận 5 chịu trách nhiệm quản lý và giới thiệu, hướng dẫn khách đến tham quan di tích . Di tích có tác dụng giáo dục rất lớn đối với thế hệ trẻ, từ tấm gương sáng chói của đồng chí Trần Phú về lòng dũng cảm, tinh thần kiên định cách mạng và tình thương nhân ái đối với đồng chí, đồng đội. Di tích này sẽ mãi mãi nhắc nhở thế hệ sau lời di huấn của đồng chí Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng: “Hãy giữ vững ý chí chiến đấu”. Khu trại giam trong bệnh viện Chợ Quán đã được Bộ Văn hóa công nhận là di tích lịch sử ngày 16/11/1988. Nguồn: Ủy Ban Nhân Dân Quận 5 Thành Phố Hồ Chí Minh

TP Hồ Chí Minh 2944 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình Phú Cường (Đình Bà Lụa)

Đình Phú Cường tọa lạc ở phường Phú Thọ, TP Thủ Dầu Một, là Di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh được xếp hạng ngày 02/06/2004. Đình Phú Cường còn gọi là Đình Bà Lụa được xây dựng vào khoảng nửa cuối thế kỷ XIX, khá nổi tiếng về quy mô và kiến trúc độc đáo. Chánh điện được xây dựng trên một nền cao, kiến trúc theo kiểu truyền thống xưa với ba gian nhà liền mái theo kiểu chữ Tam; kèo, cột, xuyên, trính, đều được đúc bằng xi măng. Gian trong cùng của Chánh điện gọi là Chánh tẩm hay Hậu cung để thờ vị Chánh thần, tức thần Thành Hoàng. Hai bên là khám thờ tả bang, hữu bang. Đối diện với bàn thờ thần là hương án. Ở gian chính còn có những tấm hoành phi, câu đối tạo sự trang nghiêm cho nơi thờ phụng. Gian giữa là gian tiền tế, để lễ vật lên cúng thần và là nơi vị đọc chúc sẽ đọc văn tế trong dịp tế lễ… Gian tiền tế còn có cặp đài bằng gỗ chạm hình tứ linh do ông Phó Tổng Bình Điền cúng vào năm Giáp Thìn (1904). Gian ngoài cùng gọi là Hội đồng ngoại có am thờ Tiền hiền, Hậu hiền. Hai bên Chánh điện có Đông lang dành cho bá tánh nam nữ hội họp và khu nhà kho. Trước sân đình là bình phong long hổ, bàn thờ thần Nông. Hai bên thờ tả hộ vệ, hữu hộ vệ. Nơi đây còn lưu giữ rất nhiều binh khí cổ, đồ gỗ đẹp và quý hiếm. Hằng năm, đình có hai kỳ tế lễ: Lễ Kỳ Yên (Rằm tháng Giêng) và Lễ Thu Tế (mùng 1 tháng 10 Âm lịch) thu hút rất đông du khách đến tham gia lễ hội. Nguồn: Cổng Thông tin điện tử tỉnh Bình Dương

TP Hồ Chí Minh 2915 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Di Tích Lịch Sử Căn Cứ Vùng Bưng 6 Xã

Vùng bưng 6 xã huyện Thủ Đức là vùng đất ven Thành phố Sài Gòn, có hệ thống giao thông đường thủy và đường bộ quan trọng, kết nối Thành phố Sài Gòn với Thủ Đức và các vùng xung quanh. Nơi đây có vị trí chiến lược quan trọng về quân sự, xây dựng căn cứ địa cách mạng tại vùng bưng sẽ nối liền với căn cứ địa của các huyện vùng ven Thành phố Sài Gòn, từ các nơi này lực lượng ta có thể bất ngờ tiến công vào trung tâm đầu não của quân đội thực dân và đế quốc. Tháng 10 năm 1946, Tỉnh ủy Gia Định chỉ đạo thành lập huyện ủy lâm thời huyện Thủ Đức do đồng chí Dương Văn Sửu làm Bí thư. Thực hiện chỉ đạo của Tỉnh ủy, Huyện ủy đề ra nhiệm vụ và phương hướng hoạt động của huyện là đẩy mạnh trừ gian, diệt ác, mở rộng hoạt động xuống vùng bưng, xây dựng chính quyền, mặt trận đoàn thể ở các xã vùng bưng. Tập trung vào nhiệm vụ trọng tâm là xây dựng căn cứ Khu B và căn cứ khu C của huyện tại vùng bưng, thành lập Mặt trận Việt Minh và chính quyền các xã Long Phước, Phú Hữu, Tam Đa, Phước Trường. Căn cứ khu B là Long Phước thôn được thành lập năm 1947. Căn cứ khu C (tiền thân của Căn cứ Vùng bưng 6 xã được thành lập vào cuối năm 1947 đầu năm 1948 khi mới thành lập chỉ có 3 xã là Tam Đa, Phước Trường, Ích Thạnh, sau đó được mở rộng thêm là xã Phú Hữu và đến khi hoàn chỉnh thì bao gồm 8 xã là Tam Đa, Phước Trường, Ích Thạnh, Phú Hữu, Phước Long, Tăng Nhơn Phú, Bình Trưng, An Phú. Sau này 3 xã Tam Đa, Phước Trường, Ích Thạnh sáp nhập thành xã Long Trường do vậy còn lại 6 xã: Long trường, Phú Hữu, Phước Long, Tăng Nhơn Phú, Bình Trưng, An Phú được gọi là Căn cứ Vùng Bưng 6 xã. Căn cứ Vùng bưng 6 xã là địa bàn cơ động chiến lược vô cùng quan trọng của các lực lượng vũ trang từ xã, huyện đến tỉnh, quân khu và miền để uy hiếp và đánh vào cơ quan đầu não địch một cách táo bạo nhất, bất ngờ nhất, trong thời gian nhanh nhất, với khoảng cách ngắn nhất (cách trung tâm thành phố chỉ 5 km theo đường chim bay) đặc biệt là nơi xuất phát của lực lượng vũ trang tiến công vào Thành phố Sài Gòn trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968 và đại thắng mùa xuân 1975. Dưới sự lãnh đạo của Huyện ủy, các lực lượng vũ trang và Nhân dân Vùng bưng 6 xã đã đoàn kết một lòng, vượt qua mọi gian khổ hy sinh, kiên cường bám trụ xây dựng căn cứ, bảo vệ an toàn căn cứ và chiến đấu đến thắng lợi hoàn toàn. Với những giá trị tiêu biểu về mặt lịch sử nêu trên, ngày 10/10/2008 Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã công nhận căn cứ Vùng bưng 6 xã là di tích lịch sử. Hiện nay, nhà truyền thống căn cứ Vùng bưng 6 xã trưng bày các hình ảnh, hiện vật và tài liệu nhằm giới thiệu truyền thống đấu tranh cách mạng của quân và dân Vùng bưng sáu xã trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Được đưa vào hoạt động từ tháng 8 năm 2011, đã thu hút hàng nghìn lượt khách đến tham quan và học tập mỗi năm. Nhà truyền thống di tích lịch sử – văn hóa căn cứ Vùng bưng 6 xã tọa lạc trên đường Lã Xuân Oai, khu phố Phước Hiệp, phường Long Trường, thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh). Nguồn: Trung Tâm Văn Hóa Tp Thủ Đức

