Di tích lịch sử

Đắk Lắk

Biệt Điện Bảo Đại

Di tích lịch sử Biệt Điện Bảo Đại tọa lạc tại số 2 đường Y Ngông, phường Tân Tiến, thành phố Buôn Ma Thuột. Nơi đây trước năm 1905 là nhà hàng Maison Lefévre – một trạm kiểm soát trá hình nhằm khống chế sự giao lưu, quan hệ của đồng bào buôn Kram - Buôn Ma Thuột với các buôn khác và người Kinh từ đồng bằng lên. Đến năm 1914, Công sứ Sabatier đã chọn địa điểm này để xây dựng công sở được gọi là Toà Đại lý Quận trưởng. Năm 1926, sau khi về thay Công sứ Sabatier, Công sứ Giran đã cho cải tạo và xây dựng toà nhà như hiện nay và được gọi là Toà công sứ (Résidence), dân địa phương gọi là Sang Ae Prong (nhà ông lớn). Tháng 11/1947, sau khi được Chính phủ Pháp bảo lãnh đưa về nước với danh nghĩa là Quốc trưởng, Bảo Đại đã làm việc trong khu vực này gần 8 tháng (từ tháng 11/1947 đến khoảng tháng 5/1948). Đến những năm 1949 – 1954, hằng năm vào dịp đầu mùa mưa, ông thường đến đây để nghỉ ngơi và săn bắn, do đó ngôi nhà này còn có tên Biệt Điện Bảo Đại. Ngược về quá khứ, tại di tích này vào năm 1925, giới trí thức người dân tộc thiểu số do thầy giáo Y Jút lãnh đạo, đã bao vây tấn công toà Công sứ, với mục tiêu chính là diệt Sabatier. Cũng chính từ cuộc đấu tranh này là nguyên nhân trực tiếp để chính phủ Pháp phải nhượng bộ đồng bào các dân tộc ở Buôn Ma Thuột – Đắk Lắk, đưa Giran đến thay. Tháng 3/1945 khi phát xít Nhật tràn lên Buôn Ma Thuột, Công sứ Levo đã giao lại ngôi nhà cũng như toàn bộ chính quyền Đắk Lắk cho phát xít Nhật. Cũng trong năm này di tích này đã chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử của đất nước nói chung và Tây Nguyên – Đắk Lắk nói riêng. Từ sau sự kiện lịch sử ngày 24/8/1945, tòa nhà trở thành trụ sở Hội đồng cố vấn cách mạng, nơi tổ chức các cuộc họp bàn chỉ đạo mọi công việc bảo vệ, xây dựng chính quyền của tỉnh và Nhà nước về mọi phương diện. Một sự kiện quan trọng nữa cũng diễn ra tại di tích này là ngày 01/12/1945 trong lúc thực dân Pháp đã và đang dựa vào quân đồng minh, âm mưu thôn tính nước ta lần thứ hai, một cuộc họp quan trọng bàn về vấn đề bầu cử Quốc hội khoá I của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do đồng chí Bùi San chủ trì (Nguyên Ủy viên hội đồng cố vấn cách mạng năm 1945). Cuộc họp đã đề ra các phương án bầu cử Quốc hội trong toàn tỉnh, bằng mọi hình thức giành thắng lợi kể cả trong lúc thực dân Pháp có thể đã có mặt trên toàn tỉnh. Cuộc họp đang triển khai thì bất ngờ Pháp đã tấn công vào Buôn Ma Thuột. Lực lượng Việt Minh đã chống trả quyết liệt, nhiều gương chiến đấu hy sinh vì Tổ quốc, đã sáng ngời chủ nghĩa anh hùng cách mạng cho lớp lớp các thế hệ sau. Sau năm 1975, Di tích là trụ sở đầu tiên của Tỉnh ủy tỉnh Đắk Lắk – trung tâm chỉ đạo mọi hoạt động, chính trị, kinh tế, xã hội của tỉnh những ngày mới giải phóng. Một phần của di tích được sử dụng như nhà khách của Tỉnh ủy Đắk Lắk, đã từng vinh dự đón tiếp những cán bộ lãnh đạo cao cấp của Đảng – Nhà nước mỗi khi đến thăm và làm việc tại Đắk Lắk : Di tích được Bộ Văn hóa và Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) xếp hạng Di tích quốc gia, ngày 26/01/1999, đến ngày 28/02/2023, Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đổi tên thành Di tích lịch sử Biệt Điện Bảo Đại. Nguồn: Sở văn hoá thể thao du lịch tỉnh Đắk Lắk

