Di tích lịch sử

TP Hồ Chí Minh

Chùa Ngọc Hoàng( Điện Ngọc Hoàng)

Chùa Ngọc Hoàng là tên thường gọi của Điện Ngọc Hoàng, tên chữ là Phước Hải Tự (người Pháp thì gọi là chùa Đa Kao); hiện tọa lạc tại số 73 đường Mai Thị Lựu, phường Đa Kao, quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh. Ngôi chùa vốn là điện thờ Ngọc Hoàng Thượng đế do một người tên Lưu Minh (pháp danh là Lưu Đạo Nguyên, người Quảng Đông, Trung Quốc) xây dựng vào khoảng đầu thế kỷ 20. Năm 1982, Hòa thượng Thích Vĩnh Khương đến tiếp quản điện thờ. Kể từ đó điện thờ này thuộc về Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Đến năm 1984, thì điện Ngọc Hoàng được đổi tên là "Phước Hải Tự". Chùa Ngọc Hoàng là một ngôi chùa cổ, làm theo kiểu đền chùa Trung Hoa với mô típ trang trí rực rỡ. Chùa xây gạch, mái lợp ngói âm dương, trang trí bờ nóc, góc mái bằng nhiều tượng gốm màu. Trong chùa có nhiều tác phẩm nghệ thuật: tranh thờ, tượng thờ, bao lam, liễn đối, hương án... bằng các chất liệu: gỗ, gốm, giấy bồi. Khuôn viên chùa rộng khoảng 2.300 m2. Phía trước có ngôi miếu nhỏ đặt tượng Hộ pháp. Cổng tam quan nổi bật với những đường nét uốn lượn hình sóng nước của hai con rồng theo tư thế "tranh châu". Chính điện thờ Ngọc Hoàng Thượng đế, Huyền Thiên Bắc Đế với các thiên binh, thiên tướng. Có phối thờ Quan Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát và một số thần linh quen thuộc trong tín ngưỡng của người Hoa như: thần Thiên Lôi, thần Môn Quan (thần giữ cửa), thần Thổ Địa (thần đất đai), thần Táo Quân (thần lò bếp), thần Hà Bá (thần sông nước), Văn Xương và thần Lã Động Tân (thần văn chương), Thái Tuế (sao giải hạn), Lỗ Ban (thầy dạy nghề), Nữ Oa Thánh Mẫu, 12 bà mụ, 13 đức thầy...Ngoài ra, chùa còn thờ thần Thành hoàng...Nhìn chung, các pho tượng thờ trong điện thờ đều là những tác phẩm điêu khắc gỗ đẹp. Hàng ngày khách trong và ngoài nước đến chiêm bái chùa rất đông. Lễ hội lớn nhất là Vía Ngọc Hoàng diễn ra ngày 9 tháng Giêng (âm lịch) hàng năm, tương truyền là ngày sinh của Ngọc Hoàng Thượng đế. Ngày 15 tháng 10 năm 1994, chùa Ngọc Hoàng được công nhận là một di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử quận 1, thành phố Hồ Chí Minh.

TP Hồ Chí Minh 1816 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Chùa sắc tứ Trường Thọ

Chùa Sắc từ Trường Thọ là ngôi chùa cổ thuộc dòng Lâm Tế, được kiến tạo vào năm 1720 với tên gọi Chùa Vĩnh Trường tọa lạc thôn Hòa Mỹ thuộc Tổng Bình Trị - Huyện Bình Dương – Phủ Tân Bình – Thành Gia Định. Trải qua bao năm tháng thăng trầm của lịch sử vẫn trường tồn cùng đất nước, ngôi cổ tự Vĩnh Trường khẳng định vị trí của mình trên đất Gia Định với 2 lần Sắc phong: Năm Canh Tuất (1802), Vua Gia Long Sắc phong “Sắc tứ Pháp Vũ tự”; Năm Canh Ngọ (1870), Vua Tự Đức Sắc phong “Sắc tứ Trường Thọ”. Năm 2000, Chùa được Bộ văn hóa thông tin (nay là Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch ban hành Quyết định công nhận Di tích kiến trúc nghệ thuật cấp Quốc gia. Chùa đã trải qua 7 đời Chư vị Tổ sư tiền bối. Hiện nay, Đại đức Thích Huệ Quang đương nhiệm trụ trì (chính thức được bổ nhiệm từ năm 2013), luôn tích cực cùng chư tăng và bổn tự tham gia các hoạt động Phật sự của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, tiếp tăng độ chúng và thường xuyên vận động tổ chức các hoạt động thiện nguyện, sống tốt đời đẹp đạo, cùng góp sức xây dựng địa phương an lạc, phồn vinh. Nguồn Cổng thông tin điện tử quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh.

TP Hồ Chí Minh 1763 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Đình Thông Tây Hội

Đình thần Thông Tây Hội (phường 11, quận Gò Vấp, Tp. Hồ Chí Minh) từ lâu đã nổi tiếng là ngôi đình lâu đời nhất không chỉ ở Sài thành mà cả vùng đất phương Nam. Đình Thông Tây Hội được xây dựng khoảng năm 1698, đến nay có tuổi đời hơn 300 năm. Đình thờ Thành Hoàng theo tục thờ thần của người Việt Nam. Vị thần chính được thờ trong đình là Đông Chinh Vương và Dực Thánh Vương là Hoàng tử con vua Lý Thái Tổ. Đình Thông Tây Hội, trước năm 1944 có tên đình làng Hạnh Thông Tây là một ngôi đình cổ ở quận Gò Vấp. Đình được xây dựng vào khoảng năm 1679, ngày nay được biết tới như là ngôi đình cổ nhất của vùng đất Gia Định xưa và của cả miền đất phương Nam còn tồn tại. Đình Thông Tây Hội là ngôi đình có cấu trúc thuộc dạng đình cổ ở miền Nam thế kỷ 19. Đình hiện vẫn gìn giữ được gần như nguyên vẹn cấu trúc và vật liệu xây dựng của ngôi đình cổ. Toàn bộ khu đình tọa lạc trên một khu đất rộng 5.188m2. Do bị dân lấn chiếm một phần đất để ở nên hiện nay chỉ còn khoảng 1.500m2. Đình quay về hướng Đông. Cổng đình xây theo kiểu tam quan. Sân Đình rộng, có một số cây cao khoảng 10m. Mặt bằng kiến trúc của đình tạo thành hai trục song song với nhau: một trục dài (trục chính) gồm võ ca, chánh điện; một trục ngắn (trục phụ) là nhà hội sở. Kiểu mặt bằng kiến trúc này rất phổ biến đối với công trình kiến trúc tôn giáo ở miền Nam thế kỷ thứ 18 - 19. Võ ca có kích thước: ngang 14m, sâu 17,5m, cao 4m là nơi xây chầu, hát bội gồm 7 nếp nhà và 52 cột gỗ, không có tường bao xung quanh. Chánh điện gồm: 2 nếp nhà ghép trùng nhau theo kiểu "trùng thiềm điệp ốc". Mái của hai nếp nhà cạnh sát nhau. Tất cả có 48 cột, chia thành 8 dãy cột, mỗi dãy có 6 cột. Bốn cột giữa cao nhất là 4,5m; có đường kính là 30 cm (thường được gọi là "tứ tượng") là nơi quan trọng nhất, linh thiêng nhất - nơi đặt bàn thờ các vị thần. Các chân cột ở chánh điện được có khắc hình lăng trụ thắt ở giữa. Trên nóc chánh điện có tượng lưỡng long tranh châu bằng gốm men xanh, quanh chánh điện có tường gạch. Nhà hội sở là văn phòng ban trị sự, nơi tiếp khách và chuẩn bị tế lễ, có kích thước ngang 12m, dài 19m, cao 4,2m; có 56 cột, chân cột kê đá xanh, có 3 nếp nhà "trùng thiềm điệp ốc"; có vách ván ngăn phòng làm việc với nhà kho. Toàn bộ ngôi đình lợp ngói âm dương, bộ vì kèo chịu lực bằng gỗ, nền lót gạch tàu (30 cm x 30 cm). Trang trí của đình Thông Tây Hội, phần đặc sắc nhất tập trung tại chánh điện. Ở đây các đầu kèo, trính đều được chạm khắc đầu rồng và cành mai. Có 3 bao lam: bao lam ở giữa chạm theo đề tài lân - ly - quy - phụng, hai bao lam hai bên chạm theo đề tài mẫu đơn - trĩ. Tác phẩm chạm khắc đặc sắc nhất là trang thờ thần, được chạm khắc tinh xảo theo đề tài lưỡng long triều nguyệt và lân - ly - quy - phụng. Ngoài ra còn có hai trang thờ tả ban, bức hoành "chung linh lưu tú", hai cặp câu đối bằng thân cây dừa ở chánh điện đều là những tác phẩm nghệ thuật có giá trị. Trong di tích đình Thông Tây Hội còn giữ 37 hiện vật quý. Các hiện vật là tác phẩm chạm khắc nghệ thuật như bao lam, hoành phi, câu đối, trang thờ đều giữ được đường nét, màu sắc sơn son thếp vàng của hiện vật cổ, không bị phết lên những lớp son mới như một số ngôi đình khác thường làm. Với giá trị kiến trúc nghệ thuật, lịch sử, xã hội, đình được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật văn hóa lịch sử cấp quốc gia năm 1998. Nguồn Cổng thông tin điện tử quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh.