TP Hồ Chí Minh 4605 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp thành phố Mở cửa

Nhà lưu niệm Võ Thị Sáu

Nhà lưu niệm và tượng đài anh hùng Võ Thị Sáu nằm ở ngã tư Đất Đỏ, thuộc xã Phước Long Thọ - Huyện Đất Đỏ. Ngôi nhà vách gỗ, mái ngói cổ xưa nơi mà chị đã từng sống thời niên thiếu cùng gia đình có các kỷ vật, vật dụng đơn sơ, có bàn thờ tổ tiên và bàn thờ chị đặt ở gian ngoài. Năm 1980 ngôi nhà được ủy ban nhân dân huyện Đất Đỏ tu bổ lại khang trang như ngày nay. Võ Thị Sáu là một nữ du kích trong Chiến tranh Việt-Pháp ở Việt Nam, người nhiều lần thực hiện các cuộc mưu sát nhắm vào các sĩ quan Pháp và những người Việt cộng tác với chính quyền thực dân Pháp tại miền Nam Việt Nam. Nhà nước Việt Nam xem cô như một biểu tượng Liệt nữ Anh hùng tiêu biểu trong cuộc kháng chiến chống Pháp và đã truy tặng cho cô danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân năm 1993. Võ Thị Sáu sinh năm 1933, là con ông Võ Văn Hợi và bà Nguyễn Thị Đậu. Về nguyên quán, trên bia mộ chỉ ghi tại huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Chị sinh ra trong một gia đình nghèo, cha làm nghề đánh xe ngựa chở khách thuê đi Long Điền, Phước Hải, mẹ buôn bán bún bì chả tại chợ Đất Đỏ, từ nhỏ, chị phải phụ giúp cha mẹ để sinh kế. Sau khi quân Pháp tái chiếm vùng Đất Đỏ, cuối năm 1945, các anh trai của chị Sáu đã thoát li gia đình, hoạt động kháng chiến cho phong trào Việt Minh. Chị đã bỏ dở việc học, ở nhà giúp mẹ cha kiếm sống và bí mật tiếp tế cho các anh, vốn công tác trong Chi đội Giải phóng quân của tỉnh Bà Rịa. Năm 1946, chị theo anh trai là Võ Văn Me vào khu kháng chiến, và trở thành liên lạc viên của Đội Công an xung phong Đất uân Pháp; đặc biệt là trận tập kích bằng lựu đạn tại lễ kỉ niệm Quốc khánh Pháp ngày 14 tháng 7 năm 1949 tại Đất Đỏ, gây được tiếng vang lớn ở vùng Đất Đỏ. Năm 1947, chị chính thức trở thành đội viên Công an xung phong Đất Đỏ khi mới 14 tuổi. Từ đó, chị tham gia nhiều trận tập kích bằng lựu đạn, ám sát các sĩ quan người Pháp và Việt gian cộng tác với Thực dân Pháp tạo được tiếng vang và sự ủng hộ của quần chúng nhân dân trong vùng. Vào tháng 12 năm 1949, trong một chuyến công tác tại Đất Đỏ, chị Võ Thị Sáu đã bị quân Pháp bắt được. Một số tài liệu khác ghi cô bị bắt vào tháng 2 năm 1950, sau khi chị và đồng đội dùng lựu đạn tập kích giết chết Cả Suốt và Cả Đay, là hương chức người Việt cộng tác đắc lực với quân Pháp, ở ngay phiên chợ Tết Canh Dần tại chợ Đất Đỏ. Trong ngục giam những người bị án tử hình, Chị vẫn hồn nhiên, vui tươi, tin tưởng vào ngày chiến thắng của Tổ Quốc. Dù các luật sư biện hộ cho chị đã phản ánh với lý do chưa đủ 18 tuổi nhưng thực dân Pháp vẫn ngoan cố tuyên án tử hình. Trước khi bị đưa ra thi hành án, Chị bị đày qua các nhà tù Chí Hòa, Bà Rịa và Côn Đảo. Vì quân Pháp không dám công khai thi hành bản án đối với Chị, chúng đã lén lút đem cô đi thủ tiêu. Chuyện vẫn kể rằng, khi nhóm đao phủ bảo chị quỳ xuống, Chị đã quát lại bọn chúng với một câu đã đi vào huyền thoại, Tao chỉ biết đứng, không biết quỳ. Chị bị xử bắn năm 1952 tại Côn Đảo khi chưa đủ 18 tuổi. Cách đó chừng 100m là công viên tượng đài và đền thờ anh hùng Võ Thị Sáu. Tượng chị được đặt ở đó, một nơi thoáng mát, bốn mùa ngát hương với hoa sứ, hoa ngọc lan, hoa lekima. Một nơi đẹp , yên bình và tĩnh lặng. Tượng được đúc bằng đồng, cao 7m, tạo theo thế chị Sáu ung dung ra pháp trường, tà áo vẫn tung bay trong gió. Một con người hiên ngang, bất khuất, kiên cường, và không bao giờ đầu hàng trước gian khó, hiểm nguy. Đền thờ là nơi cho dân chúng đến phúng viếng, tưởng niệm anh hùng và là nơi trưng bày hiện vật, giới thiệu hình ảnh về cuộc đời hoạt động của anh hùng liệt sỹ Võ Thị Sáu cùng một số hình ảnh về quê hương Đất Đỏ. Nguồn: Cổng Thông Tin Điện Tử Tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu

TP Hồ Chí Minh 5245 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Hầm giấu vũ khí biệt động sài gòn