Đắk Lắk 3958 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình Lạc Giao

Đình Lạc Giao ở số 67 đường Phan Bội Châu, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đăk Lăk. Đình Lạc Giao là một ngôi Đình, thờ Thành Hoàng theo tập quán người Việt và là một di tích lịch sử đã được xếp hạng về công cuộc khai khẩn đất đai của những người Kinh đầu tiên trên cao nguyên Buôn Ma Thuột. Đây được xem là nơi tụ hội quan trọng và là lời nguyền giao kết của những người Việt từ khắp các miền lưu lạc đến sinh sống ở Buôn Ma Thuột. Đình là nơi sinh hoạt văn hóa tâm linh, tế lễ xuân, thu nhị kỳ, là nơi thờ cụ Đào Duy Từ, vị Thần Hoàng bản thổ, thờ cụ Phan Hộ vị tiền hiền, người có công khởi xướng thành lập làng Lạc Giao. Trong những năm 1928 – 1930, người Pháp tìm mọi cách ngăn cấm người Kinh lên Buôn Ma Thuột và Tây Nguyên. Nhưng ông Phan Hộ, người làng Đại Cát, xã Ninh Phụng, huyện Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa và một số thương nhân, lúc đi ngựa, lúc đi voi vẫn tìm cách đi lại buôn bán, trao đổi hàng hóa với người Êđê được. Qua gặp gỡ giao lưu với các già làng Êđê và được sự giúp đỡ của ông Ama Thuột, ông Phan Hộ đã làm quen với nhiều người và gây được những thiện cảm tốt. Điểm đặc biệt, thấy Buôn Ma Thuột là vùng đất rộng, bằng phẳng, màu mỡ, rất thuận tiện cho việc chăn nuôi, trồng trọt, phát triển đời sống. Đến năm 1928 ông quay về Khánh Hòa rủ thêm gần chục người là anh em, họ hàng, con cháu đến Buôn Ma Thuột thành lập làng, xây dựng mái Đình lấy tên là Lạc Giao. Để ghi nhớ mối tình đoàn kết này, ông Phan Hộ, xã trưởng xã Lạc Giao bấy giờ được phép chia đất cho một số đồng bào khai hoang, lập vườn, cất nhà trong phạm vi làng Lạc Giao và ông cũng dành một phần đất để dân làng dựng Đình. Ngày nay, theo tài liệu dân gian và tài liệu của Đình Lạc Giao, tên gọi Lạc Giao chính là lời nguyền giao ước an cư lập nghiệp của đồng bào Kinh với đồng bào tại chỗ cùng chung lưng đấu cật để xây dựng vùng đất mới này. Mỗi năm xuân thu nhị kỳ, dân làng Lạc Giao đều tới đây để cầu mong sức khỏe và làm ăn phát đạt cho mình và cho dân làng. Đình Lạc Giao còn là nơi bảo lưu truyền thống cách mạng của đồng bào các dân tộc tỉnh Đắk lắk trong thời kỳ chống thực dân Pháp, khi cách mạng tháng tám thành công, Đình Lạc Giao là nơi ra mắt chính quyền cách mạng thị xã Buôn Ma Thuột. Ngày 1/12/1945 (tức 27 tháng 10 Ất Dậu) tại địa điểm Trung tâm Văn hóa tỉnh hiện nay, thực dân Pháp bất ngờ tấn công vào một trung đội Nam tiến Lê Trung Đình giết chết hơn 100 chiến sĩ, cùng thời gian này tại trụ đèn ba ngọn (Ngã Sáu ngày nay) giặc Pháp giết hại một số đồng bào ta. Hàng năm cứ đến ngày 27/10 Âm lịch, nhân dân Buôn Ma Thuột lại tổ chức tưởng niệm về những chiến sĩ trận vong và đồng bào tử nạn tại Đình Lạc Giao một cách hết sức trang trọng. Đình Lạc Giao nằm trong địa phận phường Thống Nhất, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk lắk. Đình được xây dựng lần đầu năm 1928 với chất liệu tranh, tre, nứa, lá. Diện tích ban đầu của khu Đình khoảng 700m2, phía Nam giáp đường Y Jut, phía Tây và phía Bắc giáp chợ Buôn Ma Thuột, phía Đông giáp đường Phan Bội Châu. Đình có 2 cửa mở ra đường Phan Bội Châu và Điện Biên Phủ. Năm 1932 Đình Lạc Giao được xây dựng lại bằng gạch lợp ngói theo hình chữ môn, kiểu kiến trúc long thuyền trí trụ, hồi văn, mái bồ câu, trên y môn khắc chạm tứ linh, tứ quý, bờ nóc đắp lưỡng long hàm thực, mái trung đắp cách điệu lưỡng án vân vọng nguyệt, gốc mái liên hồi đắp án vân cách điệu. Lối vào chính điện được trang hoàng hai câu đối. Hậu Đình thờ tự Thần Hoàng và những người có công với đất nước. Hai bên chính điện là hai dãy nhà: nhà tả thờ các linh nam, linh nữ và nhà hữu là nơi tiếp khách, trưng bày chứng tích, phía trước có cổng tam quan đi vào, sau cổng là bức bình phong có chạm khắc hổ phù, sau nữa là một lư hương lớn, Đình đã được trùng tu nhiều lần. Đình Lạc giao được bộ văn hoá, thể thao, du lịch công nhận di tích lịch sử ngày 2 tháng 3 năm 1990. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Đắk Lắk

