Di tích lịch sử

Đà Nẵng

Địa điểm diễn ra cuộc đấu tranh Cây Cốc năm 1954

Di tích "Địa điểm diễn ra cuộc đấu tranh Cây Cốc năm 1954" là nơi ghi dấu sự kiện lịch sử quan trọng được ghi vào sử sách về cuộc đấu tranh của đồng bào ta đòi thi hành Hiệp định Giơ-ne-vơ tại Quảng Nam. Sáng 27-9, tại xã Tiên Thọ, huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam đã diễn ra Lễ đón nhận Bằng Di tích lịch sử cấp Quốc gia “Địa điểm diễn ra cuộc đấu tranh Cây Cốc năm 1954” và tưởng niệm 65 năm cuộc đấu tranh Cây Cốc (29/9/1954 - 29/9/2019). Di tích “Địa điểm diễn ra cuộc đấu tranh Cây Cốc năm 1954” là nơi ghi dấu sự kiện lịch sử quan trọng được ghi vào sử sách về cuộc đấu tranh của đồng bào ta đòi thi hành Hiệp định Giơ-ne-vơ tại Quảng Nam. Theo sử liệu ghi lại, 9h ngày 29-9-1954, nhân dân từ Quế Sơn, Tam Kỳ, Quảng Ngãi lên chợ Cây Cốc (xã Tiên Thọ, huyện Tiên Phước) để buôn bán. Khi nghe tin địch bắt giam, đàn áp người dân và các cán bộ cách mạng nên họ đã tập hợp, nổi trống mõ kêu gọi đồng bào quanh chợ Cây Cốc cùng đi đấu tranh. Đến khoảng 10h cùng ngày, khi vừa đến cầu Vôi, 3 chiếc máy bay khu trục của quân độ Pháp quần lượn trên bầu trời, địch đã ban hành mệnh lệnh đàn áp, liền sau đó lính của Tiểu đoàn 601 nổ súng vào nhân dân,... khiến hơn 330 đồng bào, chiến sĩ đã ngã xuống. Việc công nhận “Địa điểm diễn ra cuộc đấu tranh Cây Cốc năm 1954” là Di tích lịch sử cấp Quốc gia ngoài việc trở thành địa điểm giáo dục truyền thống cách mạng cho thế hệ trẻ còn là nơi kết nối du lịch, văn hóa lịch sử của tỉnh Quảng Nam. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam.

Đà Nẵng 1866 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Địa điểm khởi phát phong trào chống sưu thuế năm 1908 ở miền Trung

Phong trào chống sưu cao, thuế nặng ở Quảng Nam và các tỉnh miền Trung đã trải qua hơn một thế kỷ song những giá trị lịch sử mà phong trào mang lại vẫn còn vẹn nguyên cho đến ngày hôm nay…. “Sòng dân Đại Lộc”… Năm 1858, thực dân Pháp nổ tiếng súng đầu tiên vào cửa biển Đà Nẵng mở đầu cho việc xâm lược nước ta. Các phong trào yêu nước liên tục nổ ra ở khắp nơi nhưng cuối cùng bị thất bại. Năm 1897, thực dân Pháp tiến hành chính sách “khai thác thuộc địa” lần thứ nhất bằng những chính sách thực dân phản động và bảo thủ, bóc lột nhân dân ta hết sức thậm tệ, tàn ác đặc biệt là chính sách sưu thuế. Người dân không những phải nộp thuế mà còn phải đi phu, lao dịch, đắp đường… Biết bao nhiêu người bỏ mạng, biết bao nhiêu người mang thương tật cả đời.. Những hình ảnh tang thương đó đã đi vào ca dao: Từ ngày Tây lại cửa Hàn Đào sông Cu Nhí, bòn vàng Bồng Miêu Huyện Đại Lộc là một trong những địa phương của tỉnh Quảng Nam mà nhân dân chịu nhiều thống khổ bởi chính sách cai trị tàn bạo thực dân phong kiến. Đói khát, bệnh tật cộng thêm thiên tai, hạn hán liên miên đã dìm cuộc sống của những người nông dân xuống tận cùng của đau khổ. Tên tri huyện lúc đó lại lợi dụng chính sách tăng thuế để khai khống số dân nhằm thu lợi cho cá nhân. Trước tình cảnh đó, vào đầu tháng 3 năm 1908, tại một bữa đám giỗ tộc Trương làng Phiếm Ái, xã Đại Nghĩa; một số hào lý đã bàn nhau làm đơn lấy chữ ký của các lý trưởng các làng xã trong huyện gửi quan huyện xin giảm nhẹ sưu cùng các món thuế bởi nhân dân quá khổ trước chính sách sưu, thuế hiện hành; nếu không được sẽ gửi lên Tòa Công sứ Pháp tại Hội An. Do việc làm xuất phát từ sự thương dân, vì quyền lợi chính đáng của đa số nhân dân, nên những người "làm đơn lấy chữ ký ", được nhân dân trong huyện gọi là "Đồng dân" và cuộc "Xin sưu" do họ khởi xướng được gọi là "Sòng Đồng Dân" hay là "Sòng dân Đại Lộc". Ngày 11-3-1908, hơn 400 người dân ăn mặc rách rưới kéo xuống huyện đường, nhưng viên Tri huyện không dám nhận đơn, lại cấp báo với viên quan tỉnh và Công sứ Pháp nên đoàn biểu tình bèn kéo nhau đi vây dinh Tổng đốc rồi vây luôn cả tòa Công sứ. Nhân dân các phủ huyện như Điện Bàn, Duy Xuyên, Tam Kỳ, Hội An, Hòa Vang… cũng đồng loạt hưởng ứng tại địa phương mình, và còn kéo về Hội An nên số người biểu tình ở đây mỗi lúc một đông. Trước sức ép của quần chúng nhân dân, chính quyền thực dân phong kiến đã thẳng tay đàn áp, bắt một số người lãnh đạo phong trào đày đi các nhà tù hoặc xử trảm. Phong trào đấu tranh chống sưu cao, thuế nặng sau một thời gian cũng bị chính quyền thực dân, phong kiến đàn áp. Tuy nhiên, phong trào nhận được sự hưởng ứng, tham gia của đông đảo quần chúng nhân dân bởi vì đây là phong trào đấu tranh vì quyền lợi chính đáng của những người dân nghèo khổ chống lại sự bóc lột của bộ máy cai trị thối nát lúc bấy giờ. Phong trào chống sưu thuế năm 1908 cũng thể hiện được lòng yêu nước, tinh thần, sức mạnh đoàn kết của nhân dân. Xuất phát từ lòng căm thù bọn thực dân xâm lược, bè lũ phong kiến tay sai bán nước hại dân, dưới sự lãnh đạo của những sĩ phu yêu nước, những người nông dân “áo rách nón cời” đã vùng lên tranh đấu. Lúc đầu, phong trào chỉ xuất phát ở một huyện, sau đó nhanh chóng lan ra các huyện, phủ trong tỉnh Quảng Nam và các tỉnh miền Trung. Lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết của nhân dân ta từ xưa đến nay cũng chính là giá trị bất biến, góp phần quan trọng vào sự thành công trong quá trình xây dựng và bảo vệ quê hương, đất nước. Phong trào chống sưu thuế đã giáng một đòn rất mạnh vào bộ máy chính quyền thực dân phong kiến đương thời. Ở Quảng Nam và các tỉnh miền Trung, nhân dân nổi dậy phá buồng giam, đốt dụng cụ tra tấn, giải phóng tù nhân; hàng loạt những tên tay sai gian ác bị quần chúng nhân dân vây bắt, có những tên ác ôn còn bị trừng trị thích đáng. Dù ở đâu, các cuộc nổi dậy của nhân dân đều có sự “dẫn đường chỉ lối” của các nho sinh, thân sĩ- những người có nhận thức nhất định về xã hội lúc đó. Mặc dù phong trào đã thất bại song nó đã mang đến ánh sáng mới cho con đường cách mạng Việt Nam. Giai cấp nông dân chính là lực lượng nòng cốt cho các phong trào cách mạng sau này. Trước sức mạnh bởi đòn roi, súng đạn của kẻ thù, những yêu sách mang tính ôn hòa sẽ không mang lại kết quả; chỉ có bạo lực cách mạng mới đủ sức chống lại bạo lực phản cách mạng. Phong trào đã được nhận xét là “một cuộc cách mạng được chuẩn bị một cách cực kỳ khéo léo”. 110 năm đã trôi qua, phong trào chống sưu thuế ngày ấy mới chỉ là bước mở đầu cho những phong trào cách mạng sục sôi sau này. Nhưng giá trị hiện hữu mà cho đến hiện nay chúng ta vẫn phải khẳng định đó là sức mạnh của lòng dân. Ngày ấy, trước sự vận động của các nhà nho yêu nước, quần chúng nhân dân “cơm đùm gạo gói” thay nhau đi đấu tranh đòi giảm sưu, giảm thuế. Hàng ngàn người chia nhau từng ngụm nước, từng nắm cơm, chăm sóc, động viên những người bị thương… Họ đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, không vụ lợi, không toan tính cho cá nhân mình. Họ làm tất cả mọi việc chỉ với mục đích duy nhất là chống lại ách thống trị tàn bạo của chính quyền thực dân phong kiến; đòi lại quyền lợi hợp pháp, chính đáng cho những kiếp người lao khổ. Phong trào chống sưu thuế ở Quảng Nam và các tỉnh miền Trung đã đi vào lịch sử đấu tranh của dân tộc ta như một mốc son sáng ngời. Ghi nhận những giá trị lịch sử to lớn của phong trào chống sưu thuế; ngày 29/12/2017, Bộ trưởng Bộ Văn hóa- Thể thao và Du lịch ban hành Quyết định số 5400/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thể Thao Du Lịch về việc xếp hạng Di tích lịch sử Địa điểm khởi phát phong trào chống sưu, thuế năm 1908 ở miền Trung (Đình Phiếm Ái và Nhà Ông Nghè Tiếp), xã Đại Nghĩa, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam là di tích quốc gia.