Hầm chứa vũ khí đánh Dinh Độc Lập là một trong những cơ sở của biệt động thành nhằm chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968. Đây là căn nhà phố nằm trong một dãy có cùng cấu trúc mặt tiền, cửa sắt kéo. Chủ hộ là thầu khoán Trần Văn Lai (còn gọi là Năm Lai) sử dụng nhà vừa để xe ô-tô, vừa chứa vật liệu xây dựng. Căn nhà nằm gần đầu hẻm Trần Quí Cáp (ngày nay là ngõ Võ Văn Tần). Căn hộ được mua vào đầu năm 1967 theo sự thống nhất với người chỉ huy đơn vị của anh Năm Lai: ông Nguyễn Văn Trí, chính trị viên đơn vị Bảo Đảm thuộc Quân Khu Sài Gòn - Gia Định. Anh Năm Lai là cán bộ của đơn vị này, mua nhà xong Năm Lai bắt tay sửa chữa. Khoác lớp áo bên ngoài là thầu khoán mang tên Năm U - SOM (anh Năm thường vào cơ quan U - SOM của Mỹ để đấu thầu). Trong khi sửa chữa nhà anh bí mật thực hiện 1 kế hoạch của đơn vị giao: xây dựng hầm bí mật. Vì thế dưới nền nhà, bên trong buồng có hai hầm cạnh nhau. Mỗi hầm có đường cống lớn, vừa người chui, thông ra phía sau nhà. Hầm chứa vũ khí có kích thước dài 2m, ngang 1,2m, cao 2,5m; vách và nền hầm tô xi măng dầy để chống thấm. Riêng miệng hầm đích thân anh Năm tự tay lắp đặt. Nắp có chốt vặn. Dùng khoen đính chốt nhấc bổng nắp lên là có khoảng trống vừa một người chui xuống. Giữa năm 1967, hầm hoàn thành, được thông báo đến đơn vị Bảo Đảm (mang bí số J9 T - 700). Chỉ huy đơn vị sau khi thanh sát ra lệnh tiếp tục triển khai kế hoạch. Để chở một số lượng lớn, nhiều chủng loại vũ khí (súng ngắn, súng, đạn AK, B40, bộc phá... về địa điểm hầm bí mật cất dấu. Ngày 29 Tết Mậu Thân, tại xã Lộc Thuận, huyện Trảng Bàng (tỉnh Tây Ninh) đội 5 biệt động thực tập chuẩn bị cho cuộc tiến công. Sáng mùng 1 Tết, theo dòng người vui Xuân, các chiến sĩ đội 5 biệt động lần lượt dùng nhiều phương tiện đến tập hợp tại căn nhà trên đường Hoàng Đạo (nay là Trần Văn Đang), phường 11, quận 3. Chủ hộ cũng là một chiến sĩ biệt động tên Lê Tấn Quốc (bí danh Bảy Rau Muống). Lúc này toàn đội 5 biệt động 15 chiến sĩ trong đó có một nữ bí danh Chín Nghĩa, do Trương Hoàng Thanh chỉ huy. Đến 22 giờ đêm, theo kế hoạch, toàn đội 5 biệt động chuyển đến nhà Năm Lai trên 2 xe ô-tô của Lê Tấn Quốc. Hai ô-tô đậu trên đường Trần Quí Cáp, các chiến sĩ đội 5 xuống xe, vào nhà Năm Lai theo hai cửa trước và sau. Sau đó, theo sự chỉ huy của Ba Thanh, vài đội viên xuống hầm mang vũ khí, súng AK, lựu đạn và bộc phá lên, kiểm tra rồi đưa lên xe ô-tô đậu trong nhà. Lúc 1 giờ 30 sáng mùng 2 Tết, ta di chuyển đến gần dinh Độc Lập ở phía đường Nguyễn Du, lính gác địch phát hiện bắt dừng lại. Đoàn xe cứ tiến, chúng la lên báo động. Các chiến sĩ đi trên xe đầu tiên nổ súng diệt mấy tên này và dùng bộc phá để phá cổng cho xe chứa chất nổ lao vào, tiếc rằng bộc phá không nổ do trục trặc kỹ thuật. Tuy vậy tổ đột phá đã lọt vào được bên trong. Địch bắn xối xả, hai chiến sĩ hy sinh, số còn lại phải tạm lui, hai người bị thương. Địch từ các phía bên trong ập tới bịt kín các cổng. Đến 4 giờ sáng, thêm đội trưởng Trương Hoàng Thanh hy sinh. Gần sáng, điểm lại còn 8 người, anh em rút vào nhà số 56 Thủ Khoa Huân và tổ chức cố thủ trên lầu 3. Đói, mệt giữa vòng vây giặc, 8 chiến sĩ ngoan cường chiến đấu suốt cả ngày 31 tháng 1 năm 1968 tức mùng 2 Tết. Anh em chiến đấu đến viên đạn cuối cùng, tháo súng, vứt bỏ, lại dùng gạch đá, gỗ chặn địch. Đồng chí Lê Tấn Quốc (Bảy Rau Muống) với khẩu AK làm nhiệm vụ chốt chặn ở cầu thang đã anh dũng hy sinh. (Liệt sĩ Lê Tấn Quốc được tuyên dương anh hùng lực lượng vũ trang). Sau trận tấn công vào Dinh Độc lập của biệt động Sài Gòn khiến kẻ thù run sợ, chúng tịch thu toàn bộ tài sản, truy lùng và treo giải thưởng 2 triệu đồng cho đầu của Trần Văn Lai. Toàn bộ gia đình ông phải rút ra khỏi Sài Gòn nhưng bản thân ông vẫn tiếp tục hoạt động và chỉ thị các cơ sở còn lại của Biệt động Thành tiếp tục củng cố và xây dựng lực lượng. Năm 1972 ông bị địch bắt và giam ở nhà tù chi khu Sơn Tịnh (Quảng Ngãi) song chúng không hề biết đã bắt được người chiến sĩ biệt động đã góp công lớn trận đã đánh thẳng vào đầu não kẻ thù năm 1968. Căn nhà số 287 hẻm 70 Nguyễn Đình Chiểu đã được Bộ Văn hoá - Thông tin công nhận là Di tích lịch sử - văn hoá cấp quốc gia và do chính người chủ cũ của nó trở thành người trông giữ và bảo quản. Nguồn: Ủy Ban Nhân Dân Quận 3, Tp Hồ Chí Minh

TP Hồ Chí Minh 3159 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Nhà cổ Trần Văn Hổ