TP Hồ Chí Minh 1952 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Lăng Tả quân Lê Văn Duyệt (Lăng Ông Bà Chiểu)

Tả quân Lê Văn Duyệt sinh ngày 6 tháng 9 năm Giáp Thân (1764), tại thôn Long Hưng, Tổng Kiến Hưng, Định Tường. Tả quân Lê Văn Duyệt quê gốc tại làng Bồ Đề, huyện Chương Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đến đời ông nội là Lê Văn Hiếu vào Nam sinh sống tại làng Hòa Khánh, tỉnh Định Tường. Năm 1765, cha là Lê Văn Toại đưa gia đình đến sống tại Rạch Gầm, tổng Long Hưng, Mỹ Tho (nay là xã Long Hưng, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang). Thuở nhỏ Ông sống cùng cha mẹ, phụ giúp việc nông gia, lúc rảnh rỗi thì tập luyện võ với bạn bè. Ông có tư chất thông minh, lanh lẹ, có sức khỏe hơn người, thích võ nghệ hơn văn chương; rất thích chơi chọi gà và xem hát bội. Năm 15 tuổi, Lê Văn Duyệt đã sớm bộc lộ ý chí “Sinh ở đời loạn, không hay dụng cờ trống Đại Tướng, chép công danh vào sách sử không phải là trượng phu”. Trong cuộc đời làm quan Ông rất mực thanh liêm, cương trực, thưởng, phạt nghiêm minh, lấy đức an dân, lấy dân làm gốc, có ý thức kết hợp kinh tế với quốc phòng, mở rộng giao thông thương mại làm cho nền kinh tế cả miền thịnh vượng, đoàn kết các dân tộc và tôn giáo, tận tình giúp đỡ lương dân khi gặp hoạn nạn nên nhân dân và các nước lân bang rất kính nể. Có công lao lớn trong việc khai phá, mở rộng và phát triển vùng đất Nam bộ. Năm Canh Tý (1780), theo phò Chúa Nguyễn Ánh được tuyển vào làm Thái giám Nội đình, sau đó được phong làm Thuộc Nội Vệ Úy, Ông 2 lần hộ giá Chúa Nguyễn chạy nạn ra Phú Quốc và sang Xiêm. Năm Canh Thân và Tân Dậu (1800 – 1801): Ông lập được nhiều chiến công, đặc biệt là thu phục thành Qui Nhơn (Bình Định) và thắng lớn ở cửa Bể Đầm Thị Nại. Năm 1802, Ông được phong tước Quận Công (hàng chánh nhất phẩm), chức Khâm Sai Chưởng Tả Dinh Bình Tây Đại Tướng Quân. Ông hai lần làm Tổng trấn thành Gia Định (các giai đoạn 1812 - 1816 và 1820 - 1832), Tả quân Lê Văn Duyệt đã có công lớn giúp an định và phát triển vùng đất phương Nam, đặc biệt để lại dấu ấn đậm nét trong lòng người dân Nam bộ, được truyền đời đến nay, là những cải cách khai mở, phát triển kinh tế, chăm lo đời sống người dân và bài trừ tham nhũng. Sau khi ông mất, người dân trong vùng đã lập lăng miếu thờ, nay gọi là Lăng Lê Văn Duyệt hay còn gọi là Lăng Ông Bà Chiểu. Hằng năm ngày 30/7 đến ngày 1/8 âm lịch là Lễ giỗ Đức thượng công Tả quân Lê Văn Duyệt nhằm ghi nhớ công lao vị quan thanh liêm đã chăm lo tốt đời sống nhân dân. Lăng Ông rộng 18.501 m² trên một gò đất cao, nằm giữa bốn con đường: Lê Văn Duyệt, Phan Đăng Lưu, Trịnh Hoài Đức và Vũ Tùng. Chung quanh khu lăng có bức tường bao bọc dài 500m, cao 1,2 m được trổ bốn cổng ra vào theo bốn hướng, được xây dựng vào năm 1948. Năm sau, cổng Tam quan cũng được xây. Cổng có hàng đại tự nổi bằng chữ Hán Thượng Công Miếu, được đặt ở hướng Nam, mở ra đường Vũ Tùng. Trước năm 1975, cổng này đã từng được chọn là biểu tượng của vùng Sài Gòn-Gia Định xưa. Khu lăng được xây dựng trên một trục đường chính. Từ cổng Tam quan ở phía nam vào qua một khu vườn cảnh là: Nhà bia nơi đặt bia đá ghi công đức Tả quân Mộ Tả quân và vợ, có bình phong và tường hoa bao quanh Miếu thờ Với những giá trị đó , ngày 6 tháng 12 năm 1989, toàn bộ khu lăng được Bộ Văn hóa công nhận là di tích Lịch sử Văn hóa cấp quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh.

TP Hồ Chí Minh 2135 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Địa đạo Phú Thọ Hòa

Địa đạo Phú Thọ Hòa là địa đạo đầu tiên ở phía Tây Sài Gòn (xây dựng vào năm 1947, trước Địa đạo Củ Chi), được đào trong những năm kháng chiến chống Pháp và được duy trì cho đến hơn mười năm đánh Mỹ, nằm lọt giữa nhiều đồn bốt dày đặc của kẻ thù, nhưng là vùng đất quân sự có nhiều chiến lũy phòng thủ chống quân xâm lược (Lũy Ông Dầm, Lũy Bán Bích, Lũy Chí Hòa,…), nơi có nhiều phong trào yêu nước (“Thiên địa hội”, “Hội kín Nguyễn An Ninh”,….) đã góp phần vào những chiến công vang dội trong suốt chặng đường kháng chiến chống giặc ngoại xâm của quân và dân ta như là chặn đánh địch suốt 6 ngày đêm tại cầu Tham Lương (tháng 10/1945), trận chống càn ở Gò Đậu - Bình Long (năm 1948), trận đánh kho bom Bảy Hiền (ngày 29/3/1948), nhiều lần đánh vào sân bay Tân Sơn Nhất (tháng 12/1949), tấn công vào kho bom Phú Thọ (năm 1952 và 1954), làm tiêu hao nhiều lực lượng của địch ở trận tiêu diệt đồn Phú Thọ Hoà, đồn Phạm Văn Tụng (đêm 31/5 rạng sáng ngày 01/6/1954),... hỗ trợ cho chiến trường Điện Biên Phủ, gây được tiếng vang trong nước và trên thế giới. Ngày nay, Địa đạo Phú Thọ Hòa là Khu di tích lịch sử để Nhân dân và bạn bè quốc tế đến tham quan, tìm hiểu, khám phá, học, nghiên cứu lịch sử kháng chiến chống giặc và là một trong những điểm đến du lịch nổi bật của quận Tân Phú. Địa chỉ số 139 đường Phú Thọ Hòa, phường Phú Thọ Hòa, quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh. Địa đạo Phú Thọ Hòa đầu tiên chỉ là những chiếc hầm ếch (chỉ vừa một người chui, loại hầm ngõ cụt khó thoát), sau dần cải tiến thành đường hầm xe lửa 2 ngăn và tiếp tục phát triển thành hệ thống địa đạo liên xã kéo dài trên 10 cây số. Địa đạo có 2 tầng được đào sâu dưới lòng đất những 3 đến 4 mét; có 3 hầm đào rộng ra, để có thể ngồi đến 7 người hoặc chứa lương thực, vũ khí; lòng địa đạo cao 1 mét, rộng 0,6 đến 0,8 mét, dài gần 700 mét, hai bên có nhiều ngách đi sang nhiều hướng khác nhau. Gọi hầm xe lửa vì cứ khoảng 20 mét thì có 1 vách ngăn, ở giữa có khoét 1 lỗ đường kính 0,5 mét, vừa một người chui qua (hình thức này tương tự như từng toa xe lửa) và cứ thế nối tiếp nhau đi từ ấp này sang ấp khác, cách bố trí vách ngăn này để phòng ngừa khi địch phát hiện hầm địa đạo thì ta chui qua hầm kế tiếp rồi bít cửa lại, ngụy trang cẩn thận để địch tưởng đây là đường cùng, hết lối. Cách thức đào hầm từ 2 điểm ở đầu, hai tổ đào thẳng về điểm trung tâm. Điều đặc biệt thú vị là từ 2 đầu làm sao mà định hướng cho đúng để đào cho đúng đến điểm trung tâm mà cái thời không hề có công nghệ định hướng hỗ trợ. Đây là câu trả lời về cách vô cùng sáng tạo của cha ông ta để định hướng chính xác như sau: người ngồi sau cầm đèn để ở một khoảng cách nhất định mà rọi bóng người ngồi trước lên vách. Người ngồi trước cầm cuốc, cuốc vào cái bóng của mình, bao giờ bóng ngay thẳng tròn trịa là lòng hầm đúng ni tấc và phương hướng. Ngoài ra, cũng còn phối hợp kiểm tra trên bề mặt đất, người ở trên áp tai vào mặt đất, người ở dưới vỗ mạnh vào trần hầm sao cho trên dưới đều nghe rõ ám hiệu là được. Địa đạo Phú Thọ Hòa nằm trọn vẹn trong đất của dân, đã được phục chế, tôn tạo, đã được Bộ Văn hóa - Thông tin cấp bằng công nhận là “Di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia” tại Quyết định số 1460-Quyết Định /Văn Hóa ngày 28/6/1996 và được xây dựng, chỉnh trang, nâng cấp khang trang, sạch đẹp như lời Đồng chí Nguyễn Văn Linh, Cố Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (khi còn là Bí thư Thành ủy Hồ Chí Minh) đã chỉ đạo khôi phục lại khu di tích này, để giáo dục cho thế hệ trẻ: “Làm lại tất cả các di tích này cốt không chỉ để ca ngợi những cái đã qua, mà chính là để truyền lại tinh thần đoàn kết yêu nước, tinh thần chiến đấu anh dũng cho thế hệ thanh niên ở thành phố chúng ta, đất nước chúng ta. Nguồn Trang thông tin điện tử quận Tân Phú , thành phố Hồ Chí Minh.