Đà Nẵng 1789 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Lăng mộ Thượng thư Trương Công Hy

Thượng thư Trương Công Hy (1727 - 1800) là người làng Thanh Quýt của phủ Điện Bàn, nay thuộc xã Điện Thắng Trung, huyện Điện Bàn. Cụ là nhân vật lịch sử đặc biệt, được Viện Sử học (thuộc Viện Khoa học xã hội Việt Nam) khẳng định “là danh thần triều Tây Sơn mà chính sử nước ta còn bỏ sót”, vì thế tên tuổi và sự nghiệp đối với sự phát triển của lịch sử dân tộc cần được tôn vinh xứng đáng. Trương Công Hy đỗ hương cống dưới thời Võ vương Nguyễn Phúc Khoát, làm thầy dạy của ấu chúa Nguyễn Phúc Dương cũng như các hoàng tử, hoàng tôn trong phủ chúa. Nhận thấy sự mục ruỗng của chính sự lúc bấy giờ nên khi triều Tây Sơn chiêu hiền, đãi sĩ, phất cờ chính nghĩa, cụ đã theo phụng sự cho vương triều Tây Sơn và được bổ nhiệm làm Tri phủ Điện Bàn, rồi Khâm sai Quảng Nam trấn, Hình bộ Thượng thư. Về quê an hưu, cụ được truy phong chức Binh bộ Thượng thư, tước Thùy Ân Hầu. Sinh thời, Thượng thư Trương Công Hy là một danh thần luôn hết lòng vì dân, vì nước, nổi tiếng thanh liêm. Trong thời gian làm Tri phủ Điện Bàn, cụ dốc hết tâm sức chấn chỉnh chính quyền cấp thôn, xã; tổ chức khẩn hoang, đẩy mạnh sản xuất, mở mang trường lớp, tiến cử hiền tài, hết lòng chăm lo đời sống nhân dân. Được nhà Tây Sơn cấp lộc điền 500 mẫu ruộng tại Lai Nghi, Phú Chiêm (xã Điện Phương), khi về hưu cụ đã phân phát cho người dân địa phương canh tác. Lúc cụ mất, dân chúng khắp nơi đến viếng rất đông. Làng phải dựng “Xích hậu” (tức nhà khách) để dân chúng trọ lại trước khi vào viếng. Con đường từ “Xích hậu” đến nhà thờ tộc Trương hiện vẫn được dân chúng gọi là Ngõ Quan Thượng. Trong suốt cuộc đời của mình, Thượng thư Trương Công Hy đã có nhiều đóng góp vào việc chấn chỉnh tổ chức giáo dục khoa cử, biên soạn luật lệ, tiến cử người hiền tài… Năm 2005, Lăng mộ Thượng thư Trương Công Hy được Uỷ Ban Nhân Dân tỉnh công nhận là di tích văn hóa lịch sử cấp tỉnh và đến tháng 8 năm 2013, Bộ Văn Hóa - Thể Thao & Du Lịch đã có quyết định công nhận Di tích lịch sử và xếp hạng di tích quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.

Đà Nẵng 1776 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Đình Chiên Đàn

Đình Chiên Đàn là một trong những công trình kiến trúc đình làng cổ nhất Quảng Nam. Hiện đình tọa lạc tại thôn Đàn Trung, xã Tam Đàn, huyện Phú Ninh, cách quốc lộ 1A chưa đầy 1km. Theo tư liệu lịch sử, vùng đất Chiên Đàn xưa thuộc huyện Hà Đông, phủ Thăng Hoa. Để tưởng nhớ công ơn của các bậc tiền nhân, tiền hiền, hậu hiền đã có công khai sơn phá thạch lập nên địa hiệu Chiên Đàn; người dân trong làng, trong xã thời ấy đã cùng nhau xây dựng đình Chiên Đàn có quy mô bề thế và đặt tên "Chiên Đàn xã đình" Đình nằm trên một khu đất cao, bằng phẳng. Đình chính được xây dựng theo hình chữ nhất, mặt xoay về hướng đông nam, mái lợp ngói âm dương, hai đầu của mái trang trí hoa văn tinh xảo với hình tượng "Lưỡng long triều nguyệt", mái hiên đắp hai con kỳ lân. Toàn bộ khuôn viên của đình rộng 1.500m², riêng ngôi đình chính rộng 500m², có đủ chỗ cho trên 100 người. Đình gồm 5 gian, 2 chái với 30 cột bằng gỗ mít to hơn một vòng tay người lớn, 3 gian giữa dùng làm nơi thờ tự. Mặt chính là một hàng 6 cột phân cách ngôi đình theo bố cục ba gian hai chái. Phần xà ở phía trên ba gian (xuyên hông thượng nối liền liên kết hai bộ vì kèo) . Trong đình nhiều kèo, kiện được chạm trổ tinh xảo, uyển chuyển được các nghệ nhân làng mộc Văn Hà, xã Tam Thành, huyện Phú Ninh làm nên. Một cột gỗ được trùng tu. Từ khi xây dựng cho đến nay, đình đã trải qua nhiều lần tu sửa, gần đây nhất là vào các năm 1996, 2006 nhưng các yếu tố gốc của ngôi đình vẫn được bảo tồn tính nguyên vẹn của một công trình kiến trúc cổ. Theo truyền thuyết và lời kể của các cụ cao niên sống gần đình Chiên Đàn, khi vua Lê Thánh Tông đi chinh phạt, bình định phương nam, nhà vua đã sử dụng đình Chiên Đàn để nghỉ ngơi và đưa ra những quyết sách phù hợp để giành thắng lợi. Đình Chiên Đàn được xếp hạng Di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia (Quyết định số 39/2002/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thông Tin ngày 30.12.2002 của Bộ Văn hóa Thông tin).Hàng năm vào ngày 15/7 Âm lịch, người dân mở hội đình để tưởng nhớ công ơn cha ông. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Quảng Nam.