Nhà cổ Trần Văn Hổ tọa lạc số 18 đường Bạch Đằng, phường Phú Cường, thị xã Thủ Dầu Một, Bình Dương. Ông Trần Văn Hổ (Tự Đẩu) – nguyên là Đốc Phủ Sứ thời thuộc Pháp. Công trình được thân sinh ông Đẩu là cụ Trần Văn Lân xây dựng năm Canh Dần (1890), được công nhận di tích lịch sử - kiến trúc nghệ thuật Quốc gia ngày 29/4/1993, tổng diện tích còn lại là 1.296m2. Mặt chính diện ngôi nhà quay về hướng Tây Nam, hướng sông Sài Gòn. Ngôi nhà nguyên là một khu nhà lớn gồm: nhà chính, nhà phụ, khu chuồng ngựa… Nhưng từ sau ngày giải phóng, do không có chủ bảo quản được nhà nước tiếp quản thu giữ. Hiện chỉ còn lại một ngôi nhà chính, đây là ngôi nhà lớn của gia đình được dùng chủ yếu là để thờ cúng ở gian giữa. Trước sân nhà được che phủ bởi cảnh thiên nhiên thu nhỏ của vườn hoa, cây cảnh, hòn non bộ được trang trí đầy đủ cảnh sinh hoạt “Ngư - Tiều - Canh - Mục”. Ngôi nhà có dáng dấp nhìn từ ngoài vào hơi thấp, với mái ngói rêu phong, tạo cảnh sắc thiên nhiên của sự cổ kính, thanh tịnh, tách hẳn với ồn ào náo nhiệt của cảnh phố chợ bên ngoài. Bước vào bên trong là cảnh phô trương, thể hiện sự sung túc vật liệu toàn là gỗ quý như Cẩm Lai, Giáng Hương, Gõ, Sến, mật… được sử dụng bày trí lớp lớp, từ mái nhà xuống cửa võng và cả bậc ngạch. Từ những song gỗ, đường nét ô vuông đến các mảng phù điêu tấc cả đều được bố trí đối xứng đến từng chi tiết, tạo nên bề thế trang nghiêm, thể hiện sự tôn ti, nề nếp và phong cách vương quyền. Lối kiến trúc của ngôi nhà theo dạng chữ “Đinh”, tổng diện tích xây dựng là 200m2 . Ngôi nhà xây dựng theo kiểu 3 gian, 02 chái gồm 36 cột tròn, 6 hàng cột tròn từ trước ra sau, mỗi hàng là 6 cột được kê toàn bộ trên đá tảng, nền lát gạch tàu. Ngoài ra, phía bên trái ngôi nhà có 3 cửa dạng một cánh được thông ra ngoài, trừ mặt tiền của ngôi nhà, còn lại 3 mặt bên được xây tường gạch. Mái ngói âm dương dài thoai thoải … Từ hệ thống mái vững chắc, có phần hơi thấp, bên trong nội tự được ngăn đôi bức tường giả hình chữ U tạo chiều sâu. Mảng giữa tường và khánh thờ là các bức Hoàng phi được sơn son thép vàng, các bức liễng bằng những câu đối cẩn xà cừ đính trên cột. Gian giữa phía trên là khám thờ với tấm Thủ quyển chạm nổi hình Tứ linh hoàng tráng, giữa bức thủ quyển ấy là ba hàng chữ đề danh hiệu các vị thần được thờ. Phía trái là thờ thần Táo với danh hiệu “Đông Trù Tư Mạng”, giữa là thờ trời với danh hiệu “Hiệp Thiên Đại Đế”, bên phải thờ phúc thần với danh hiệu “Phúc Đức Chánh Thần”, phía dưới thờ gia tiên nhiều đời. Với lối kiến trúc qui mô khép kín của ngôi nhà truyền thống Việt Nam vào thế kỷ 19, ngôi nhà đã để lại cho Bình Dương một công trình kiến trúc cổ, góp một phần giá trị lịch sử - nghệ thuật truyền thống dân tộc thật quý, minh chứng cho sự tồn tại và phát triển mạnh mẽ của vùng đất và con người Bình Dương, cả trong quá khứ cũng như hiện tại. Thật đáng được trân trọng và gìn giữ. Ở hai bên gian thờ giữa là hai buồng (phòng) chủ nhà; buồng ông và buồng bà.Trên hai cửa buồng có hai bức hoành đề: Ngự dược, Diên phi (cá nhảy, diều bay: Có ý mong thi dậu hoặc thăng quan lên chức). Nơi đây còn có các bao lam đều trang trí đẹp, công phu. Đối xứng hai bên hông buồng ngủ là hai tủ đứng cẩn xà cừ đẹp… Nguồn: Sở Văn Hóa, Thể Thao Và Du Lịch Tỉnh Bình Dương

TP Hồ Chí Minh 3270 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Khu di tích núi và chùa Châu Thới

Di tích danh thắng Núi Châu Thới là một danh lam thắng cảnh nổi tiếng của tỉnh Bình Dương được Bộ Văn hóa- Thông tin xếp hạng là di tích danh thắng cấp quốc gia ngày 21 tháng 4 năm 1989, với những giá trị nổi bật về lịch sử, văn hóa, cảnh quan thiên nhiên. Núi Châu Thới nằm ở vị trí gần quốc lộ 1K thuộc địa phận phường Bình An, thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương. Núi Châu Thới cao 85m, trên đỉnh có ngôi cổ tự uy nghi, quang cảnh cây cỏ quanh năm tươi tốt. Theo các nguồn tư liệu khảo cứu, chùa Châu Thới được xây dựng vào khoảng năm 1612 do Thiền sư Khánh Long sáng lập từ một am tranh nhỏ, lúc bấy giờ chùa được mang tên là Hội Sơn Tự. Tuy nhiên, căn cứ vào lạc khoản còn lưu giữ ở chùa có ghi dòng chữ “Tân Dậu niên chánh nguyệt sơ kiến nhật”, có thể xác định chùa Châu Thới được xây dựng vào năm 1681 và là ngôi chùa được xây dựng sớm nhất tỉnh Bình Dương và thuộc nhóm lâu đời nhất Nam Bộ. Hơn 300 năm lịch sử, chùa Châu Thới đã trải qua 13 đời trụ trì; qua quá trình biến động lịch sử, chùa đã được tu tạo nhiều lần: Năm 1930, trùng tu lại nhà thờ Tổ và Giảng đường; năm 1971, đắp xi–măng 220 bậc thang lên núi; năm 1993, Chánh điện được trùng tu. Sau đó, các hạng mục khác như bảo tháp, đại hồng chung, tượng phật, rồng chầu…cũng được xây dựng, hoàn thiện. Bên cạnh những giá trị lịch sử tôn giáo, chùa Châu Thới còn mang những giá trị lịch sử cách mạng của vùng đất Dĩ An. Trong kháng chiến chống Pháp, dựa vào thế núi và ngôi chùa Châu Thới là nơi trú ẩn, hội họp của các nhà hoạt động cách mạng. Với địa thế hiểm yếu lại có các vị sư yêu nước, do đó rất thuận lợi làm điểm hội họp, dừng chân, ẩn náu; chùa Châu Thới đã từng là nơi luyện tập võ nghệ của các hội viên “Thiên địa hội”, nơi dừng chân của quân Đào Tây Sơn và là nơi lánh nạn của các chiến sĩ cách mạng. Các nhân vật nổi tiếng lúc bấy giờ như Huỳnh Văn Nghệ, Huỳnh Tấn Phát cũng từng đến chùa và hoạt động tại đây. Trong suốt 2 cuộc kháng chiến, các chư tăng ở đây đã ủng hộ tiền, gạo, vải, thuốc cho bộ đội; lúc cần kíp chùa Châu Thới đã ủng hộ cả Đại Hồng Chung để công binh xưởng đúc đạn đánh giặc… Chùa Châu Thới được liệt vào một trong những Danh lam cổ tự của Việt Nam; chùa, núi, quang cảnh xung quanh tạo nên một danh thắng phong thủy hữu tình, cảnh trí thơ mộng, xanh mát…các yếu tố kiến trúc hòa quyện, tạo điểm nhấn cho khung cảnh thiên nhiên, làm toát lên những giá trị văn hóa kiến trúc, văn hóa cảnh quan nổi bật. Chùa Châu Thới hiện còn lưu giữ nhiều cổ vật có giá trị, trong đó có 3 pho tượng Phật được tạc cách đây hơn 300 năm; hệ thống tượng gỗ, tượng đất nung; đặc biệt chùa còn lưu giữ pho tượng Quan Thế Âm bằng gỗ mít trên 100 năm do chính Hòa thượng Thích Thiện Hóa chế tác. Tuy các hạng mục chính của chùa được xây bằng bê tông, cốt thép song được thể hiện bởi những bậc thợ tài hoa nên tổng thể chùa vẫn toát nên vẻ đẹp cổ kính, đậm màu sắc dân tộc. Quần thể chùa, điện trên núi Châu Thới gồm: Chánh điện, nhà Tổ, điện Thiên Thủ Thiên Nhãn, miếu Linh Sơn Thánh Mẫu, điện thờ Diêu Trì Kim Mẫu…một số hạng mục được trang trí bằng các mảnh gốm sứ rất đẹp mắt. Năm 1994, chùa đã vận động bà con đóng góp đúc 4 pho tượng đồng, mỗi tượng nặng trên 1 tấn, cao 2.5m do nhóm thợ kỳ cựu của xứ Huế, đây là những pho tượng đúc đồng đầu tiên tại tỉnh Bình Dương. Ngoài ra, chùa còn có tượng Quan Thế Âm cao 22,5m, cặp rồng lớn bao quanh, cách hàng chục km vẫn có thể nhìn thấy. Với những giá trị lịch sử, văn hóa, kiến trúc, cảnh quan chùa Châu Thới trên đỉnh núi Châu Thới đã được công nhận là Di tích lịch sử văn hóa và thắng cảnh cấp quốc gia năm 1989. Nguồn: Sở Văn Hóa, Thể Thao Và Du Lịch Tỉnh Bình Dương