TP Hồ Chí Minh 2010 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Chùa Giác Lâm

Tọa lạc ở địa chỉ số 565 đường Lạc Long Quân, phường 10, quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh. “Chùa ở trên gò Cẩm Sơn, cách phía Tây lũy Bán bích ba dặm...Cây cao như rừng, hoa nở tựa gấm, sáng chiều mây khói nổi bay quanh quất, địa thế tua nhỏ mà nhã thú...” (Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí). Chùa Giác Lâm được xem là tổ đình của phái Lâm Tế, thiền sư Viên Quang (đời thứ 36) là vị trụ trì đầu tiên. Chùa được xây dựng từ năm 1744, từ đó đến nay dù đã trải qua 4 lần trùng tu lớn vào các năm 1798 – 1804, 1900 – 1909, 1939 – 1945, 1992 – 1994, tuy nhiên đến nay hệ thống cổ vật vẫn được bảo tồn gần như nguyên vẹn. Bửu Pháp Xá Lợi cao bảy tầng thờ viên ngọc Xá Lợi Phật được đại đức Narada từ Sri-Lanka tặng cho Giáo hội Phật giáo cổ truyền là địa điểm thu hút nhiều du khách. Vườn chùa có 38 tháp thờ các vị tăng sĩ và khu tháp các vị tổ của chùa. Rảo bước vào bên trong, ngôi chánh điện nép mình khiêm tốn dưới hàng cây cổ thụ xanh mát. Mang phong cách kiến trúc chữ tam truyền thống của chùa cổ Nam Bộ, chùa Giác Lâm gồm ba dãy nhà ngang nối liền nhau gồm chính điện, giảng đường và nhà trai, mái chùa dạng bánh ít đặc trưng, trên đỉnh mái là hình ảnh “lưỡng long tranh châu” quen thuộc trong văn hóa Việt Nam. Mái ngói, màu tường nâu vàng trầm ấm cùng các họa tiết sành sứ được trang trí cực kì tỉ mỉ và điêu luyện. Với hơn 7.000 đĩa trang trí, chùa Giác Lâm hiện sở hữu kỷ lục ngôi chùa có số lượng đĩa kiểu trang trí nhiều nhất Việt Nam. Chính điện bài trí 113 pho tượng cổ bằng gỗ mít, 5 pho tượng bằng đồng, 86 câu đối chữ Hán được chạm khắc vô cùng sống động, tinh xảo, thể hiện sự tài hoa đáng ngưỡng mộ của các nghệ nhân xưa. 2 bộ tượng La Hán bằng gỗ thếp vàng, bộ nhỏ có niên đại thế kỷ 18,19 với trang phục nhà Phật giản dị, ánh mắt vô ưu, cử chỉ thân thiện và khuôn miệng như chuẩn bị nở nụ cười, tạo cho du khách cảm giác gần gũi như đang đứng trước những con người Nam Bộ thân quen bình dị mà ta có thể bắt gặp đâu đó trong cuộc sống đời thường. Hệ thống bao lam, hoành phi, phù điêu, câu đối, liễn...được thếp vàng, chạm khắc tinh xảo, trang trí thêm các đường viền hoa lá, kỉ hà với các biểu tượng phong phú tiêu biểu cho văn hóa Nam Bộ và chủ đề quen thuộc trong Phật giáo như “lưỡng long triều nguyệt”, “lưỡng long tranh châu”, các đề tài thực vật, động vật thân thuộc: tùng hạc, trúc tước, mai điểu, cúc điệp, sóc nho, mai, lan cúc, trúc, trái bí, trái bầu, trái mãng cầu… Một số môtip có cẩn ốc xà cừ, ô hộc thể hiện phong cách nghệ thuật triều Nguyễn. Trải qua thời gian của chiều dài lịch sử, với những giá trị văn hóa đặc sắc, Chùa Giác Lâm được Bộ Văn hóa (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) xếp hạng là Di tích Kiến trúc Nghệ thuật Quốc gia theo Quyết định số 1288-Văn Hóa /Quyết Định ngày 16 tháng 11 năm 1988. Nguồn Cổng thông tin điện tử quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh.

TP Hồ Chí Minh 1877 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Khu lưu niệm mộ Cụ Phan Châu Trinh

Phan Châu Trinh là nhà cách mạng xã hội có tư tưởng dân chủ sớm nhất trong số các nhà nho yêu nước tiến bộ đầu thế kỷ XX. Cuộc đời và sự nghiệp hoạt động cách mạng của Ông đã để lại nhiều bài học lớn cho thế hệ hôm nay. Phan Châu Trinh, hiệu là Phan Tây Hồ, sinh ngày 09/9/1872 tại huyện Tiên Phước, phủ Tam Kỳ nay thuộc huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam, trong một gia đình quan võ triều Nguyễn. Thân sinh ông từng tham gia phong trào Cần Vương trong tỉnh. Năm 1892, ông đi học và nổi tiếng học giỏi. Bạn cùng học với ông là Huỳnh Thúc Kháng. Năm 1900, ông đỗ Cử nhân. Năm 1901, ông đỗ Phó bảng, đồng khoa với tiến sĩ Ngô Đức Kế và Nguyễn Sinh Sắc. Năm 1902, ông vào học Trường Hậu bổ, sau ra làm Thừa biện Bộ Lễ. Ít lâu sau ông từ quan, tham gia hoạt động cứu nước. Ông kết giao với nhiều sĩ phu yêu nước như Huỳnh Thúc Kháng và Phan Bội Châu. Ông cùng các bạn đi khắp Việt Nam cổ vũ đấu tranh và liên kết trí thức, văn sĩ yêu nước. Năm 1905 và 1911, Phan Châu Trinh sang Nhật Bản rồi sang Pháp để học hỏi, tìm con đường thoát khỏi ách cai trị của người Pháp. Nhà yêu nước Phan Châu Trinh hoạt động tích cực, sôi nổi trong phong trào Duy Tân giai đoạn đầu thế kỷ XX, ông chọn con đường dấn thân đấu tranh nhưng ôn hòa, bất bạo động, coi dân chủ cấp bách hơn độc lập và coi việc dùng pháp luật, cai trị quy củ có thể quét sách hủ bại phong kiến. Các năm 1906, 1919 và 1920, Phan Châu Trinh ba lần gửi một bức thư yêu cầu nhà cầm quyền Pháp phải thay đổi chính sách cai trị ở Việt Nam và Đông Dương. Năm 1908, ông bị thực dân Pháp bắt và đày đi Côn Đảo. Giữa năm 1910 ông được thả và về an trí ở Mỹ Tho. Tháng 4 năm 1911, ông xuống tàu sang Pháp, tiếp tục đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ, gióng lên tiếng nói tố cáo chế độ thuộc địa, đánh động dư luận Pháp. Tại đây, ông lại bị Pháp bắt giam lần thứ 2 trong 10 tháng, từ tháng 9 năm 1914 đến tháng 7 năm 1915. Ngày 16/7/1915, Phan Châu Trinh được tuyên bố trắng án và trả tự do. Sau đó, ông chuyển sang tiếp tục hoạt động bí mật trong các nhóm Việt kiều yêu nước, thích nghi với hoàn cảnh mới tại Pháp. Sau 14 năm, ngày 26/6/1925 Phan Châu Trinh về đến Tổ quốc, với mục tiêu và khẩu hiệu “Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh”. “Khai dân trí” là: bỏ lối học tầm chương trích cú, mở trường dạy chữ Quốc ngữ, kiến thức khoa học thực dụng, bài trừ hủ tục xa hoa.“Chấn dân khí” là: thức tỉnh tinh thần tự lực tự cường, mọi người giác ngộ được quyền lợi của mình, giải thoát được nọc độc chuyên chế. “Hậu dân sinh” là: phát triển kinh tế, cho dân khai hoang làm vườn, lập hội buôn, sản xuất hàng nội hóa... Ông công bố chủ trương đường lối "Trước tiên cần phát triển giáo dục, nâng cao trình độ nhân dân về ý thức dân chủ tự cường và phát triển xã hội, kinh tế" với mục tiêu cuối cùng là giành lại độc lập dân tộc. Phan Châu Trinh yêu cầu chính quyền thuộc địa sửa đổi chính sách cai trị hiện hành để có thể giúp nhân dân Việt Nam từng bước tiến đến văn minh. Ông đề cao phương châm "Tự lực khai hóa", vận động những người cùng chí hướng thức tỉnh dân chúng, tuyên truyền tư tưởng dân quyền. Ngày 24/3/1926 ông qua đời, trên miệng còn kịp mỉm cười chào người bạn tâm giao Huỳnh Thúc Kháng và lời trăn trối "Độc lập dân tộc sở cậy Nguyễn Ái Quốc". Di tích khu lưu niệm mộ Cụ Phan Châu Trinh mang giá trị văn hóa lịch sử của giai đoạn đầu thời kỳ kháng chiến chống Pháp trước khi có Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo, góp phần tô thắm thêm trang sử vàng truyền thống cách mạng của dân tộc Việt Nam. Là chứng cứ lịch sử giáo dục lòng yêu nước, niềm tự hào về tấm gương cách mạng sáng ngời của bậc tiền nhân cho các thế hệ chúng ta noi theo. Bia mộ của Người là công trình công phu, ghi lại thân thế và sự nghiệp của Người do Huỳnh Thúc Kháng soạn thảo. Ngoài ra, khu lưu niệm còn trưng bày lưu giữ những hiện vật, bút tích trong quá trình hoạt động cách mạng của Nhà yêu nước Phan Châu Trinh. Với những giá trị quý báu trên, ngày 12/12/1994 nơi an nghỉ của Người đã vinh dự được Nhà nước công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia. Vào ngày 24/3 hằng năm, Quận ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và nhân dân quận Tân Bình tụ họp về đây trang trọng tổ chức Lễ tưởng niệm nhà chí sỹ yêu nước, một đời nặng nợ với mục tiêu “Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh”. Lễ dâng hương tưởng niệm ngày mất nhà chí sỹ yêu nước Phan Châu Trinh trở thành hoạt động thường niên của Quận. Nguồn Cổng thông tin điện tử quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh.