Đà Nẵng 1931 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Di tích lịch sử “Cuộc đấu tranh Hà Lam - Chợ Được”

Di tích nằm cách Chợ Được khoảng 300m và đối diện với trạm y tế xã Bình Triều. Cuộc đấu tranh Hà Lam - Chợ Được diễn ra từ ngày 4/9 đến ngày 7/9/1954 - là cuộc đấu tranh chính trị thể hiện tinh thần yêu chuộng hoà bình và công lý của nhân dân Thăng Bình nói riêng, Quảng Nam nói chung chống lại bọn Mỹ - Diệm ngang ngược, tàn bạo, âm mưu vi phạm Hiệp định Giơ-ne-vơ nhằm chia cắt lâu dài đất nước ta. Khởi đầu cuộc đấu tranh diễn ra tại cầu Bàu Bàng chỉ có mấy chục người tham gia nhưng sau đó đã nhanh chóng đẩy lên thành cao trào với hàng ngàn người tham gia đấu tranh tại Chợ Được. Cuộc đấu tranh này đã làm 43 người chết và 23 người bị thương. Tuy nhiên cuộc đấu tranh đã thể hiện tinh thần yêu nước cao cả, ý chí quật cường, không ngại hy sinh của nhân dân, kiên quyết đấu tranh đòi bọn địch phải tuân thủ thực hiện Hiệp định Giơ-ne-vơ; quyết bảo vệ được nền độc lập, tự do và dân chủ của đất nước…; buộc địch phải chùn bước, phải chấp nhận các yêu sách của Nhân dân đặt ra. Để ghi lại tội ác của Mỹ-Diệm và tưởng nhớ đến những người đã ngã xuống, đài tưởng niệm có diện tích 8.988m2­, có tường rào cổng ngõ bao quanh khá kiên cố, tọa lạc tại thôn 3, xã Bình Triều, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam. Phần tượng đài được xây dựng hình khối cao khoảng 5m, thể hiện ba người đứng tựa lưng vào nhau, bao gồm: một cụ già cầm chắc cây gậy trên tay, một cô gái đang cầm nón lá và một thanh niên đang bồng một em bé bất động trên tay. Phía sau tượng đài là hai bức phù điêu bằng xi măng đắp nổi, mô tả quá trình đấu tranh của nhân dân Hà Lam - Chợ Được trong cuộc đấu tranh ngày 04 tháng 9 năm 1954. Giữa hai bức phù điêu là bệ thờ, phía trong bệ thờ có dòng chữ “Tổ quốc ghi công”. Di tích lịch sử “Cuộc đấu tranh Hà Lam - Chợ Được” được Uỷ Ban Nhân Dân tỉnh Quảng Nam công nhận theo quyết định số 4267/Quyết Định -Uỷ Ban Nhân Dân, ngày 21/11/2005. Năm 2014 được Bộ Văn Hóa -Thể Thao &Du Lịch chính thức xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam.

Đà Nẵng 1942 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Địa điểm chiến thắng Bồ Bồ.

Cứ điểm Bồ Bồ nằm ở vùng núi Đất Sơn, thuộc xã Điện Tiến, huyện Điện Bàn là một vùng đồi thấp rộng khoảng 215 héc ta, có độ cao 55 mét. Núi Đất Sơn có 5 điểm cao là Sùng Công, Giồng Ngang, Giồng Lạc, Bồ Bồ và Đất Ký. Đây là địa bàn chiến lược, khống chế cả một vùng từ Tây Điện Bàn đến Hòa Vang và một phần phía Đông huyện Đại Lộc. Vì vậy, sau khi đưa quân trở lại chiếm đóng nước ta, quân Pháp đưa một đại đội đến chiếm đóng Bồ Bồ và biến nơi đây thành cứ điểm vững chắc nằm trong hệ thống phòng thủ từ xa bảo vệ căn cứ Đà Nẵng. Trong chiến cuộc Đông - Xuân 1953-1954, trước sự tấn công dồn dập cả quân sự, chính trị binh vận của quân và dân Quảng Nam - Đà Nẵng, địch hoàn toàn rơi vào thế cô lập. Nhiều đồn bót của địch chỉ cách Đà Nẵng vài chục cây số về phía nam phải tiếp tế bằng máy bay, bộ máy ngụy quyền tan rã ở nhiều nơi. Để cứu vãn tình hình, Bộ Chỉ huy quân viễn chinh Pháp tại miền Trung đã điều động một lực lượng cơ động từ chiến trường Tây Nguyên quay về Đà Nẵng. Chúng tập trung bốn đại đội khinh binh, ba đại đội thủy quân cơ giới, ba đại đội công binh với hơn 800 tên, 110 xe cơ giới, 10 ca nông và nhiều trọng đại liên mở cuộc hành quân “Con Báo” phá vùng du kích Điện Bàn, chiếm lại cứ điểm Bồ Bồ nhằm giải tỏa, tiếp tế cho quân địch ở Ái Nghĩa, Phong Thử trên đường 100, củng cố tuyến phòng thủ nam bắc sông Cẩm Lệ, bảo vệ Đà Nẵng. Trước đó, ngày 9-6-1954, các đơn vị bộ đội địa phương Điện Bàn đã mở cuộc tập kích lần thứ nhất vào cứ điểm Bồ Bồ, tiêu diệt toàn bộ bọn địch ở đây thu được 1 khẩu pháo 57 ly. Căn cứ tình hình thực tế trên chiến trường, Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng quyết định lợi dụng yếu tố bất ngờ, dùng chiến thuật tập kích đánh địch ngay khi chúng vừa đặt chân đến Bồ Bồ để diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, bẻ gãy cuộc hành quân của chúng, bảo vệ cơ sở, tài sản và tính mạng của nhân dân. Chấp hành chủ trương ấy công tác chuẩn bị được khẩn trương tiến hành. Nhân dân các xã Điện Hồng, Điện Tiến, Điện An, Điện Hòa tham gia đắp đường, hăng hái đi dân công phục vụ tiền tuyến. Khẩu hiệu hành động lúc này là “Tất cả cho chiến thắng”, ta đã huy động 500 dân công hỏa tuyến, 650 dân công thu chiến lợi phẩm. Ngoài ra, còn một số dân công khác cũng được bố trí cách trận địa 1.500 mét sẵn sàng chi viện cho chiến trường. Đúng 0 giờ 30 ngày 19-7-1954, ta bắt đầu khai hỏa nã đạn vào các điểm cao của địch ở cứ điểm Bồ Bồ. Hỏa lực vừa dứt thì các mũi tiến công của ta đồng loạt ào lên đánh chiếm các vị trí, chia cắt đội hình địch. Lúc đầu, địch hỗn loạn nhưng sau đó, chúng ổn định lại đội hình, chống trả điên cuồng. Cuộc chiến đấu diễn ra quyết liệt. Pháo địch từ Giồng Ngang và đồi Sùng Công bắn chặn đường tiến. Nhưng, các chiến sĩ của ta vẫn kiên trì bám sát trận địa, dũng cảm đánh chiếm sân bay, tràn vào khu trung tâm. Người trước ngã, người sau tiếp bước. Các chiến sĩ ngoan cường bám sát trận địa, lợi dụng địa hình địa vật đánh chiếm sân bay, diệt 4 xe địch. Ở Giồng Ngang, ta diệt thêm 3 xe. Khi ta tràn vào trung tâm, địch dùng xe tăng và trọng pháo chống cự quyết liệt. Ta bắn hỏng xích, nhảy lên xe dùng lựu đạn đánh vào tháp pháo tiêu diệt. Các mũi khác xung phong tràn vào chiếm lĩnh trận địa. Hết đạn, nhiều đồng chí dùng lưỡi lê đâm địch, vật lộn với kẻ thù. Trước tinh thần chiến đấu ngoan cường của ta, địch đành phải bỏ chạy. Nhân dân và du kích Điện Bàn vây chặt, không cho tên nào chạy thoát. Kết quả, ta đã diệt 159 tên địch, bắt sống 293 tên, thu 142 súng từ tiểu liên đến đại liên. Đây là trận đánh ta bắt được nhiều tù binh Âu Phi nhất trên chiến trường Quảng Nam - Đà Nẵng. Cuộc hành quân của địch nhằm chiếm lại cứ điểm Bồ Bồ đã bị thất bại hoàn toàn. Chiến thắng Bồ Bồ sáng 19-7-1954 thể hiện sự lãnh đạo đúng đắn, kịp thời của Tỉnh ủy, Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh, đồng thời thể hiện tinh thần liên tục tiến công tiêu diệt địch. Chiến thắng Bồ Bồ đã góp phần cùng cả nước kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, buộc chúng phải ký Hiệp định Giơ-ne-vơ về chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Đông Dương ngày 20-7-1954. Chiến thắng Bồ Bồ mãi mãi đi vào lịch sử như một “Điện Biên Phủ” trên chiến trường Quảng Nam trong kháng chiến chống Pháp. Tưởng nhớ đến những anh hùng, chiến sĩ cách mạng, đồng chí, đồng bào đã ngã xuống trong trận đánh Bồ Bồ, đúng vào lúc 19h ngày 19/7/2024, tại Tượng đài Chiến thắng Bồ Bồ, xã Điện Tiến, Thị ủy – Hội Đồng Nhân Dân – Uỷ Ban Nhân Dân – Uỷ Ban Mật Trận Tổ Quốc Việt Nam thị xã Điện Bàn long trọng tổ chức Lễ kỷ niệm 70 năm chiến thắng Bồ Bồ (19/7/1954 - 19/7/2024) và đón Bằng xếp hạng di tích lịch sử Quốc gia Di tích Địa điểm chiến thắng Bồ Bồ. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.