TP Hồ Chí Minh 3988 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình Thần Dĩ An

Đình Dĩ An tọa lạc tại khu phố Nhị Đồng 1, phường Dĩ An, thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương. Đình được xây dựng vào năm 1838. Năm 1853, được vua Tự Đức ban sắc phong thờ Thành Hoàng Bổn Cảnh, là một ngôi đình cổ - nơi bảo lưu những giá trị lịch sử - văn hóa truyền thống của dân tộc. Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xuân lược, đình là nơi các chiến sĩ cách mạng địa phương rèn luyện, hun đúc ý chí, tổ chức lực lượng để tiêu diệt kẻ thù. Đình là nơi hoạt động của “bộ đội Đào Sơn Tây”. Đặc biệt, trong thời gian kháng chiến chống Mỹ xâm lược, đình còn là nơi dừng chân, trú quân của lực lượng vũ trang tỉnh Thủ Dầu Một. Trong khuôn viên đình, hiện vẫn còn một số hầm bí mật của lực lượng vũ trang. Đồng thời, đình cũng là nơi sinh hoạt văn hóa của nhân dân trong vùng. Nhìn tổng thể kiến trúc, đình Dĩ An được thiết kế dạng chữ “nhất”, gồm: võ ca, võ quy, chánh điện, nhà khách, nhà túc,... Võ ca là nơi làm lễ Xây chầu và hát bội vào mỗi dịp lễ Kỳ yên, được xây dựng bằng bê tông thép và lợp tôn. Sân khấu, được xây dựng cao 0,8m, có hai bức tranh thủy mặc ở hai bên. Võ quy là nơi các chức sắc chầu lễ, cầm chầu (mỗi khi hát bội), hội họp, cũng là nơi chuẩn bị cho buổi ca diễn và dành cho khách. Nơi đây có thiết trí những câu đối bằng chữ Hán. Chính điện là nơi thờ tự chính của đình, với cột, kèo, rui, mè... đều được làm bằng gỗ; mái lợp ngói vảy cá, trên nóc có gắn hình bầu dục và hai con rồng; tường xây gạch; nền lát gạch men màu vàng. Chính điện được chia thành 15 gian, gồm 3 gian thờ chính và 12 gian thờ phụ. Bên trong chính điện được sắp xếp theo bố cục: Gian đầu tiên là nơi đặt bàn thờ Hội đồng nội, có thiết trí bao lam gỗ được chạm trổ rất tinh xảo, sơn son thếp vàng. Tiếp đến là án thờ Giáng Son - nơi thờ sắc phong của thần. Song song với án thờ Giáng Son là án thờ Tả Ban và Hữu Ban. Bàn thờ chính thần được đặt ở vị trí trang trọng, hai bên đặt tượng hai con bạch mã, lỗ bộ, võng điều; ngoài ra, còn trang trí bao làm bằng gỗ sơn son thếp vàng cùng các câu đối bằng chữ Hán. Sau chính điện và phía tây nam của đình là hai dãy nhà khách với nhiều gian nhà được trang hoàng khá trang trọng. Nhà được xây dựng gồm 80 cột gỗ quý, mái lợp ngói móc, toàn bộ được sơn phủ màu đen tạo nên nét cổ kính. Đây là nơi dùng để sinh hoạt và đón tiếp khách trong những ngày lễ cúng đình. Hàng năm, đình có hai lễ cúng lớn là: Lễ Cầu bông (cúng Tiên sư, Tổ nghiệp) diễn ra vào ngày 16-6 âm lịch với mục đích cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu và lễ Kỳ yên được tổ chức vào ngày 15 và 16-11 âm lịch (3 năm đáo lệ một lần) nhằm cầu cho quốc thái dân an. Ngoài ra, đình Dĩ An còn là nơi dung hợp nhiều tín ngưỡng: Thờ Thành Hoàng, Nữ Thần (Ngũ hành nương nương, Diêu Trì Địa Mẫu, Kim Hoa nương nương..); đền thờ Vua Hùng, đền thờ các anh hùng liệt sĩ và các bà mẹ Việt Nam Anh Hùng…thể hiện truyền thống tốt đẹp bao đời của người Việt Nam “uống nước nhớ nguồn”. Đình Dĩ An được Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương xếp hạng là di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh ngày 18-3-2011. Ngày 28-3-2019, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng đình Dĩ An là di tích cấp quốc gia. Nguồn: Sở Văn Hóa, Thể Thao Và Du Lịch Tỉnh Bình Dương