TP Hồ Chí Minh 2042 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Lăng Võ Di Nguy

Khu vực gò đất cao từ Bà Chiểu tới Phú Nhuận là nơi có nhiều lăng mộ của các công thần thời Trung Hưng nhà Nguyễn, từ Tổng trấn Gia Định Lê Văn Duyệt, Phan Tấn Huỳnh, Phó Tổng trấn Trương Tấn Bửu tới các vị tướng như Võ Tánh, Võ Di Nguy; những người này tuy không sinh ra ở Gia Định nhưng sự nghiệp lại gắn liền với vùng đất này. Lăng Võ Di Nguy với kiểu kiến trúc chỉ dành cho bậc đại công thần được chia làm hai khu: khu đền thờ phía trước và khu mộ phía sau. Ngôi mộ được xây bằng hợp chất cổ và được coi là tiêu biểu cho nghệ thuật xây cất lăng mộ dành cho các công thần ở Nam bộ. Với kiến trúc gồm bình phong trước, bình phong sau, vòng tường bao xung quanh cùng các trụ cột là những thành phần che chắn, bảo vệ cho phần mộ ở giữa. Mộ được xây dựng có dạng hình chữ nhật vuông xung quanh khắc các đường trang trí và hình tượng “dây lá hóa rồng” đang bay lượn. Toàn bộ khu mộ được đắp nổi nhiều hình tượng và trang trí nhiều mô típ hoa văn độc đáo, sống động: búp sen, kỳ lân, rồng, hổ, rái cá; tùng lộc, lộc bình, hoa điểu, hoa cúc dây… cùng nhiều bài thơ ghi công đức của ông và phu nhân. Đền thờ có từ khi xây cất xong khu mộ, kiến trúc hiện nay của khu đền thờ là kiến trúc được xây dựng lại trong đợt trùng tu vào năm 1972; với kiến trúc chính điện là ngôi nhà tứ trụ truyền thống Nam bộ cùng hai dãy nhà phía Đông và phía Tây hai bên. Bên trong, tại Chính điện có bàn thờ Hội đồng ở giữa, phía trong là các án thờ Võ Di Nguy và người cháu ruột là Võ Di Thái được phong tước Bình Giang Bá, riêng án thờ Võ Di Nguy có bài vị khắc chữ Thần thếp vàng. Trong chính điện còn treo các bức hoành phi, liễn đối bằng chữ Nho thể hiện công trang của Võ Di Nguy. Đền thờ và mộ Võ Di Nguy là một công trình kiến trúc nghệ thuật có liên quan tới nhân vật lịch sử thời chúa Nguyễn. Đây là kiến trúc lăng mộ có tính chất uy nghi, độc đáo vào bậc nhất của các công thần thời Nguyễn ở Nam bộ. Công chúng tới đây có thể nhận thấy nhiều điều thú vị về cuộc sống và xã hội của con người trong quá khứ một thời ở đất Gia Định xưa. Lăng Võ Di Nguy được Bộ Văn hóa – Thông tin xếp hạng là di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia theo Quyết định số 43-Văn Hóa /Quyết Định ngày 07 tháng 01 năm 1993. Nguồn Cổng thông tin điện tử quận Phú Nhuận, thành phố Hồ Chí Minh.

TP Hồ Chí Minh 1903 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

LĂNG TRƯƠNG TẤN BỬU

Lăng Trương Tấn Bửu là nơi yên nghỉ của Long Vân Hầu Trương Tấn Bửu, một danh tướng của triều Nguyễn. Lăng được xây dựng tại ấp Phú Thành, xã Phú Nhuận, tỉnh Gia Định nên còn được gọi là lăng Phú Thành, hội quí tế lo việc cúng tế, trông coi lăng mang tên Hội Phú Thành. Trương Tấn Bửu là một trong năm vị tướng nổi danh của thành Gia Định (gồm Nguyễn Văn Trương, Nguyễn Văn Nhân, Lê Văn Duyệt, Nguyễn Huỳnh Đức, Trương Tấn Bửu). Ông theo phò Nguyễn Ánh từ năm 1787, giữ nhiều trọng trách trong quân đội, được phong tước hiệu là Long Vân Hầu. Năm 1808, vua Gia Long phân định lại bờ cõi, đổi “Gia Định trấn” thành “Gia Định thành” bao gồm Bình Thuận, Phiên An, Biên Hòa, Định Tường, Vĩnh Thanh, và Hà Tiên. Tổng trấn đầu tiên của Gia Định thành là Nguyễn Văn Nhân, Phó Tổng trấn là Trương Tấn Bửu. Từ đây đến cuối đời ông giữ nhiều trọng trách: Tổng trấn Gia Định thành; Tổng trấn Bắc thành; Phó Tổng trấn Gia Định thành dưới quyền Tổng trấn Lê Văn Duyệt; Tiền quân Phó tướng; Trung quân kiêm Tả quân Phó tướng; trông coi xây dựng Thái miếu; đắp thành Châu Đốc; đào kênh Vĩnh Tế…Ông mất năm 1827, vua Minh Mạng ban cho hai ngàn quan tiền và năm cây gấm tống cẩm để giúp làm việc tang lễ. Đích thân tả quân Lê Văn Duyệt coi lo việc chôn cất Long Vân Hầu Trương Tấn Bửu và xin cấp tự điền (ruộng đất để thờ tự) và người giữ mộ. Ông mất năm 1827, vua Minh Mạng ban cho hai ngàn quan tiền và năm cây gấm tống cẩm để giúp làm việc tang lễ. Đích thân tả quân Lê Văn Duyệt coi lo việc chôn cất Long Vân Hầu Trương Tấn Bửu và xin cấp tự điền (ruộng đất để thờ tự) và người giữ mộ. Lăng Trương Tấn Bửu gồm ngôi mộ và một đền thờ trong khuôn viên rộng hơn 2300m2 có tường rào bao bọc. Mộ Trương Tấn Bửu dài hơn 3m, chiều ngang khoảng 2m, cao hơn 2m. được xây bằng ô dước (hợp chất gồm vôi, cát giấy do, than hoạt tính, mật đường). Cách xa mộ gần 2m có tường thành bao thành hình chữ nhật (được gọi là khuông thành). Tường được xây bằng ô dước và gạch thức (gạch có đóng dấu). Đầu mộ, cuối mộ có xây bình phong. Trên khuông thành và binh phong trang trí hình kỳ lân, búp sen, phù điêu hình cây tùng và chin hạc, các cặp liễn đối. Bên phải ngôi mộ là đền thờ Trương Tấn Bửu. Đền thờ gồm có tiền điện và chính điện. Tiền điện được xây theo dạng nhà tứ trụ, vì kèo bằng gỗ, mái lợp ngói ống (ngói âm dương tiểu đại). Chính điện cũng có dạng nhà tứ trụ nhưng được xây bằng bê-tông, tường gạch, mái lợp tôn xi măng. Khám thờ Trương Tấn Bửu được đặt ở chính điện, hai bên có bàn thờ Tả Ban và Hữu Ban. Năm 1943, với sự đóng góp của Hội Thượng công quí tế lăng Lê Văn Duyệt, Hội Phú Thành đã trùng tu đền thờ. Năm 1959, Hội Phú Thành xây một hội quán bên phải đền thờ. Lăng Trương Tấn Bửu là công trình tiêu biểu của kiến trúc lăng mộ đầu thế kỉ 19 ở Gia Định, do đích thân Lê Văn Duyệt đốc xuất xây dựng làm nơi yên nghỉ cho một vị tướng tài, có công bình định an dân ở miền Nam, dẹp nạn thổ phỉ ở miền Bắc. Trước Cách mạng tháng Tám và trong những ngày đầu Nam bộ kháng chiến, lăng Trương Tấn Bửu là cơ sở của đội Cảm tử quân Phú Nhuận. Lăng Trương Tấn Bửu đã được Bộ Văn hóa – Thông tin xếp hạng là di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia theo Quyết định số 101/2004/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thông Tin ngày 15 tháng 12 năm 2004. Nguồn Cổng thông tin điện tử quận Phú Nhuận, thành phố Hồ Chí Minh.