Đắk Lắk 3858 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Nhà Đày Buôn Ma Thuột

Nhà đày Buôn Ma Thuột tọa lạc tại số 17 đường Tán Thuật - phường Tự An - thành phố Buôn Ma Thuột. Được xây dựng trong những năm 1930 – 1931, Nhà đày là nơi giam giữ, đày ải tù chính trị chủ yếu ở các tỉnh Trung kỳ. Tên gọi Nhà đày Buôn Ma Thuột một mặt bắt nguồn từ tên gọi do thực dân Pháp đặt: Pénitencier de Ban Mê Thuột, mặt khác là do tính chất, loại hình các nhà giam của thực dân Pháp. Nhà đày được xây dựng với tổng diện tích gần 2ha, với 4 bức tường bao quanh cao 4m, dầy 40cm, 4 góc đều có vọng gác và có lính canh 24 trên 24 giờ. Phía trong có 6 dãy lao tập thể, các dãy xà lim… đây là nơi giam cầm, đày ải và thủ tiêu các chiến sĩ cách mạng với một chế độ hết sức khắc nghiệt và tàn bạo. Tại Trung Kỳ, Cao nguyên Đắk Lắk bấy giờ bị bao vây giữa bốn bề núi rừng trùng điệp, rậm rạp, nhiều thú dữ. Khí hậu khắc nghiệt, độc địa nóng lạnh thất thường, độ ẩm cao nhiều mầm bệnh nguy hiểm như sốt rét, kiết lỵ, thổ tả dễ phát sinh. Với địa hình cao nguyên rộng, xen kẽ nhiều rừng rậm bao bọc bởi nhiều núi cao, một phía là biên giới với nước ngoài, lại bị chia cắt bởi nhiều thung lũng, sông suối, ít có đường sá, cầu cống. Vào khoảng năm 1900, một nhà lao đã được người Pháp đã xây dựng lên dùng để giam tù chính trị. Tại đây, vùng đất hoang vu, khí hậu độc địa, ít người lui tới, sự khác biệt về ngôn ngữ văn hóa với người dân tộc Ê Đê, hình thành nhà lao giam giữ thì tù nhân khó bề trốn thoát. Cuối thập niên 1920 đầu 1930, phong trào chống thực dân tại Đông Dương tăng cao khi những người bản xứ tiếp thu các tư tưởng cách mạng phương Tây. Số lượng tù nhân chính trị ngày càng tăng cao. Chính quyền liên tục phải mở rộng và xây mới các nhà tù và nhà đày làm nơi lưu đày biệt xứ và giam giữ những nhà cách mạng dân tộc bản xứ bị xử án nặng trên lãnh thổ Đông Dương. Ban đầu Khâm sứ Trung Kỳ chọn xây dựng nhà đày tại huyện Lăk, cách thị xã Buôn Ma Thuột khoảng 50 km. Tuy nhiên, tỉnh trưởng Đắk Lắk bấy giờ đã đề nghị nên xây dựng nhà đày ngay tại thị xã Buôn Ma