TP Hồ Chí Minh 4237 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình Tân An

Đình Tân An - Bến Thế nằm ở khu phố 1, phường Tân An, TP Thủ Dầu Một. Đây là Di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh được xếp hạng ngày 2/6/2004. Đến ngày 26/4/2014 Đình Tân An được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là Di tích kiến trúc nghệ thuật cấp Quốc gia. Đình được xây dựng vào năm 1820 bởi lớp cư dân đầu tiên đến vùng đất này sinh cơ lập nghiệp. Ban đầu đình chỉ là mấy gian nhà lá đơn sơ nên đặt tên chữ là “Tương An miếu”, do nhân dân của 4 xã: Tương Bình (nay là Tương Bình Hiệp), Tương An (nay là Tân An), Tương Hòa (nay là Định Hòa) và Cầu Định (nay là Tân Định) lập để thờ thần Thành Hoàng Bổn Cảnh, vị trí đình được đặt tại làng Tương An. Khoảng 30 năm sau đó, tổ tiên dòng họ Nguyễn (làm chức Ban biện) đứng ra chủ trì xây dựng lại ngôi đình với quy mô lớn, có hình dáng như ngày nay. Mặt khác, dòng họ Nguyễn là một trong những lớp cư dân đầu tiên đến vùng đất Tân An khai hoang lập nghiệp và có công trùng tu ngôi đình làng nên được dân làng tôn làm “Tiền hiền - Hậu hiền” và được thờ trong ngôi chánh điện để tỏ lòng thành kính. Vào ngày 19-11 năm Tự Đức thứ 21 (1869), vua Tự Đức ban sắc phong cho đình Tân An nhằm công nhận ngôi đình và phong tước hiệu cho thần Thành Hoàng để nhân dân biết mà thờ tự. Sắc phong luôn được cất giữ tại Nhà thờ dòng họ Nguyễn (hiện là nhà ông Nguyễn Tri Quan). Theo sắc phong vua Tự Đức ban thì vị thần được thờ chính trong đình là Tiền quân cơ Nguyễn Văn Thành, một vị quan triều đình nhà Nguyễn, đại thần của vua Gia Long. Nguyễn Văn Thành là một bậc khai quốc công thần triều Nguyễn, nhưng đã vướng vào trọng án “văn chương” của con trai Nguyễn Văn Thuyên, bị Gia Long nghi ngờ phản nghịch bị bức tử và chỉ được giải oan hơn nửa thế kỷ sau đó (vào năm 1868). Về tổng quan kiến trúc, ngôi đình được làm toàn bằng gỗ Sao, có lối kiến trúc hình chữ Tam, còn gọi là lối sắp đọi, dân gian gọi là đình ba nóc, theo kiểu xuyên trính, hai mái, hai chái, gồm 40 cây cột vuông bằng gỗ, hành lang rộng gồm 30 cột gỗ (do thời gian mưa nắng đã làm cho một số cột ở hai bên hành lang bị hư hại nên được thay bằng cột xây bằng gạch, vôi). Mái đình được lợp toàn bộ bằng ngói vây cá qua nhiều năm mưa nắng mái ngói phủ rêu phong trông rất cổ kính. Trên đình được trang trí hình lưỡng long tranh châu, ở các góc mái trang trí hình cá hóa rồng. Nền lát gạch đỏ (gạch tàu) hình lục giác. Toàn bộ ngôi đình có chiều rộng 50m, dài 70m, được xây trên diện tích hơn 10.000m2. Đặc biệt, toàn nội thất trong đình như hiện vật bàn thờ, tủ thờ, tấm hoành, bao lam, cột gỗ, câu đối… đều bằng gỗ quý được các bàn tay nghệ nhân chạm khắc rất tinh xảo với nhiều chủ đề khác nhau làm tôn lên kiến trúc nghệ thuật độc đáo của đình. Ngoài ra, đình còn lưu trữ một công trình chữ Hán rất phong phú còn lại cho đến ngày nay qua các cặp liễn đối, hoành phi, sắc thần… Hàng năm theo đúng lệ xưa , lễ hội diễn ra trong 3 ngày 3 đêm từ 14 đến 16 tháng 11 (âm lịch) là dịp trăng sáng để bà con thuận tiện vui chơi và đi lại. Đây cũng là dịp thủy triều dâng cao và theo quan niệm của nhân dân đó là điềm của mùa màng bội thu, của vạn vật tốt tươi, tiền của dồi dào… Đình Tân An là một di tích lịch sử - văn hóa mang đậm nét kiến trúc nghệ thuật và danh lam thắng cảnh. Đặc biệt, đình còn lưu giữ Sắc phong của vua Tự Đức. Trong những năm kháng chiến chống giặc ngoại xâm, đình Tân An là nơi hoạt động cách mạng của địa phương. Nguồn: Báo Bình Dương điện tử

TP Hồ Chí Minh 3345 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Đình thần Phú Long