TP Hồ Chí Minh 1916 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Đình Phú Nhuận

Đình Phú Nhuận được xây dựng khoảng năm 1818 ở xóm Kinh, sát kinh Nhiêu Lộc, đến năm 1852 được xây lại trên địa điểm hiện nay. Ngày 29 tháng 11 năm Nhâm Tý (tức ngày 08 tháng 01 năm 1853), vua Tự Đức đã ban sắc phong cho Thần Thành Hoàng của đình. Đình trải qua nhiều lần trùng tu vào các năm 1930, 1966, 1989 và 1998, nhưng vẫn giữ được nét độc đáo kiến trúc cổ của đình Nam bộ thế kỷ 19. Từ cổng đình bước vào, ta gặp miếu “Nhị Vị Công Tử” thờ hai người con trai của nữ thần Po Nagar của người Chăm ở bên phải; miếu thờ “Ngũ Hành Nương Nương” bên trái. Mặt tiền là bức bình phong đắp nổi hình Bạch Hổ. Phía sau bức bình phong là dấu vết bệ thờ Thần Nông. Nhìn tổng thể, đình có hình L ngược, có hai trục: trục chính nằm ở phía bên phải (tính từ trong ra ngoài), nhà võ ca, võ quy, chính diện. Trục phụ gồm: sân đình, nhà thảo bạt, nhà túc, sân thiên tỉnh, nhà bếp và nhà kho. Mái đình thẳng lợp ngói âm dương, trên đỉnh có trang trí “ lưỡng long tranh châu” bằng gốm. Bên trong đình có bộ cột và vì kèo làm bằng gỗ, cấu trúc theo kiểu kẻ chuyền. Chính diện xây theo kiểu nhà tứ tượng, hình vuông (một gian hai chái) với cột gỗ, kèo gỗ, trạm hình đuôi rồng, được xây dựng năm 1920. Các bàn thờ được xếp thành ba dãy, dãy giữa gồm các bàn thờ Thần, hai bên là bàn thờ Tả Ban và Hữu Ban. Bàn thờ Thần bằng gỗ chạm hoa văn “lưỡng long triều nguyệt”, trên đặt sắc Thần do vua Tự Đức ban cho vị Thần Thành Hoàng của đình Phú Nhuận đựng trong chiếc hộp. Trên bàn thờ Thần ở chính điện có lư hương bằng gốm cổ, men xanh lam và một lư hương bằng đồng. Chính điện có bốn cặp câu đối và ba bức hoành phi được chạm khắc tinh sảo. Đặc biệt có cặp câu đối cổ viết bằng chữ Hán “Hộ quốc tý dân” (dịch là: Giúp nước cứu dân) niên đại 1860, và “Hộ quốc bảo dân” (dịch là: Giúp nước bảo vệ dân) niên đại 1901. Ngoài ra, đình còn lưu giữ 33 hiện vật và sắc phong của vua Tự Đức nói trên. Đình Phú Nhuận thờ Thần Thành Hoàng theo tục thờ Thần của người Việt. Ngày lễ lớn nhất của đình Phú Nhuận là lễ Kỳ Yên, được tổ chức vào ngày 16, 17, 18 tháng Giêng. Lễ vật chính cúng Thần là con heo đen. Ngày 16 tháng Giêng là ngày lễ chính. Đình Phú Nhuận được Bộ Văn hóa – Thông tin xếp hạng là di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia theo Quyết định số 3744/Quyết Định -Văn Hóa Thông Tin ngày 29 tháng 01 năm 1997. Nguồn Cổng thông tin điện tử quận Phú Nhuận, thành phố Hồ Chí Minh.

TP Hồ Chí Minh 1778 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Đình Bình Hòa

Đình Bình Hòa tọa lạc ở phường 12, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh. Năm 1818, thôn Bình Hòa được thành lập và ngôi đình cũng được dựng vào năm ấy. Năm 1853, được vua nhà Nguyễn là Tự Đức sắc phong. Đình được xây dựng trên gò đất cao, quay về hướng đông. Theo trục chính từ ngoài vào là nhà võ ca, tiền điện, trung điện và chính điện. Nhà võ ca mới được xây dựng thêm vào năm 1972, dài 20,7m, rộng 13,49m. Tiền điện hình chữ nhật dài 13,49m, rộng 9,56m, gồm ba gian hai chái, nhà có kiểu như nhà ở thông thường, có bốn hàng cột, đường kính từ 0,35m đến 0,40m, cao 6m. Trung điện hình chữ nhật dài 12,48m, rộng 9,57m. Mái lợp ba lớp ngói, kiến trúc theo kiểu chồng diêm đầu hồi bịt đốc, trên bờ nóc gắn tượng lưỡng long tranh châu (lưỡng long triều nguyệt). Trung điện làm theo kiểu tứ tượng, gồm bốn cột chính rồi phát triển ra chung quanh. Chính điện hình chữ nhật dài 11,03m, rộng 9,57m, cũng được xây theo kiểu tứ tượng, chỉ có một tầng mái, các xà kẻ gỗ ở tường hồi không có thanh kẻ chéo góc. Nhà túc dài 16,48m, rộng 8m, ngoài ra còn có nhà kho và nhà bếp. Tiền điện có ba ban thờ : hồi đồng ngoại, tả ban chư vị, hữu ban chư vị. Các bàn thờ, khám thờ, hoành phi, câu đối đều được chạm trổ tinh vi, ba mặt bàn đều được chạm trổ, bốn góc bàn chạm bốn đầu rồng, bốn chân bàn chạm bốn chân rồng. Đặc biệt, trên đường diềm bàn thờ tiền điện có chạm hình lưỡng long tranh châu, thân rồng được cách điệu bằng cành mai. Đường diềm trên bàn thờ tiền điện với hoa văn mai dơi cũng rất đáng chú ý. Ngoài ra còn các hoa văn nho, sóc, phượng, hoa sen. Đình thờ bốn vị thành hoàng và thần Nam Hải. Lễ kỳ yên hằng năm là lễ lớn nhất từ ngày 11 đến 14 tháng 9 âm lịch. Vị thần được thờ chính tại đình Bình Hòa là Thành hoàng Bổn cảnh, được vua Tự Đức sắc phong vào năm Quý Sửu (1853). Ngoài bộ cột quý, trong đình hiện còn lưu giữ 39 hiện vật có giá trị khác. Đáng chú ý là 5 bàn thờ bằng gỗ được chạm trổ tinh xảo; hai bát nhang gốm Sài Gòn xưa, sắc phong của vua Tự Đức, v.v… Ngày 7 tháng 1 năm 1993, ngôi đình đã được Bộ Văn hóa-Thông tin công nhận là di tích Kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia theo Quyết định số 43 Văn Hóa /Quyết Định. Nguồn Trang thông tin điện tử phường 12, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh.

TP Hồ Chí Minh 1684 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Chùa Phụng Sơn(Tổ Đình Phụng Sơn)

Chùa Phụng Sơn, tên chữ là Phụng Sơn Tự, còn có tên là chùa Gò, tọa lạc ở số 1408 Đường 3 tháng 2, phường 2, quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. Ngôi cổ tự này đã được xếp hạng là "Di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia" vào ngày 16 tháng 11 năm 1988. Chùa Phụng Sơn được thiền sư Liễu Thông (1754-1840) tạo lập vào đầu thế kỷ 19, dưới triều vua Gia Long trên nền của một ngôi chùa Chân Lạp cổ, giống các chùa Giác Lâm và chùa Cây Mai, nằm trên một đồi nhỏ bao quanh là ao Bàu Chuông có trồng sen. Năm 1904, am lá được xây cất lại. Và kể từ đó cho đến nay, chùa có hai lần trùng tu lớn, đó là vào thời hòa thượng Huệ Minh trụ trì (1904 -1915) và vào năm 1960. Năm 1963, hòa thượng Thích Phước Quang cho xây lại cổng tam quan, do kiến trúc sư Nguyễn Bá Lăng vẽ kiểu. Tuy được trùng tu lại vài lần, nhưng chùa vẫn theo kiến trúc cổ với bộ khung gỗ và mái ngói âm dương. Chùa Phụng Sơn xây theo kiểu chữ "quốc" (chữ Hán), dài trên 40 m, rộng gần 20 m, có hàng hiên chạy quanh bốn phía. Bên trong chùa chia ra hai khu rõ rệt, phía trước là chính điện, cách một sân lộ thiên, phía sau là nhà giảng. Hai bên sân lộ thiên có đông lang và tây lang, nối liền hai nơi. Sân lộ thiên có hòn non bộ, tượng Quan Âm và cây cảnh, nhờ có khoảng sân này nên chùa được thoáng đãng, sáng sủa. Nơi chính điện, các cột đều làm bằng gỗ tốt, lâu ngày đã trở nên đen bóng. Chùa thờ kiểu "tiền Phật, hậu Tổ". Điện Phật có nhiều tượng Phật xưa bằng gỗ, thiếp vàng chạm trổ mỹ thuật. Tổng cộng chùa có khoảng 40 pho tượng thờ. Nhiều tượng thờ do nhóm thợ từ Sa Đéc, do hòa thượng Huệ Minh mời đến chùa để tạo tác vào những năm đầu thế kỷ 20. Có nhiều pho tượng quý như bộ Di Đà Tam Tôn, bộ Ngũ Hiền thượng kỳ thú, pho tượng Phật bằng đá, tượng Tiêu Diện... Chùa Phụng Sơn là một trong những ngôi chùa cổ, còn in đậm nét sự có mặt của tín ngưỡng dân gian, Như bên hành lang chánh điện thờ Linh Sơn Thánh Mẫu, một trong những vị nữ thần được tôn kính và thờ tự phổ biến ở miền Nam. Dấu vết của quá trình sinh sống và cộng cư của nhiều dân tộc tại vùng đất này còn được thể hiện qua hình ảnh ngôi miếu nhỏ thờ Ông Tà (Neak Tà) trong khuôn viên chùa, bên những ngôi tháp Tổ. Đó là dạng tín ngưỡng, là một nét văn hóa phổ biến của cư dân Khmer. Là một trong những ngôi chùa cổ còn lưu lại đậm nét về địa thế, kiến trúc, nghệ thuật tạc tượng, cách bày trí và thờ cúng, chùa Phụng Sơn đã góp phần mang lại một giá trị văn hóa - nghệ thuật phong phú, đa dạng trong dòng phát triển của văn hóa Phật giáo tại Nam Bộ. Nguồn Cổng thông tin điện tử quận 11, thành phố Hồ Chí Minh.