Đà Nẵng 2042 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Nhà lưu niệm cụ Huỳnh Thúc Kháng

Là di tích lịch sử - văn hoá cấp quốc gia, thuộc thôn 1, xã Tiên Cảnh, huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam, cách thành phố Tam Kỳ khoảng 35 km về phía tây. Cụ Huỳnh Thúc Kháng sinh năm 1876, quê làng Thạnh Bình - Tiên Phước, là một người thông minh học giỏi, một chí sĩ yêu nước. Đỗ Tiến sĩ năm 1904, đến năm 1908, cụ Huỳnh đứng đầu phong trào Duy Tân ở miền Trung, bị Pháp bắt đày đi Côn Đảo . Năm 1927 sau khi ra tù,cụ Huỳnh thành lập tờ báo Tiếng Dân nhằm tuyên truyền đấu tranh yêu nước. Sau khi cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công, cụ Huỳnh được Bác Hồ mời ra làm Bộ Trưởng Bộ Nội vụ rồi có thời gian giữ chức quyền Chủ tịch nước. Năm 1947, cụ Huỳnh mất tại Quảng Ngãi khi đi kinh lý Miền Trung. Nhà lưu niệm cụ Huỳnh Thúc Kháng là ngôi nhà cũ tọa lạc trong khu vườn rộng có diện tích gần 4.000m2 do thân sinh cụ Huỳnh Thúc Kháng xây dựng từ năm 1869, theo lối kiến trúc rất phổ biến dưới thời nhà Nguyễn. Ngôi nhà gồm 3 gian, mái ngói, khung sườn gỗ với những đường nét chạm trổ tinh xảo. Tổng thể kiến trúc bên trong mang đậm dấu ấn kiến trúc thời Nguyễn với các trính lượn cong, trên trính có các trỏng quả kê trên con đội chạm hình đầu lân. Một căn bếp được xây dựng kề với nhà trên và được nối bởi một cửa bên hông. Bên trái và bên phải nhà được ngăn nhô ra phía trước. Bên phải là phòng ăn chung cả gia đình. Phía trái có ngăn phòng lồi là nơi cụ Huỳnh Thúc Kháng làm việc. Gian giữa đặt bàn thờ tổ tiên, quanh bàn thờ có chạm khắc hoa văn cách điệu hình con dơi ngậm chuỗi vòng và một đôi rồng bằng gỗ mít. Chính giữa bàn thờ đặt mục chủ (đề tên các ông bà, thân nhân của cụ Huỳnh đã qua đời). Phía trước là mục thấp hơn, hiện thờ cụ Huỳnh Thúc Kháng. Hiện trong ngôi nhà vẫn còn bảo tồn được không gian làm việc khi xưa của cụ Huỳnh cùng những vật dụng sinh thời cụ Huỳnh hay dùng trong đó có cả chiếc áo cụ Huỳnh mặc khi tham gia chính phủ năm 1946….Nhà lưu niệm cụ Huỳnh Thúc Kháng đến nay đã được trùng tu tôn tạo nhiều lần, đây không chỉ là di tích cấp quốc gia, mà còn là một “địa chỉ đỏ” để thế hệ trẻ tìm về nhận diện truyền thống, tiếp nối chí hướng cha ông. Nguồn Cổng thông tin điện tử thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam.