Thuột trên cơ sở mở rộng nhà lao cũ, với lý do việc xây dựng nhà đày mới đòi hỏi một chi phí lớn trong khi thời đó nước Pháp đang lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1929; đồng thời, nếu xây dựng ở Lăk thì việc giải tù nhân đi rất xa, tốn kém nhiều thời gian. Từ những lý do đó, Khâm sứ Trung Kỳ quyết định chọn thị xã Buôn Ma Thuột là nơi xây dựng nhà đày. Nhà đày Buôn Ma Thuột do thực dân Pháp thiết lập trong thời kỳ 1930 - 1931 để đày biệt xứ và giam giữ những người yêu nước, những đảng viên cộng sản bị bắt, bị xử án nặng ở các tỉnh Trung Kỳ, những người đi đầu trong các cuộc đấu tranh phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh. Một điểm đặc biệt khác với các nhà tù, nhà đày khác là tù nhân phải tự làm nhà tù để giam giữ chính họ đó là cách nổi bật nhất mà thực dân Pháp tiến hành ở nhà đày Buôn Ma Thuột. Nhà đày toạ lạc trên một khuôn viên rộng gần 2 ha vị trí này gần toà công sứ, trại lính khố xanh, nhà lao tỉnh. Đây là một đồi ít cây lớn, cho phép những xe tải dễ lui tới vận chuyển nguyên vật liệu. Bản thiết kế và kế hoạch do kỹ sư trưởng, giám đốc công chính Trung kỳ soạn thảo. Từ năm 1930 Nhà đày Buôn Ma Thuột đã giam giữ những người hoạt động như: Hồ Tùng Mậu, Phan Đăng Lưu, Nguyễn Chí Thanh, Tố Hữu, Hồng Chương, Bùi San, Trần Văn Quang, Ngô Đức Độ, Ngô Xuân Hàm... Di tích lịch sử nhà đày Buôn Ma Thuột còn được nhắc đến với tên gọi nhà phạt. Nơi đây cũng giống như bao nhà tù trên khắp nước Việt Nam, nó không những là minh chứng rõ ràng nhất cho tội ác tàn độc của Đế quốc – Thực dân, mà nơi đây còn được coi như một ngôi trường lớn đã tạo nên những người chiến sĩ cách mạng kiên trung cho đất nước. Nhà đày Buôn Ma Thuột là một di tích lịch sử tại Đắk Lắk, với kết cấu là một di tích hệ thống nhà tù (nhà đày) cũ từ thời Pháp thuộc. Ngày 10 tháng 7 năm 1980 Nhà đày được Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận là di tích cấp quốc gia. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Đắk Lắk

Đắk Lắk 4997 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Điểm di tích nổi bật