TP Hồ Chí Minh 1945 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Đình Chí Hoà

Hiện tọa lạc trong con hẻm 475 Cách Mạng Tháng Tám, Phường 13, Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh. Không rõ năm lập Đình Chí Hòa, chỉ biết rằng đình có sau khi Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh vào Nam kinh lược (1698), và thiết lập làng xã cho lưu dân người Việt. Ban đầu, đình Chí Hòa được dựng khá đơn sơ theo kiểu chữ "tam" (三), với vách ván và mái lợp ngói âm dương. Sau khi được vua Tự Đức ban sắc phong (16 tháng 2 Âm lịch năm Nhâm Tý, 1852), ngôi đình mới được xây dựng kiên cố và được tu bổ vài lần về sau. Khi xưa, khuôn viên đình rộng trên một mẫu (hecta), hiện nay đã bị thu hẹp vì bị lấn chiếm. Ngay cả cây đa to trước đình, gốc đến ba người ôm, rễ phụ mọc tua tủa từ thân xuống...cũng bị đốn hạ vào năm 1980, khiến cảnh quan đình bị thay đổi nhiều... Đây là ngôi đình thuộc hàng cổ nhất tại thành phố và đã được Bộ Văn hóa cấp bằng công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia theo quyết định số 1460 - Quyết Định /Văn Hóa ký ngày 28 tháng 6 năm 1996. Nguồn Trang thông tin điện tử phường 13, quận 10, thành phố Hồ Chí Minh.

TP Hồ Chí Minh 1845 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Đình Bình Đông

Đình Bình Đông được xây dựng trên cù lao ngay nhánh rẽ của dòng Kinh Đôi, thuộc phường 7 quận 8 thành phố Hồ Chí Minh. Theo “Gia Định thành thông chí” của Trịnh Hoài Đức, thôn Bình Đông thuộc tổng Tân Phong, huyện Tân Long, phủ Tân Bình (1818). Đình có sắc phong Tự Đức ngũ niên (1853). Như vậy đình Bình Đông phải được xây dựng trước năm 1853, tức trước năm nhận được sắc. Sắc phong cho Thần "Thành hoàng bổn cảnh" của thôn Bình Đông, huyện Tân Long ghi ngày 29 tháng 11 âm lịch năm Nhâm Tý (08/01/1853). Theo các bô lão thì đình Bình Đông có từ xưa. Lúc đầu, kiến trúc của đình chỉ là ngôi nhà lá, dùng làm nhà làng cho dân cư quanh vùng tới hội họp và cúng bái. Đến năm 1922 được trùng tu bằng mái ngói, vách ván, cột kèo gỗ theo dạng đình Nam Bộ với võ ca và chánh điện nằm giữa, hai bên có Đông và Tây lang, bên cạnh lại có nhà Nghĩa Từ. Đến năm 1930, đình xuống cấp nên được sửa chữa lớn, mái ngói được thay bằng ngói đại ống 2 lớp, vách trét ô dước, nền gạch tàu. Năm 1968, trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân, đình bị bom đánh sập một phần võ ca, chánh điện và nghĩa từ. Mãi đến năm 1991, đình được xây dựng lại với kết cấu bằng nguyên vật liệu nặng (bêtông - cốt sắt) nhưng kiến trúc tổng thể vẫn giữ nguyên. Lần xây dựng này có thêm nhà Truyền Thống. Tuy toàn bộ cảnh quan không thay đổi nhưng kết cấu không còn nét xưa. Nổi bật còn lại vẫn là các hiện vật bên trong chánh điện như toàn bộ khám thờ thần, Tả Hữu ban, Hội đồng đều chạm thủng viền quanh với rồng vờn châu, từng lộc, tứ linh rất nghệ thuật. Trên bàn thờ Thần có khánh đựng mão thần, bộ bát bửu bằng đồng, lư hương bình hoa bằng gốm quí. Trước bàn thờ bố trí bộ lỗ bộ đầu bịt đồng rất quí. Cặp liễng treo hai bên bàn thờ Thần. Chung quanh cặp liễn có chạm các hoa văn rất nghệ thuật. Ngoài ra còn có 4 cặp liễn khác cùng kích cỡ, cùng mang tính nghệ thuật chạm trổ với nội dung ca ngợi công đức Thần được treo tuần tự theo cung cách thờ cúng. Trong chánh điện còn phải kể đến bao lam chạm trổ hình dáng: mai, lan, cúc, trúc, mẫu đơn, sóc, giác trên các loại gỗ quí. Các hoành phi đáng kể như Bình Đông Đình có ghi niên đại 1870 treo trên cửa chánh điện và bức "Diệu - Diệu anh linh" niên đại 1850. Trong nhà nghĩa từ bài trí hai bàn Tiền và Hậu hiền với đầy đủ hiện vật thờ cúng. Cạnh có bàn Tiên - Sư cũng được chưng dọn rất nghiêm túc. Riêng nhà Truyền Thống nằm cạnh là nơi trưng bày một số hình ảnh minh họa thời gian cụ Tôn Đức Thắng hoạt động tại Sài Gòn và tại đình Bình Đông. Nhìn tổng thể còn có miếu Ngũ Hành, bàn thờ Thần Nông, miếu Ông Tà bố trí theo tục lệ trước mặt võ ca (gần cổng Tam quan). Sân khấu thiết kế nằm trong võ ca nhằm phục vụ hát xướng ngày đại lễ. Đình Bình Đông không chỉ nổi tiếng là đình cổ, linh thiêng mà nơi đây còn mang ý nghĩa quan trọng của sự kiện lịch sử cách mạng. Năm 1920, Tôn Đức Thắng (nguyên Chủ tịch nước) từ hải ngoại trở về Sài Gòn và bí mật thành lập Công hội đỏ phát triển mạnh trong đội ngũ công nhân nhằm đoàn kết chống tư bản đế quốc. Lúc này ông Ka Hiêm là hội viên đình Bình Đông nên biến đình thành cơ sở của Công hội đỏ. Năm 1925, là lãnh đạo tổ Công hội đỏ thuộc Nhà đèn Chợ Quán, ông Ka Hiêm tổ chức nhiều cuộc họp tại đình và các tài liệu đều được cất giấu dưới khám thờ. Theo ông Dương Quang Đông (Nguyên thường vụ Xứ ủy Nam kỳ) - Chủ tịch câu lạc bộ hưu trí TP. Hồ Chí Minh và ông Ka Hiêm thì Chủ tịch Tôn Đức Thắng đã đến dự nhiều lần những cuộc họp quan trọng tại đình Bình Đông trong khoảng thời gian từ 1925 - 1928. Những lần đó Bác Tôn đã thuyết giảng về chủ nghĩa Mác, lòng yêu nước cho các công nhân nòng cốt của Hội. Thời gian hoạt động của Công hội đỏ diễn ra từ 1925 - 1928, không hề bị lộ bí mật. Chính tại chánh điện, các mật thư của Nguyễn Ái Quốc được chuyển từ nước ngoài về cũng như các sách báo tuyên truyền cho chủ nghĩa Mác đều được cất giấu cẩn thận và an toàn tại đình Bình Đông. Thời kỳ chống Mỹ, đình Bình Đông là nơi liên lạc, chuyển vũ khí vào nội thành và cũng là nơi bộ đội miền Nam đặt súng bắn vào Tòa hành chánh quận 7 của chế độ cũ năm 1968. Đình Bình Đông là một di tích văn hóa và lịch sử, được Bộ Văn hóa cấp bằng công nhận di tích theo quyết định số 2890 - Văn Hóa /Quyết Định ký ngày 27/09/1997. Nguồn Cổng thông tin điện tử quận 8, thành phố Hồ Chí Minh.