Đà Nẵng 2167 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Mộ danh nhân Đỗ Đăng Tuyển

Ngày 12/3/2024, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch có Quyết định số 608/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thể Thao Du Lịch về việc xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia đối với mộ chí sĩ Đỗ Đăng Tuyển, xã Đại Cường, huyện Đại Lộc. Chí sĩ Đỗ Đăng Tuyển (1856- 1911) sinh ra và lớn lên ở làng Ô Gia, xã Đại Cường, huyện Đại Lộc. Ông từng giữ một chức quan nhỏ ở triều đình nhà Nguyễn. Khi thực dân Pháp xâm chiếm nước ta, ông từ quan về quê. Năm 1885, vua Hàm Nghi phát động phong trào Cần Vương, Đỗ Đăng Tuyển tham gia Nghĩa hội Quảng Nam- một phong trào hưởng ứng chiếu Cần Vương tại Quảng Nam. Ông được giao chức Tán tương quân vụ chuyên phụ trách vận động lương thực, tiền bạc cho các hoạt động của Nghĩa hội. Năm 1904, ông là một trong 5 thành viên tham gia sáng lập Duy Tân hội. Năm 1910, ông bị chính quyền tay sai và thực dân Pháp bắt giữ và đưa tới nhà lao Lao Bảo (Quảng Trị) giam cầm. Tại đây, ông đã tuyệt thực hơn 1 tuần và hy sinh vào ngày 02/5/1911. Ngày 27/4/2021, Huyện ủy Đại Lộc đã tổ chức Hội thảo khoa học "Cuộc đời và sự nghiệp của chí sĩ Đỗ Đăng Tuyển" nhân kỷ niệm 165 năm ngày sinh (14/5/1856 - 14/5/2021) và 110 năm ngày mất (2/5/1911 - 2/5/2021) của ông. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.

Đà Nẵng 2145 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Di tích Giếng Nhà Nhì 

Giếng Nhà Nhì thuộc thôn 5, xã Điện Ngọc, huyện Điện Bàn, cách thành phố Hội An 15km về phía bắc theo đường Hội An – Đà Nẵng, cách Thành phố Đà Nẵng 5 km về hướng Nam. Trong phong trào đồng khởi phá kèm ở Điện Bàn, Đội đặc công của tỉnh, được giao nhiệm vụ tổ chức thọc sâu về vùng cát Điện Nam - Điện Ngọc đánh thu hút địch, tạo điều kiện cho các xã vùng A, B của huyện nổi dậy phá kìm kẹp của địch, giành quyền làm chủ . Đội có 7 người, do đồng chí Hiền làm đội trưởng, Võ Như Hưng- đội phó và các đội viên gồm Đặng Thật, Nguyễn Rìu, Nguyễn Sỹ, Trần Thọ, Trần Đại Nghĩa cùng 3 cán bộ của huyện Điện Bàn là Võ Tiến (tức Thụ)-Thường vụ Huyện ủy, Lê Tựu và Đặng Bảo Chí. Trận đánh diễn ra trong sự chênh lệch quá lớn về lực lượng. Ta chỉ có 10 chiến sĩ, trang bị 8 tiểu liên, 2 súng ngắn, 2kg thuốc nổ TNT, và mỗi chiến sĩ được trang bị 150 viên đạn và một ít lựu đạn. Địch phát hiện và điều 1 đại đội biệt kích, 10 trung đội bảo an, dân vệ (khoảng 500 lính) được trang bị đầy đủ vũ khí và phương tiện thông tin liên lạc bao vây. Nhưng với tinh thần “Quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”, “lấy vũ khí địch đánh địch”, “mỗi viên đạn một quân thù” các chiến sĩ ta đã quần lộn đánh địch suốt chiều dài của vùng đất Điện Nam và Điện Ngọc, cuối cùng địch dồn lực lượng bao vây, đội phải trụ tại giếng cạn nhà bà Nhì (Điện Ngọc), hơn 4 tiếng đồng hồ đội đã đẩy lùi hàng chục đợt tấn công, tiêu diệt gần trăm tên địch. Ta tổn thất 4 đồng chí hi sinh, 1 bị thương. Sau trận đánh vẻ vang này, Đồng chí Lê Tấn Hiền (Viễn) được cử đi báo cáo thành tích tại quân Khu. Chiến công to lớn của đội công tác đã được Mật Trận Dân Tộc Giải Phóng Khu Trung Trung Bộ phong tặng danh hiệu Bảy dũng sĩ Điện Ngọc và tặng thưởng Huân chương Giải phóng hạng Nhất. Cách Di tích lịch sử cấp Quốc gia Giếng Nhà Nhì là Tượng đài các Dũng sĩ Điện Ngọc được xây dựng với quy mô uy nghi tượng trưng cho khí thế cách mạng, sự chiến đấu ngoan cường của các dũng sĩ Điện Ngọc. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.

Đà Nẵng 1969 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Mộ chí sĩ Trần Quý Cáp

Trần Quý Cáp (1870 - 1908), tự Dã Hàng, Thích Phu, hiệu là Thái Xuyên. Ông sinh ra và lớn lên trong một gia đình nông dân nghèo ở thôn Thai La, làng Bất Nhị, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Trần Quý Cáp là một trong ba nhân vật kiệt xuất của phong trào Duy Tân. Ông không chỉ là một nhà lãnh đạo cách mạng lỗi lạc mà còn là một nhà thơ có tài. Thơ văn của ông mang hơi thở của thời đại, là tiếng nói chân thành của một trái tim nồng nàn yêu nước, thể hiện tư tưởng tình cảm của tầng lớp nho sĩ tiến bộ những năm đầu thế kỷ XX. Ông tham gia phong trào Duy Tân chống Pháp, sau đó bị bắt giam vào năm 1908, dù không tìm ra chứng cứ nhưng thực dân Pháp vẫn xử chém ngang lưng mà người đời gọi đó là bản án Mạc tu hữu. Hiện nay vẫn còn đền thờ ông ở thị trấn Diên Khánh, huyện Diên Khánh, Khánh Hòa. Gia đình đã đưa di cốt Chí sĩ Trần Quý Cáp cải táng tại quê nhà tại nghĩa trang Gò Bướm, làng Bất Nhị, xã Điện Phước, huyện Điện Bàn vào năm 1925. Đến năm 1938, nhân dân đã quyên góp xây dựng lại lăng mộ khá khang trang. Trải qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, mặc dù chiến tranh tàn phá gây hư hỏng nặng nề, nhưng con cháu cùng gia tộc vẫn chăm lo gìn giữ lăng mộ. Năm 1994, Lăng mộ Chí sĩ Trần Quý Cáp được huyện Điện Bàn và gia đình, gia tộc Trần Văn làng Bất Nhị xây dựng lại theo kiến trúc lăng mộ cũ ở Khánh Hòa. Năm 2000, Lăng mộ Chí sĩ Trần Quý Cáp được công nhận là di tích văn hóa lịch sử cấp quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.

Đà Nẵng 1908 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Lăng mộ Chí sĩ Hoàng Diệu.

Lăng mộ Tổng đốc Hoàng Diệu tọa lạc tại thôn Xuân Đài, xã Điện Quang, huyện Điện Bàn. Được Bộ Văn hóa-Thông tin công nhận là Di tích lịch sử cấp Quốc gia năm 1994. Chí sĩ Hoàng Diệu (1829- 1882) xuất thân trong một gia đình nho giáo tại làng Xuân Đài - xã Điện Quang - huyện Điện Bàn (nay là thị xã Điện Bàn). Ông là vị danh tướng nổi tiếng học rộng, tài cao (19 tuổi đỗ cử nhân, 24 tuổi đỗ phó bảng) và là người thanh liêm, chính trực, thương dân. Ngày 25 tháng 4 năm 1882 thực dân Pháp tấn công thành Hà Nội, trong một trận đấu không cân sức, ông thắt cổ tự vẫn chứ không chịu giao nộp thành. Lúc đó, ông đang giữ cương vị tổng đốc Hà - Ninh. Cái chết oanh liệt của ông là một tấm gương anh hùng trung liệt, cổ vũ cho các tầng lớp chí sĩ và nhân dân cả nước đứng lên đấu tranh giành độc lập. Mộ ông được cải táng về quê nhà và được trùng tu tôn tạo 2 lần vào năm 1982 và năm 1998. Khuôn viên rộng rãi, thoáng mát, được con cháu trông nom, chăm sóc. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.