Đình Phú Long còn gọi là “Phú Long linh miếu” nằm ở khu phố Hòa Long, phường Lái Thiêu, thành phố Thuận An, được ban sắc phong vào năm Tự Đức thứ 5 và được công nhận là Di tích Lịch sử - Văn hóa cấp quốc gia năm 2001. Trải qua gần 200 năm, dù đã qua nhiều lần trùng tu nhưng kiến trúc và những hiện vật có giá trị còn lưu giữ tại đình. Đình do nhân dân địa phương lập để thờ thần Thành Hoàng Bổn Cảnh. Lúc đầu đình được xây dựng bằng tre, gỗ, trên nền đất thô sơ. Sau đó, đình được trùng tu nhiều lần vào các năm 1865, 1935, 1997... Hiện nay, đình có tổng diện tích sử dụng là 5.828m2, diện tích xây dựng là 1.258m2. Đình được xây dựng kiểu chữ tam, theo lối “trùng thiềm điệp ốc”, lợp ngói âm dương, nền lót gạch hoa. Cổng đình, tường vách dọc ngang được chạm trổ hoa văn, họa tiết, phần lớn được cẩn li ti bằng những mảnh men sành sứ cổ, đủ sắc màu, phong phú với nhiều hình tượng, điển tích đa dạng, mang sắc thái đặc thù của vùng sông nước thiên nhiên hài hòa. Về kiến trúc, toàn bộ mặt tiền, phần bê tông của đình được cẩn các mảnh gốm sứ đầy màu sắc, tạo nên vẻ đẹp độc đáo của nghệ thuật gốm sứ truyền thống trong kiến trúc đình, chùa tại Thủ Dầu Một. Toàn bộ tiền điện có gắn bao lam bằng gỗ được chạm trổ với các đề tài hoa trái như mai, lan, cúc, lựu, nho, chuối, tượng trưng cho sự sinh sôi, nảy nở. Ở khoảng giữa trung điện và chính điện có một bao lam ghép gốm sứ men màu xanh, trang trí các hình long, lân, cảnh hội Bát tiên, Long Hải tướng quân, cá hóa rồng... Trên mái trung điện, ở giữa có hình nhật nguyệt, đầu hồi là hình long, lân, quy, phụng. Phần mái hậu điện cũng có các hoa văn cá hóa long, lưỡng long tranh châu. Bên trong mái ở trung điện và hậu điện là hai bộ vì kèo chịu lực bằng gỗ, kết cấu theo kiểu kẻ chuyền, hai hàng cột gồm sáu cây loại gỗ gõ, có đường kính 40cm. Chính giữa chính điện là án thờ sắc thần Thành Hoàng Bổn Cảnh được vua Tự Đức ban, hai bên thờ Tả Ban và Hữu Ban. Ở đây còn thờ các vị có công với làng, với đình theo thứ tự từng án thờ có lập bài vị. Riêng án thờ được đặt cao nhất là hình một chiếc ghế dựa bằng gỗ hình vuông, chạm thủng hình mai, lan, cúc, trúc, với long vị đắp nổi trông rất uy nghi (gọi là ngự). Chính điện có nhiều hương án được xếp trật tự dành cho du khách thập phương đến thắp nhang, lễ bái thể hiện lòng thành kính. Bên hương án có đôi quy, hạc đứng chầu, tượng trưng cho sự bền vững. Gian đầu hồi, bên trái đặt bàn thờ Ngũ Hành Nương Nương, bên cạnh đặt một cái mõ dài 1.8m, bên phải đặt bàn thờ ông Hổ, bên cạnh có một cái trống để sử dụng vào các dịp cúng tế, lễ hội. Các bàn thờ Tiền Hiền, Hậu Hiền cũng được bài trí tôn nghiêm. Từ ngoài nhìn thẳng vào chính điện, có hàng lễ bộ, gồm nhiều loại binh khí với bốn cặp hạc đứng trên lưng rùa. Đình còn lưu giữ rất nhiều câu đối khắc trên thân các cây cột, hương án..., tất cả đều được chạm trổ tinh vi, sơn son thếp vàng rực rỡ. Các hoa văn trang trí trong lẫn ngoài đình là hình cá hóa long, rồng cách điệu, cảnh hội Bát tiên... Ngoài các giá trị về kiến trúc nghệ thuật, Đình Phú Long đã từng là nơi ẩn náu, cất giấu vũ khí của nhiều thế hệ cán bộ, chiến sĩ cách mạng tại địa phương trong suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ. Nguồn: Trung Tâm Xúc Tiến Du Lịch Tỉnh Bình Dương

TP Hồ Chí Minh 3167 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Chùa Hội Khánh

Chùa Hội Khánh tọa lạc tại số 35 đường Yersin, phường Phú Cường, TP Thủ Dầu Một, là một công trình kiến trúc tôn giáo, nghệ thuật lớn nhất tỉnh, được công nhận Di tích lịch sử – văn hóa cấp Quốc gia ngày 7/1/1993. Chùa xây dựng từ thế kỷ 18 (1741), dưới chân đồi, cách trung tâm TP Thủ Dầu Một 500m về hướng Đông, năm 1861 chùa đã bị giặc Pháp thiêu hủy. Đến năm 1868, chùa được xây dựng lại ở vị trí hiện nay với diện tích xây dựng 1.211m2. Năm 2007, chùa xây dựng thêm ngôi tháp 7 tầng cao 27m và tái tạo lại Phật tích “Tứ động tâm”, gồm có: Vườn Lâm Tì Ni (nơi Phật ra đời), Bồ Đề Đại Tràng (nơi Phật hành đạo), Vườn Lộc Uyển (nơi Phật thuyết đầu tiên), Ta La Song Thọ (đức Phật nhập niết bàn) có ý nghĩa sâu sắc về đạo pháp. Năm 2008, Phật đài quy mô lớn, cao 22m được xây dựng ở khu đất phía trước chùa. Tầng trệt là dãy nhà dài 64m, rộng 23m dùng làm Trường Phật học, Thư viện… Tầng trên tôn trí đại tượng đức Bổn sư Thích Ca nhập Niết bàn cao 12m, dài 52m. Đây là một công trình mỹ thuật đáng tự hào của Phật giáo Bình Dương, được khánh thành trọng thể vào ngày 30/3/2010 (15/2/2010 Âm lịch) mừng 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội. Về cấu trúc chùa gồm bốn phần chính: Tiền điện – chánh điện, giảng đường kiến trúc này có 92 cột gỗ quý, Đông lang và Tây lang chùa bố trí theo kiểu “sắp đôi” nối liền nhau với kiến trúc “trùng thềm, trùng lương” - đây là biến tấu đặc biệt trong kiến trúc theo truyền thống chùa cổ xứ Nam Kỳ; Chánh điện với kèo cột, vách gỗ và ba bộ cửa bức màn, còn có gần 100 tượng gỗ, các vị La Hán và thập điện Minh Vương dáng vẻ khác nhau được tạo bằng gỗ mít sơn son thếp vàng. Đặc biệt có hai bức phù điêu chạm hình 18 vị La Hán và các vị bồ tát, tạo nên một công trình điêu khắc tuyệt mỹ, có giá trị nghệ thuật cao mang đặc trưng của phong cách điêu khắc gỗ Bình Dương xưa. Về phần nghệ thuật trang trí nội thất, tranh tượng tự khí thờ phượng được điêu khắc, chạm trổ rất công phu, sắc sảo… đặc biệt phải kể đến bộ bao lam “Thập bát La Hán” (tạo tác năm 1921), bức phù điêu “tứ thời” ốp vào hai cột trước Chánh điện. Các bàn thờ chạm trổ tinh vi hoàn thành vào năm Ất Sửu (1925). Nhà chùa còn giữ được bộ mộc bản in kinh cách đây trên 120 năm. Đại hồng chung của chùa được đúc vào năm Quý Mùi (1883) do Bổn đạo Dương Văn Lúa hiến cúng. Trong những năm 1923 -1926, Chùa Hội Khánh còn là nơi ẩn náu quy tụ các nhân sĩ: Nhà nho, nhà sư yêu nước cùng lập ra “Hội danh dự” với sự tham gia của chính hòa thượng Từ Văn, Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc (Thân phụ của bác Hồ), cụ Tú Cúc… mục đích của Hội là cổ vũ cho lối sống đề cao đạo đức, coi trọng danh dự và lòng yêu quý đồng bào đất nước. Dù Hội chỉ hoạt động trong một thời gian ngắn nhưng đã gây dược ảnh hưởng đáng kể. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Chùa Hội Khánh là trụ sở Hội Phật giáo cứu quốc tỉnh Thủ Dầu Một, đã góp nhiều công sức, tâm huyết kể cả xương máu của các nhà tu, Phật tử nhà chùa. Trong cuộc kháng chiến chống ngoại xâm của nhân dân địa phương từ năm 1953, chùa là trụ sở Phật giáo yêu nước tỉnh Bình Dương và đến năm 1983 Chùa Hội Khánh là trụ sở của tỉnh Hội Phật giáo Bình Dương. Năm 1995, nơi đây, Tỉnh hội xây dựng Trường cơ bản Phật học tỉnh Sông Bé (Bình Dương). Hiện Thượng tọa Thích Huệ Thông trụ trì Chùa Hội Khánh (từ năm 1988) và là Phó ban Thường trực Tỉnh Hội Phật giáo Bình Dương. Nguồn: Cổng Thông tin điện tử tỉnh Bình Dương