TP Hồ Chí Minh 1917 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Đình Minh Hương Gia Thạnh

Đình Minh Hương Gia Thạnh hội quán tọa lạc tại 380 đường Trần Hưng Đạo, phường 11, quận 5, thành phố Hồ Chí Minh. Đình là nhà việc của xã Minh Hương, một xã được thành lập vào năm 1698, tập hợp con cháu người Hoa ở dinh Phiên Trấn. Năm 1808, vua Gia Long ban cho tên “Gia Thạnh đường” nên đình còn có tên Minh Hương Gia Thạnh. Năm 1867, chính quyền thuộc địa thay đổi cơ cấu hành chính, đình không còn là nhà việc của xã và trở thành hội quán của hội Minh Hương Gia Thạnh. Đình được xây dựng năm 1797, trùng tu vào các năm 1839, 1901 và 1962. Lần trùng tu cuối sử dụng một số vật liệu hiện đại và xây thêm tầng lầu trên chính diện. Kiến trúc đình theo kiểu nhà năm gian, vì kèo gỗ, mái lợp ngói ống, tường gạch. Nội thất đình bao gồm võ ca, chính điện và hậu điện. Bên phải võ ca có miếu Ngũ Hành. Đứng trước cổng có thể nhìn rõ trên mái đình các trang trí hình lưỡng long tranh châu, cá hóa long, tượng ông Nhật bà Nguyệt, phù điêu trích tuồng tích của Trung Quốc … do lò gốm Đồng Hòa sản xuất năm Tân Sửu 1901. Bộ khung gỗ kết cấu kiểu kẻ chuyền và các cột gỗ kê trên chân đế bằng đá tạo cho đình thêm nét cổ kính. Trên cột và các đà ngang treo nhiều hoành phi, câu đối, phần lớn được làm từ đầu và giữa thế kỷ XIX. Có tất cả 38 hoành phi và 22 câu đối, tập chạm bốn chữ “Thiện tục khả phong” (Tục tốt đáng khen) do vua Tự Đức ban cho năm 1863 và câu đối của Trịnh Hoài Đức làm năm Minh Mạng thứ 2 (1821). Chính điện đình xây trên nền cao, phía trước trang trí ba bao lam chạm lộng các đề tài tùng – hạc, mai – điểu, liên – áp, giỏ cua, giỏ trái cây … Cuối chính điện là ba khám thờ lớn bằng gỗ đặt trên bệ gạch, được chạm viền chung quanh lưỡng long tranh châu, lân, phụng, dây hoa …Khám thờ thần đặt ở giữa với bài vị: Ngũ thổ tôn thần – Ngũ cốc tôn thần, Đông trù tư mệnh -Bốn cảnh thành hoàng. Trước khám thờ có một lư trầm bằng đá và hai tượng Ngô Nhân Tịnh, Trịnh Hoài Đức cũng bằng đá đặt hai bên. Bên trái là khám thờ Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh và Đô đốc tướng quân Trần Thắng Tài, hai vị quan tướng có công lớn, được triều Nguyễn phong là Thượng đẳng thần. Khám bên phải thờ Trịnh Hoài Đức và Ngô Nhân Tịnh, hai người Minh Hương làm quan đến chức Thượng thư, (cùng với Lê Quang Định hợp thành “Gia Định tam gia”, một nhóm nổi tiếng về văn học và sử học). Góc trái chính điện có một chuông đồng. Quai chuông là một con rồng hai đầu, bốn chân. Thân chuông đúc nổi 2 hàng chữ “Gia Định thành Minh Hương xã công tạo“, “Long tập Quí Mùi thu nguyệt” (chuông do xã Minh Hương thành Gia định làm năm Quí Mùi – 1823). Hậu điện cách chính điện một sân thiên tỉnh nhỏ. Ở đây cũng có ba khám thờ trang trí giống nhau. Các vị tiền hiền khai sáng ra làng được thờ ở khám thờ chính giữa. Bên trái là khám thờ các hương chức và phu nhân có công, vợ chồng ông Trương Công Sĩ, người đã tặng đất cho xã. Những viên chức nhỏ có công và vợ được thờ ở khám bên phải. Miếu Ngũ Hành thờ Ngũ Hành Nương Nương và Chúa Sinh Nương Nương (người chuyên lo giúp việc sinh đẻ). Trong khám thờ có tượng Bà mẹ Sinh. Trước tượng Bà là tượng hai hầu và mười hai bà mụ bồng đứa trẻ trên tay. Phúc đức chính thần (Thổ Địa) và Bạch Mã Thái giám cũng được thờ ở miếu. Góc trái miếu có một chuông đồng đúc năm Tự Đức thứ 2 (1849). Ngoài những hiện vật đã kể, trong đình còn nhiều hiện vật quí khác như: bia lập năm 1839 ghi tên những người Minh Hương làm quan có tiếng dưới triều Nguyễn; một số hoành phi câu đối, đặc biệt là đôi câu đối làm cong theo thân cột, chạm nổi long, lân, qui, phụng … với đầu rồng được chạm cao hơn bề mặt câu đối gần một tấc, hai đỉnh gang làm năm 1842; bộ ghế chạm rồng, phượng; bộ thập bát binh khí …Đình Minh Hương là một trong những ngôi đình xưa ở thành phố Hồ Chí Minh. Ngoài ý nghĩa là một di tích của xã Minh Hương, nơi thờ tự hương hỏa của người Minh Hương, đình còn có giá trị về nghệ thuật thư pháp, nghệ thuật chạm khắc gỗ mang phong cách Việt Nam thế kỷ 19. Đình Minh Hương đã được Bộ Văn hóa ra quyết định số 43-Văn Hóa /Quyết Định ngày 07/01/1993 công nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật. Nguồn Cổng thông tin điện tử quận 5, thành phố Hồ Chí Minh.

TP Hồ Chí Minh 2034 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Đình Nghĩa Nhuận(Miếu Ông Quan Đế - Hội Quán Nghĩa Nhuận)

Đình Nghĩa Nhuận tọa lạc tại 27 đường Phan Văn Khỏe, phường 13, quận 5, thành phố Hồ Chí Minh. Đình Nghĩa Nhuận nguyên là đình thôn Tân Nhuận thuộc tổng Tân Phong, huyện Tân Long, phủ Tân Bình, một thôn đã được Trịnh Hoài Đức nhắc đến trong Gia Định thành thông chí. Từ năm 1836 thôn Tân Nhuận thuộc tổng Tân Phong Trung, huyện Tân Long, phủ Tân Bình, tỉnh Gia Định. Năm 1853, Thần Thành Hoàng bổn cảnh của làng được vua Tự Đức ban tặng sắc phong. Sau, đình trở thành hội quán của Hội Nghĩa Nhuận, thờ Quan Công là vị thần chính nên còn có tên là miếu Quan Đế. Theo Vương Hồng Sến, hội quán Nghĩa Nhuận được thành lập năm 1872 và trùng tu vào các năm 1879, 1894, 1906 và 1911. Đình gồm hai khu nhà riêng biệt trên khuôn viên khoảng hai ngàn mét vuông. Phần trước gồm các điện thờ, thiên tỉnh và hai dãy nhà phụ hai bên. Phía sau là nghĩa từ và các khu nhà phụ. Năm 1993, đình được xây thêm tam quan và hai dãy nhà dọc hai bên sân để thờ Thái Tuế thiên quân, Văn Xương đế quân, Thần Tài đại hắc thiên ở phía bên trái và thờ Di Lặc tôn Phật, Quan Âm Bồ Tát, Địa Tạng vương Bồ Tát ở bên phải. Hai bên cửa đình, ngoài hai sư tử đá chầu hai bên, còn có tượng Di Đà Hộ Pháp và Vương Đại thiên quân. Tiền điện đình có bàn thờ Tả Thần môn và ngựa Xích Thố bài trí đối xứng với bàn thờ Hữu Thần môn và Chiến sĩ trận vong. Từ tiền điện qua sân thiên tỉnh thì vào chính điện. Giữa chính điện có khám thờ Quan Đế với tượng quan Đế bằng gỗ cao khoảng 80cm, ngồi trên ngai. Hầu trước khám thờ là tượng Quan Bình và Châu Xương bằng gỗ cao 180cm đặt trong tủ kính đối mặt nhau. Bên trái khám thờ Quan Đế là gian thờ Thần Thành Hoàng bổn cảnh. Sắc phong của vua Tự Đức đặt trong một tủ kính lớn. Sắc ban cho Thần làng Thanh Bình, huyện Bình Dương, phủ Tân Bình, tỉnh Gia Định cũng được đặt chung ở đây. Khám thờ Bà Thiên Hậu ở góc bên phải. Trong khám thờ có tượng Bà Thiên Hậu bằng gỗ cao khoảng 70cm, ngồi trên ghế chạm. Nghĩa từ thờ các bậc tiền hiền, hậu hiền có công với làng. Nét nổi bật của đình là nghệ thuật chạm gỗ mang phong cách Việt Nam nửa cuối thế kỷ 19 và nửa đầu thế kỷ XX. Hầu như có thể nhìn thấy các tác phẩm chạm gỗ ở khắp nơi trong đình: trên tất cả các vì kèo, bao lam cửa, bao lam khám thờ, hương án, câu đối ... với các mô típ mới lạ như trái đào lộn hột, măng cụt, chim đậu trên chùm mận ... Bên cạnh các đề tài quen thuộc. Được nhắc đến nhiều là tượng ngựa Xích Thố, một trong những tượng ngựa Xích Thố đẹp nhất ở thành phố Hồ Chí Minh; 3 bức phù điêu trước ba hương án ở chính điện chạm nổi "Lục quốc phong tướng", "Trưng Nữ Vương khởi nghĩa" và "Lê Thái Tổ khởi nghĩa" được đánh giá là đỉnh cao về nghệ thuật chạm nổi và đổi mới về đề tài; bức bình phong sơn son thếp vàng, chạm nổi hai mặt các đề tài Bát Tiên quá hải, cầm kỳ thi họa, mai điểu, nho sóc ... viền chung quanh là lưỡng long tranh châu, phụng hoàng, chân đỡ bình phong là 4 kỳ lân ở góc và 2 con rùa ở bên dưới tạo cho bình phong vẻ sinh động. Nghệ thuật chạm khắc đá cũng được thể hiện đặc sắc qua hai cột đá chạm rồng trước cửa đình, cặp sư tử chầu hai bên cửa, các cột đá chạm nổi câu đối, chân kê cột hình bát giác chạm mai, trúc, bầu rượu, túi thơ... Ngoài ra còn có một sô hiện vật giá trị như lư trầm bằng đồng đúc ba con rồng nâng quả cầu, bộ binh khí, cặp hạc đứng trên lưng rùa ...Đình Nghĩa Nhuận không chỉ là di tích của làng Tân Nhuận xưa mà còn thể hiện sự giao lưu văn hóa Hoa - Việt ở vùng đất đông đảo đồng bào Hoa - Việt chung sống. Tuy có vài thay đổi qua những lần trùng tu, đình vẫn giữ được vẽ cổ kính với những tác phẩm chạm gỗ, chạm đá giá trị. Đình đã được công nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật theo quyết định số 43-Văn Hóa /Quyết Định ký ngày 07/01/1993. Nguồn Cổng thông tin điện tử quận 5, thành phố Hồ Chí Minh.