Đà Nẵng 2307 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

 Bàn Than - Hòn Mang - Hòn Dứa

Dải núi Bàn Than, đảo Hòn Mang, Hòn Dứa là các di chỉ đá biến chất thuộc phức hệ Khâm Đức - Núi Vú. Địa chất ở đây có độ tuổi đến 400 triệu năm, được đẩy nhô lên khỏi mặt nước biển qua một đợt kiến tạo địa chất. Các phiến đá sẫm màu đen tuyền, hình dáng như những tác phẩm nghệ thuật đặc sắc. Ngoài ra, Bàn Than - Hòn Mang - Hòn Dứa còn có các bãi biển dài trong xanh, hoang sơ và mảnh đất Thuận An với nhiều nét văn hóa độc đáo của miền biển. Khu vực Tam Hải nói chung, Bàn Than - Hòn Mang - Hòn Dứa nói riêng là điểm đến với nhiều tiềm năng về du lịch của Núi Thành. Phong cảnh kỳ vĩ, đẹp đẽ do thiên nhiên tạo tác thực sự hấp dẫn cho những ai đến với danh lam thắng cảnh này. Năm 2017, Bàn Than - Hòn Mang - Hòn Dứa được Uỷ Ban Nhân Dân tỉnh xếp hạng di tích cấp tỉnh. Thời gian qua, chính quyền và nhân dân dành nhiều sự quan tâm để bảo vệ, khai thác hiệu quả di sản. Trước đó, năm 2003, xã Tam Hải phối hợp Trung tâm Bảo tồn sinh vật biển vận động nhân dân tìm hiểu giá trị rạn san hô, làm sạch biển; chấp hành pháp luật trong khai thác, đánh bắt thủy sản. Đồng thời thực hiện dự án bảo tồn và sử dụng bền vững hệ sinh thái rạn san hô Tam Hải; triển khai nhiều hoạt động quảng bá danh thắng Bàn Than - Hòn Mang - Hòn Dứa. Ngày 24/02/2023, Bộ Văn Hóa Thể Thao Du Lịch có Quyết định số 393 công nhận Bàn Than - Hòn Mang - Hòn Dứa là di tích quốc gia. Nguồn Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch.

Đà Nẵng 2137 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Khu di tích lịch sử Trung Trung Bộ -Nước Oa

Nước Oa là một địa danh nằm dưới chân núi Hòn Bà hùng vĩ, thuộc địa phận xã Trà Tân, huyện Trà My (nay là huyện Bắc Trà My). Đây là vùng rừng núi rậm rạp; ở phía trước, hai con sông Trường và sông Nước Oa tạo nên triền đất bãi bồi quanh co kéo dài và liên kết các thung lũng lớn nhỏ, cao thấp bên trong, tạo thuận lợi cho việc tiến thoái, ẩn trú, cất giấu vũ khí, xuất quân, ém quân và di chuyển, khai thác nguồn lương thực, thực phẩm, thuốc men tại chỗ để tồn tại lúc ngặt nghèo nên nơi đây đã được Khu uỷ khu 5 lựa chọn là căn cứ địa cách mạng trong những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Chính tại Khu căn cứ này, Khu uỷ và Bộ Tư lệnh Quân khu 5 đã cùng nhau vạch ra đường lối chiến lược cụ thể để chỉ đạo quân dân khu 5 đánh Mỹ. Nơi đây đã từng diễn ra các Hội nghị, Đại hội quan trọng, là địa điểm tập huấn cho các cán bộ Trung đoàn, Sư đoàn, cán bộ các tỉnh trong toàn Khu về học tập Nghị quyết của Đảng... góp phần cùng cách mạng miền Nam giành thắng lợi trong việc ký kết Hiệp Định Paris năm 1973, tiến tới giành giải phóng miền Nam. Với những giá trị lịch sử đó, ngày 04/8/1992, Bộ Văn hóa – Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) đã công nhận Khu di tích Nước Oa là di tích cấp quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Quảng Nam.

Đà Nẵng 2034 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Tháp Bằng An

Tháp Bằng An thuộc xã Điện An, huyện Điện Bàn,nằm sát đường 609 (nối Vĩnh Điện với Ái Nghĩa) là còn tương đối nguyên vẹn.Theo các nhà nghiên cứu, thì tháp Bằng An được xây dựng vào khoảng thế kỷ thứ X, có kiến trúc độc đáo, hoàn toàn không giống bất cứ ngôi tháp nào, tồn tại ngày hôm nay trên cả nước. Nhìn tổng thể, Tháp Bằng An mang hình linga (dương vật), nằm giữa không gian rộng thoáng. Linga biểu tượng của thần Siva, nơi đây dùng làm nơi thờ cúng và tế lễ của người Chăm. Tháp được xây theo hình bát giác, mỗi cạnh dài 4m, cao 21mét 5. Bên trong thờ một Linga bằng đá (hiện nay chỉ còn bệ thờ). Phía trước tháp hiện còn hai con vật bằng đá: Sư tử và voi. Theo các nhà nghiên cứu văn hoá Chăm, Tháp Bằng An là một di tích có giá trị cao về mặt kiến trúc, liên quan đến tôn giáo, tín ngưỡng của người Chăm. Do đó năm 1989, Tháp Bằng An được Bộ Văn hoá công nhận là di tích cấp quốc gia. Vào năm 1943, do chiến tranh tàn phá, Tháp bị hư hại phần tiền sảnh, các kỹ sư người Pháp đã tiến hành trùng tu. Nhưng tiếc thay không nắm vững kỹ thuật, người Pháp đã xây gạch bằng xi măng (mạch hồ rộng), do đó đã phá vỡ kiến trúc độc đáo của người Chăm (giữa các viên gạch xây không có mạch hồ). Với một kiến trúc độc đáo, lại nằm vị trí thuận lợi và đẹp, Tháp Bằng An là địa chỉ lý tưởng cho du khách tham quan trong và ngoài nước. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.

Đà Nẵng 1986 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Di tích khu căn cứ Phước Trà (1973-1975)

Phước Trà hiện nay là một xã thuộc huyện Hiệp Đức, tỉnh Quảng Nam. Trong Kháng chiến chống Mỹ , nơi đây đã từng được chọn đặt căn cứ của Khu ủy 5 từ năm 1973 đến 1975. Để sự chỉ đạo được kịp thời nhằm đối phó lại âm mưu và thủ đoạn của địch sau Hiệp định Paris (27-1-1973), Khu ủy và Bộ Tư lệnh Khu 5 quyết định dời căn cứ từ Nước Oa (Trà My) về Phước Trà(Hiệp Đức). Phước Trà cách thị trấn Tân An khoảng 15km về phía tây, cách tỉnh lộ 612 khoảng 4km về phía nam, từ đây tỏa về vùng đồng bằng có nhiều đường thuận tiện và nhanh chóng cả thủy lẫn bộ. Đây là khu căn cứ lớn, gồm một hội trường, nơi làm việc của các đồng chí lãnh đạo và các cơ quan chuyên môn. Tại đây cũng đã diễn ra Đại hội lần thứ 3 của Ban Chấp hành Đảng bộ Khu 5 và nhiều cuộc hội nghị của Khu ủy và Bộ Tư lệnh khu đề ra kế hoạch Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975, theo tinh thần của Nghị quyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam tháng 1-1975 giải phóng miền Nam. Tại đây, Bảo tàng tỉnh Quảng Nam đã sưu tập và trưng bày một số hiện vật, hình ảnh hoạt động ở khu căn cứ này trong thời kỳ 1973-1975. Khu căn cứ Phước Trà đã được Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận là di tích lịch sử- văn hóa cấp quốc gia (Quyết định số 281/ Quyết Định -Bộ Trưởng ngày 24-3-1993) Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Quảng Nam.