TP Hồ Chí Minh 3213 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Sở chỉ huy tiền phương chiến dịch Hồ Chí Minh

Di tích Sở chỉ huy tiền phương chiến dịch Hồ Chí Minh nằm ở địa điểm thuộc ấp 1 xã Minh Tân (trước là xã Minh Thạnh) huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương (vị trí cũng đã được Đại tướng Văn Tiến Dũng xác định năm 1987). Di tích đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng di tích lịch sử cách mạng cấp quốc gia ngày 11/5/2010. Di tích Sở Chỉ huy Tiền phương Chiến dịch Hồ Chí Minh là di tích tiêu biểu, phản ánh sự lãnh đạo, chỉ huy đúng đắn, trực tiếp và sáng tạo của Trung ương Cục, Quân ủy Miền và Bộ Tư lệnh chiến dịch. Di tích mặc dầu là một cơ quan tạm thời, nhưng đã thể hiện được vai trò lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt trong chiến lược chiến tranh của thời đại mới, mà trực tiếp là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Sở dĩ gọi là di tích Sở chỉ huy tiền phương chiến dịch Hồ Chí Minh là vì Bộ chỉ huy chiến dịch Hồ Chí Minh được thành lập ở căn cứ quân giải phóng miền Nam Việt Nam tại ấp Tà Thiết Krom – Lộc Thành - Lộc Ninh, Sông Bé. Sau cuộc họp ngày 25/3/1975 của Bộ chính trị và Quân ủy Trung ương, theo sự phân công của Bộ chính trị, cùng ngày, đồng chí Lê Đức Thọ vào Lộc Ninh để cùng các đồng chí Phạm Hùng, Văn Tiến Dũng thay mặt Bộ chính trị trực tiếp chỉ đạo chiến dịch giải phóng Sài Gòn. Khi chiến dịch sắp mở màn, để trực tiếp chỉ huy chiến dịch ngay từ đầu sát với tình hình tác chiến cơ quan, Sở chỉ huy chiến dịch Hồ Chí Minh đã được Bộ Chính trị mà trực tiếp là đồng chí Lê Đức Thọ, đồng chí Văn Tiến Dũng quyết định chuyển tới căn cứ tiền phương sát với chiến trường hơn và chọn Căm Xe làm Sở chỉ huy Căm Xe, hay còn gọi là sở chỉ huy tiền phương chiến dịch Hồ Chì Minh. Với vị trí đã được xác định chuyển dời này, di tích Sở chỉ huy tiền phương chiến dịch Hồ Chí Minh là một trong những địa điểm quan trọng quyết định sự chỉ đạo đúng đắn và sáng suốt, trực tiếp, nhanh nhẹn nhằm tạo thuận lợi cho thắng lợi của quân và dân ta trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Sở chỉ huy tiền phương chiến dịch Hồ Chí Minh đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ lịch sử của Bộ chính trị giao cho giải phóng Sài Gòn - Gia Định, giải phóng Miền Nam trước mùa mưa, kết thúc thắng lợi 30 năm đấu tranh cách mạng và khởi nghĩa vũ trang của nhân dân ta một cách trọn vẹn với thời gian nhanh nhất. Di tích nằm trong khu vực rừng cây, có rất nhiều suối nhỏ và ngắn đổ vào con suối lớn Căm Xe như suối Các Liễu, suối Ong Lô, suối Biên Lộc, suối Bà Già, suối Bà Thành….(Căm Xe theo lịch sử địa phương là một vùng đất lâu đời, có một khu rừng nguyên sinh với nhiều loại cây gỗ quý, bên cạnh có dòng suối. Chính dòng suối này, với những đặc điểm lợi hại mang tính chất “thượng võ” của nó đã tạo nhiều thuận lợi để quân và dân ta đánh đuổi kẻ thù trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ). Đây là khu rừng tái sinh, rừng cây cũ đã bị chặt phá, rừng tái sinh cũng bị đốt nhiều lần. Vì di tích là một cơ quan tạm thời nên các lán trại, hầm hào tại đây chủ yếu được làm bằng vật liệu là gỗ có sẵn, sau thời gian dài mưa nắng phá hủy chỉ còn lại những vết tích khá mờ nhạt, chỉ có hố bom nơi đồng chí Văn Tiến Dũng lấy nước để sinh hoạt là còn khá nguyên vẹn. Theo người dân sinh sống nơi đây thì cứ đến tháng 3 thì đốt để trồng sắn. Hiện nay thì cảnh quan khu vực này đã thay đổi rất nhiều so với trước, rừng cao su bạt ngàn bao quanh khu vực di tích. Những dấu vết còn lại như: hố bom lấy nước sinh họat, dấu vết các hầm hào cũng đã mờ, cỏ cây mọc khá nhiều, phải rất khó khăn mới tìm được những dấu vết cũ do cỏ cây che khuất. Năm 1987 đại tướng Văn Tiến Dũng cùng một số đồng chí cán bộ miền về thăm và xác định vị trí trên cơ sở những dấu tích còn lại. Sau đó huyện đội Bình Long và nhân dân xã Minh Thạnh đã xây dựng bia làm mốc đánh dấu tại nơi đây. Bia được làm bằng chất liệu bê tông cốt thét, có độ cao 3m, rộng 2,5m, trên bia có gắn ngôi sao, dưới ngôi sao có ghi dòng chữ Sở chỉ huy chiến dịch Hồ Chí Minh, 30 tháng 4 năm 1975, xã Minh Thạnh. Đến ngày 20/8/1990, Bảo Tàng Quân Khu 7 xây dựng bia khác cách tấm bia cũ khoảng 3m, có chiều cao 15m, chiều ngang 1,5m, bia cũng được làm bằng chất liệu bê tông cốt thép. Đến năm 2005 được trùng tu lại bằng đá hoa cương cho đến nay. Nguồn: Cổng Thông tin điện tử tỉnh Bình Dương

TP Hồ Chí Minh 3298 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Điểm di tích nổi bật