TP Hồ Chí Minh 1955 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Hội quán Ôn Lăng (chùa Quan Âm)

HỘI QUÁN ÔN LĂNG tọa lạc tại số 12 đường Lão Tử, Phường 11, Quận 5 Hội quán Ôn Lăng, còn được gọi là chùa Quan Âm. Hội quán Ôn Lăng, còn được gọi là chùa Quan Âm, là trụ sở của hội đồng hương những di dân người Hoa nguyên quán ở phủ Tuyền Châu, tỉnh Phước Kiến (Trung Hoa). Hội quán được xây dựng vào khoảng nửa cuối thế kỷ thứ 18 và đã được trùng tu vào các năm 1828, 1867, 1897, 1993, 1995. Năm 1809, Ban Quản trị hội quán đã xây thêm một hồ phóng sinh trước hội quán, để “trấn mạch tụ khí” cho miếu thờ được linh thiêng. Ngoài Thiên Hậu Thánh Mẫu là vị thần được thờ ở gian giũa chính điện, hội quán Ôn Lăng còn thờ các vị Ngọc Hoàng Thượng Đế, Bà Chúa Sinh, Phúc Đức Chính Thần (Thần Thổ Địa), Quan Đế, Bao Công, Văn Xương Đế Quân (vị Thần ban phước lộc), Mã Tướng Quân, Thần Thành Hoàng Bổn Cảnh, Phật Thích Ca, Phật Di Đà, Thiên Phụ Địa Mẫu, Tử Vi, Hoa Quang Đại Đế (Thần Tài), Tề Thiên Đại Thánh. Đặc biệt, án thờ Bồ Tát Quan Thế Âm được đặt trong sân phía sau chính điện với tượng thờ Quan Âm cao gần hai mét đứng trên tòa sen, hai bên có Kim Đồng, Ngọc Nữ theo hầu. Mặt bằng tổng thể của hội quán gồm một khoảng sân nhỏ phía trước, một khối nhà hình chữ nhật ở giữa (gồm tiền điện, sân thiên tỉnh, trung điện, chính điện) và ba khối nhà vuông góc nhau tạo thành hình chữ U bao bọc khối nhà này, khoảng giữa các khối nhà là lối đi khá rộng rãi. Hội quán được xây dựng và trang trí theo phong cách đặc trưng của đền miếu Phước Kiến với kiểu kiến trúc “tứ hợp diện”, mái lợp ngói ống, đầu các xà gồ dưới mái hiên được chạm trổ hình bông sen…Giá trị nghệ thuật của hội quán thể hiện qua các phù điêu hình hai con rồng tranh viên ngọc, chim phượng hoàng và các mô hình thành quách, người, thú… bằng gốm được trang trí trên mái ngói; cặp tượng kỳ lân bằng đá chầu hai bên cửa gồm tượng lân giáo tử (lân mẹ đang dạy lân con) và tượng lân hàm châu (lân ngậm ngọc trong miệng); những mảng phù điêu bằng gỗ chạm trổ tinh xảo trang trí ở mặt tiền và trên các vì kèo; các bao lam cửa, bao lam khám thờ chạm trổ tinh tế hình mai – điểu (hoa mai – chim sẻ), trúc – tước (cây trúc – chim tước), ngô đồng – phượng (cây ngô đồng và chim phượng), 16 cặp liễn, 23 hoành phi (có niên đại từ năm 1826 đến năm 1908), chuông đồng đúc năm Ất Dậu (1885) và tượng các vị thần thánh được tạo tác chân phương, gần gũi với đời thường. Thiên Hậu Thánh Mẫu là vị thần được thờ chính nhưng về sau việc thờ Quan Âm được coi trọng hơn nên hàng năm lễ hội Quan Âm được tổ chức rất long trọng trong ba ngày 17 tháng 6 âm lịch. Ngoài việc tế lễ, Ban Quản trị còn phát lộc cho người đến tham dự. Hội quán Ôn Lăng đã được Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng là di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia theo Quyết định số 39/2002/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thông Tin ngày 30 tháng 12 năm 2002. Nguồn Cổng thông tin điện tử quận 5, thành phố Hồ Chí Minh.

TP Hồ Chí Minh 1841 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Miếu Bà Thiên Hậu - Hội Quán Tuệ Thành

Miếu Thiên Hậu tọa lạc tại số 710 đường Nguyễn Trãi, phường 11, quận 5, là ngôi miếu thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu của cộng đồng người Hoa – Quảng Đông, gốc ở huyện Tuệ Thành (Trung Quốc). Miếu được xây dựng vào năm 1760. Từ đó đến nay, miếu đã được trùng tu nhiều lần. Miếu có cấu trúc mặt bằng dạng chữ Quốc, chia làm 3 dãy: tiền điện, trung điện và hậu điện. Hội quán Tuệ Thành và truờng học nằm hai bên miếu. Nóc miếu được trang trí hoa văn hoa lá, hình nhân bằng gốm sứ do hai lò Bửu Nguyên và Đồng Hòa sản xuất vào năm Mậu Thân (1908), có cảnh "đả võ đài", "bái tổ vinh quy", mô tuýp "lưỡng long tranh châu", có hình ảnh tiên đồng, tiên nữ với hàng chữ "hòa hợp nhị tiên"... Hai con lân đá, chạm từ khối đá nguyên được đặt trong sân miếu. Tiền điện đặt hai trang thờ hai bên cửa vào. Bên trái thờ Thần Cửa (Môn Quan Vương Tả), bên phải thờ Phúc Đức Chánh Thần. Tại đây cũng có bia đá ghi truyền thuyết về Thiên Hậu Thánh Mẫu và bức tranh lớn vẽ cảnh Bà hiển linh trên sóng nước. Bia công đức ghi lại sự đóng góp trùng tu miếu vào các đời: Đạo Quang thứ 8 (1828) và Đạo Quang thứ 10 (1830) – Tự Đức thập nhất niên (1857); Hàm Phong cửu niên (1859); Quang Tự - Mậu Tuất (1898)...Trung điện đặt bộ lư phát lam niên hiệu Quang Tự thứ 12 (1886) là bộ lư lớn nhất so với những bộ lư ở những miếu khác trong Thành phố. Tại đây cũng có kiệu lớn sơn son thếp vàng bằng gỗ tốt, dành rước Bà trong ngày vía. Bức hoành phi "Hàm Hoằng Quang Đại" treo tại đây, cho biết năm trùng tu xưa nhất của miếu (1800). Hậu điện là gian chính đặt thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu. Trên trang thờ Bà có 3 tượng lớn: tượng cao nhất dùng vào dịp vía bà, cung nghinh ra sân cho bà ngự lãm lễ hội; tượng giữa đặt trên trang thờ và tượng dưới cùng dùng đặt vào kiệu đưa đi diễu hành quanh các khu phố vào ngày lễ hội. Tại gian chính điện còn đặt 2 đại hồng chung bằng gang: một có niên đại 1795 đời vua Càn Long thứ 60 và một được đúc năm Canh Tuất 1850. Trong "Thiên Hậu cung" có đặt một thuyền gỗ ở góc, treo cờ ghi 4 chữ "phổ độ chúng sanh", dùng dâng cúng Bà vào ngày vía hàng năm. Hai bên trang thờ Bà còn đặt trang thờ Kim Huê nương nương bên phải và Long Mẫu nương nương bên trái... Gian phụ cũng đặt thờ Quan Thánh, Địa Tạng, Thần Tài. Tủ kính lớn gian chính điện đặt tượng Bát Tiên và tướng lịnh của Ariès ký tên: cấm các binh sĩ Pháp, Y-Pha-Nho phá phách miếu – được lưu giữ từ năm 1860. Ngoài các hiện vật quý, trong miếu còn có các pháp khí như: đỉnh trầm, lư trầm, lư hương bằng đá sa thạch... do người Hoa thành kính tín ngưỡng Bà đã dâng cúng. Là ngôi miếu quan trọng nhất ở Thành phố đặt thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu cùng một số hiện vật quý trong miếu, ngày 07/01/1993 miếu được công nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật theo quyết định số 43-Văn Hóa /Quyết Định của Bộ Văn hóa thông tin. Nguồn Cổng thông tin điện tử quận 5, thành phố Hồ Chí Minh.

TP Hồ Chí Minh 1998 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Điểm di tích nổi bật