Đà Nẵng 1870 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Di tích địa đạo Kỳ Anh thời chống Mỹ

Kỳ Anh (thuộc xã Tam Thăng) là vùng cát nằm bên ngoài tỉnh lỵ Quảng Tín - cơ quan đầu não của ngụy quyền đóng tại thị xã Tam Kỳ - chỉ cách 4-5km theo đường chim bay. Phía bắc là căn cứ Tuần Dưỡng (Thăng Bình), phía nam là căn cứ An Hà. Trong tình thế bị bao vây, địa hình chiến đấu không thuận lợi, các lực lượng vũ trang cách mạng không có nơi ẩn náu an toàn. Từ thực tế đó, Đảng bộ xã Tam Thăng đã chọn phương án xây dựng một hệ thống địa đạo ngầm liên hoàn bên dưới lòng đất. Kế hoạch được bắt đầu triển khai từ tháng 5-1965 đến cuối năm 1967 thì hoàn thành về cơ bản ở 9 thôn, mỗi thôn trung bình có 2km địa đạo, trong đó có chỗ hội họp, hầm chỉ huy, kho dự trữ lương thực, trạm cứu thương… Khác với địa đạo Vĩnh Mốc (Vĩnh Linh) hay Củ Chi (Sài Gòn), địa đạo Kỳ Anh được đào ở vùng cát, do đó phải đào xuyên xuống tầng đất cứng (hoặc đất sét, hay đất kết von như đá ong) mới khỏi sụp lở, nghĩa là phải có bề dày trên 2m. Khó nhất là những đoạn xuyên qua suối, hồ nước, nhà dân. Nơi bố trí miệng hầm bí mật, ngoài sự kín đáo, bất ngờ còn phải có những người bám trụ hợp pháp để bảo vệ cảnh giới địch. Các mẹ có công lớn trong việc này như: Phạm Thị Tống, Lê Thị Khương, Châu Thị Thảo, Trần Thị Ngàn, Nguyễn Thị Túc, Phạm Thị Lời, Hồ Thị Hiến…Địa đạo Kỳ Anh ra đời đã tạo lợi thế lớn cho phong trào chiến tranh du kích, góp phần cùng lực lượng vũ trang bao vây tấn công địch nhiều trận, mang lại hiệu quả cao, đồng thời làm hậu thuẫn cho các cuộc đấu tranh chính trị. Từ khi hình thành đến kết thúc chiến tranh (1965-1975), quân và dân Kỳ Anh đã đánh địch 1.052 trận, loại khỏi vòng chiến đấu 3.751 tên địch, trong đó có 55 tên Mỹ. Địa đạo Kỳ Anh đã được Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận là di tích lịch sử- văn hóa cấp quốc gia (Quyết định số 985- Quyết Định /Văn Hóa ngày 27-5-1997) Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Quảng Nam .

Đà Nẵng 2145 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Mộ cụ Đỗ Thúc Tịnh

Nằm cách trung tâm Đà Nẵng khoảng 20km về phía tây nam, trên trục quốc lộ 14B, có một ngôi làng mang tên La Châu. Nơi đây là quê hương của vị khoa bảng nổi tiếng thời Tự Đức, tiến sĩ Đỗ Thúc Tịnh. Mộ Đỗ Thúc Tịnh hiện tọa lạc tại thôn Hương Lam, xã Hòa Khương, huyện Hòa Vang. Đỗ Thúc Tịnh là một vị tiến sỹ đầu tiên và duy nhất của huyện Hoà Vang thời Phong kiến, một vị quan yêu nước, một nhà nho mẫu mực, một danh nhân xứ Quảng. Khi ông mất, Vua Tự Đức đã truy phong ông là: "VĂN VÕ TOÀN TÀI ĐẠI TƯỚNG CÔNG”. Thân thế và sự nghiệp của ông được Quốc Sử Quán triều Nguyễn ghi chép trong các bộ sách Đại Nam Thực Lục Chính Biên và Đại Nam Liệt Truyện Chính Biên phần Chư Thần Liệt Truyện. Đỗ Thúc Tịnh, có sách viết là Tĩnh, tự Cấn Trai, người làng La Châu, nay thuộc xã Hòa Khương, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng, sinh ngày 20-2-1818. Thông minh hiếu học từ nhỏ, đỗ cử nhân khoa Bính Ngọ (1846), năm 1848, thi Hội trúng đệ tam giáp đồng tiến sĩ. Được bổ Tri phủ Thiệu Hóa (Thanh Hóa), nhưng chỉ một thời gian ngắn, ông xin về quê cư tang mẹ, ba năm sau mới ra làm việc trở lại. Năm 1853, được bổ Tri phủ Diên Khánh (Khánh Hòa). Chính lúc này ông mới có dịp thi thố sở học và bộc lộ phẩm cách của một vị quan thanh liêm, giàu lòng yêu nước, yêu dân. Ngoài nho học, ông còn tinh thông về nghề thuốc, địa lý và kinh dịch. Đất Diên Khánh vốn khô cằn, dân đói khổ, lại thêm nan cọp quấy hại. Khi ông về nhận chức, đã tổ chức lại đời sống và sản xuất, bày kế bẫy cọp, sửa sang đường sá, cấp công cụ, trâu bò, mở rộng khai hoang, mộ dân lập ấp. Dân Diên Khánh được hưởng ân đức ấy, đương thời người ta gọi ông là “Đỗ phụ” (người cha họ Đỗ). Năm 1854, có chỉ triệu ông về kinh làm Giám sát ngự sử, nhưng vì dân làm đơn xin lưu lại, nên nhà vua đổi ông sang hàm Thự Thị độc, cho giữ chức vụ cũ. Chưa bao lâu sau, lại có chiếu bổ ông làm Viên ngoại lang bộ Binh, nhưng lần này quan tỉnh thấy việc mộ dân lập ấp đã sắp xong, xin cho lưu lại làm nốt. Vua lại dụ rằng: "Thúc Tĩnh là người thanh liêm cần cán vào hạng nhất trong hàng phủ huyện, cho thực thụ Thị độc (song) vẫn lưu lại đấy làm việc để khuyến khích cho những viên quan tốt" . Việc xong, quan tỉnh tâu lên, ông được thăng chức Hồng lô tự khanh. Sau đó, ông lần lượt trải các chức: Án sát Khánh Hòa, Bố chính Khánh Hòa, rồi Biện lý bộ Binh. Tháng 8 năm 1858, tàu Pháp nã đại bác đánh phá Đà Nẵng. Gặp sự cản ngăn quyết liệt của quân đội Việt, quân Pháp bèn tiến vào Nam, và đánh hạ thành Gia Định vào tháng 2 năm 1859. Căm tức, Đỗ Thúc Tĩnh liền dâng sớ xin vào nơi đấy để đánh đuổi quân xâm lược. Vua khen là người trung nghĩa, khẳng khái, cho sung làm Khâm sai. Lại cấp cho ông 30 lạng bạc và ngựa trạm để đến hai tỉnh là Vĩnh Long và Hà Tiên, tuyên chỉ dụ cho sĩ dân, đồng thời chiêu mộ nghĩa dũng; sau đó, sẽ hợp lực cùng Tổng đốc Trương Văn Uyển và Tuần phủ Phan Khắc Thận bàn bạc việc quân. Thấy ông làm được một số việc, vua Tự Đức chuẩn cho ông làm Tuần phủ Định Tường. Ở đây, ông xin cho triệu tập binh sĩ, tích trữ lương thực, chọn chỗ hiễm để lập đồn. Lại xin thuê những người nước ngoài (như người nhà Thanh) ở Gia Định để làm nội ứng mặt thủy và mặt bộ. Vua xem sớ rồi dụ rằng: “Thúc Tĩnh xem xét tình hình, trù nghĩ phương lược...Tuy còn đương lắng chờ cơ hội, chưa thể vội và đem dùng, nhưng vì nước làm việc như vậy là có lòng trung thành, (biết) mưu tính sâu xa. Thương tình nhà ngươi vất vả, cho thăng Lại bộ Thị lang, (song) vẫn lĩnh chức cũ" Giữa lúc đang cáng đáng trách nhiệm nặng nề, thì chẳng may ông bị bạo bệnh, mất tại quân thứ Vĩnh Long ngày 26 tháng giêng Nhâm Tuất (21-2-1862). Ông được vua Tự Đức truy tặng Tuần vũ Định Tường và phái đại diện đến tận nhà thay mặt vua phúng điếu. Thi hài ông được đưa về an tán tại làng Hương Lam, bên cạnh làng La châu, huyện Hòa Vang. Năm 2007 mộ cụ Đỗ Thúc Tịnh được xếp hạng Di tích lịch sử cấp Quốc gia theo quyết định số 45/2007/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thông Tinh của Bộ trưởng Văn Hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch). Nguồn Cổng thông tin điện tử thành phố Đà Nẵng.

Đà Nẵng 2000 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Nhà thờ Tiền hiền làng An Hải và Thoại Ngọc Hầu

Nhà thờ Tiền hiền làng An Hải và Thoại Ngọc Hầu (phường An Hải Tây, quận Sơn Trà) được biết đến không chỉ là ngôi nhà thờ của một làng rộng lớn, có lịch sử lâu đời trên đất Đà Nẵng, mà đây còn là nơi tế tự một nhân vật lịch sử nổi tiếng của quê hương An Hải. Đó là Thoại Ngọc Hầu - Nguyễn Văn Thoại, một danh tướng lừng lẫy trong Nam ngoài Bắc, được dân Châu Đốc, An Giang tôn kính như một vị thần. Ông quê làng Bắc Mỹ An, huyện Diên Phước, trấn Quảng Nam, nay là phường Bắc Mỹ An, quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng. Tên thật là Nguyễn Văn Thụy, do kỵ húy mà đổi là Thoại. Thời niên thiếu, Nguyễn Văn Thoại cùng gia đình di cư vào Nam đời chúa Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765), sống tại làng Thới Bình, trên cù lao Dài, nay thuộc huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long. Năm 16 tuổi (1777), đầu quân theo Nguyễn Ánh sang Bangkok (Thái Lan), về nước dẫn quân đi đánh Tây Sơn, làm Khâm sai cai cơ, rồi Khâm sai thống binh cai cơ, được phong tước Hầu (nên về sau thường gọi là Thoại Ngọc Hầu). Năm 1789, làm Phó quản doanh được thăng Khâm sai thượng đạo bình Tây tướng quân. Năm 1799, được cử đi công cán ở Viên Chăn (Lào). Sau khi Nguyễn Ánh lên ngôi vua (1802), ông được thăng Khâm sai thống binh cai cơ trông coi việc ở Bắc Thành, rồi lãnh Trấn thủ Lạng Sơn. Được điều đi làm Trấn thủ Định Tường, rồi được cử làm Thống quân biền binh bảo hộ Cao Miên. Năm 1818, được bổ làm Trấn thủ Vĩnh Thanh (nay là Long Xuyên - Cần Thơ). Tại đây, ông cùng quan quân sở tại thiết kế và điều hành dân binh đào kênh Đông Xuyên (ở Long Xuyên). Kênh này sau khi hoàn thành được đặt tên là Thoại Hà. Năm Minh Mạng thứ nhất (1820), ông điều khiển 80.000 nhân công làm việc trong 5 năm liền (1820-1824) để đào con kênh nối Châu Đốc với Hà Tiên, dẫn nước ra biển phía Tây. Đây là công trình lớn do ông thiết kế và chỉ huy thành công, đã mang lại kết quả to lớn trong công cuộc khai phá miền Hậu Giang. Nguyễn Văn Thoại còn có công mộ dân khẩn hoang ở vùng An Hải, Châu Đốc, biến vùng đất hoang vu nơi biên giới thành trù phú, dân cư ngày một đông đúc, an vui. Nguyễn Văn Thoại là một nhân vật tài kiếm văn võ, một nhà hoạt động chính trị ngoại giao xuất sắc, (hai lần được cử làm Bảo hộ Cao Miên), khi sang Viên Chăn, lúc được cử ra giải quyết vấn đề biên giới phía Bắc (Lạng Sơn), khi về trấn ngự biên giới Tây Nam. Ông còn là doanh điền, một nhà hoạt động kinh tế có tầm nhìn chiến lược và có đầu óc tổ chức giỏi. Ông mất ngày mồng 6 tháng 6 năm Kỷ Sửu tại nhiệm sở Châu Đốc, thi hài được an táng bên chân núi Thoại Sơn. Tưởng nhớ công lao và sự nghiệp của ông, nhân dân lập lăng thờ. Lăng Thoại Ngọc Hầu được Bộ Văn hóa – Thông tin công nhận là di tích văn hóa - lịch sử cấp quốc gia. Tại phường An Hải, quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng, đền thờ Thoại Ngọc Hầu được xây dựng rất khang trang. Nhà thờ Tiền hiền làng An Hải và Thoại Ngọc Hầu (phường An Hải Tây, quận Sơn Trà) được biết đến không chỉ là ngôi nhà thờ của một làng rộng lớn, có lịch sử lâu đời trên đất Đà Nẵng, mà đây còn là nơi tế tự một nhân vật lịch sử nổi tiếng của quê hương An Hải. Đó là Thoại Ngọc Hầu - Nguyễn Văn Thoại, một danh tướng lừng lẫy trong Nam ngoài Bắc, được dân Châu Đốc, An Giang tôn kính như một vị thần. Nhà thờ Tiền hiền làng An Hải và Thoại Ngọc Hầu được xếp hạng di tích cấp quốc gia vào năm 2007. Bia ghi công nghiệp của Thoại Ngọc Hầu cao 2m, rộng 1,2m bằng đá trắng, mặt quay về hướng tây. Tượng bán thân của Thoại Ngọc Hầu cao 1,2 mét nặng gần 1 tấn, quay về hướng đông, thẳng hướng với bia ghi công bên phải. Phần chính điện và hậu tẩm của nhà thờ rộng khoảng 160m2, được thiết kế, tôn tạo theo lối đình cổ. Bàn thờ Thoại Ngọc Hầu nằm ở trung tâm chính điện có tượng và bài vị. Nguồn Cổng thông tin điện tử thành phố Đà Nẵng

Đà Nẵng 1970 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Điểm di tích nổi bật