Khám phá lịch sử, văn hóa, con người và cảnh đẹp Việt Nam trên ứng dụng du lịch Travelviet
Tải ứng dụng Travelviet
Đắk Lắk 678 lượt xem
Nhắc đến Buôn Đôn xưa, người ta vẫn còn lưu truyền những câu chuyện về vị tù trưởng N’Thu K’Nul với nghệ thuật săn voi điêu luyện, đã săn được hàng trăm con voi. Ông đã đem tặng Hoàng gia Thái Lan bấy giờ một con voi màu trắng do mình săn được. Vua Thái cảm phục tài năng của ông nên đã phong tặng danh hiệu Khunjunop (có nghĩa là vua săn voi). Buôn Đôn ngày nay có đầy đủ các điều kiện thuận lợi để phát triển về du lịch sinh thái. Đến với khu du lịch này, du khách sẽ được hòa mình vào thiên nhiên với những trải nghiệm rất thú vị. Từ trung tâm huyện đi vào bạn sẽ bắt gặp những chiếc cầu treo vắt ngang dòng sông Sêrêpôk, chiêm ngưỡng vẻ đẹp hùng vĩ của thác nước 7 nhánh và những ngôi nhà dài hàng trăm mét của đồng bào vùng Tây Nguyên. Nếu là người yêu thích sự khám phá, trải nghiệm hoạt động cưỡi voi tham quan cuộc sống thường nhật của người dân trong buôn làng hoặc cưỡi voi vượt sông Sêrêpôk khám phá Vườn quốc gia Yok Đôn sẽ khiên bạn cảm thấy thích thú. Ngoài ra, bạn cũng có thể ngồi thuyền độc mộc để câu cá, ngắm sen hồ Lăk hay xuôi dòng Sêrêpôk huyền thoại để khám phá ốc đảo Ea Nô. Hay tham gia vào các trò chơi dân gian như đi cà kheo, bịt mắt đập niêu đất,… Còn nếu là người yêu thích tìm hiểu lịch sử, văn hóa thì hoạt động tham quan các nhà trưng bày sẽ giúp bạn hiểu hơn về đời sống văn hóa, phong tục tập quán, lối sinh hoạt thường ngày của nhiều dân tộc Tây nguyên. Tại đây, bạn sẽ được nghe thuyết minh về lịch sử của Buôn Đôn, những câu chuyện về vị vua săn voi Khunjunop với kỹ thuật săn bắt voi điêu nghệ. Bên cạnh đó, bạn còn được thưởng thức các đặc sản nơi đây như rượu cần, cơm lam, canh chua cá sông,… cũng như tham gia giao lưu văn hóa cồng chiêng với người dân trong buôn làng. Không gian núi rừng hùng vĩ với nền văn hóa mang đậm bản sắc vùng đại ngàn Tây Nguyên chắc chắn sẽ để lại những ấn tượng khó phai trong lòng du khách khi đặt chân đến vùng đất này.
Đắk Lắk 3404 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Với địa hình được chia làm nhiều sườn dốc, Vườn quốc gia Chư Yang Sin là nơi du lịch dành cho những tín đồ yêu thích du lịch mạo hiểm. Nơi đây được đánh giá là một vùng đất bí ẩn với rất nhiều trải nghiệm thú vị, mang đến cho bạn một chuyến đi đáng nhớ trong chuyến hành trình du lịch tại thành phố Buôn Ma Thuột của mình. Tọa độ của Vườn quốc gia Chư Yang Sin nằm tại trên địa phận thành phố Buôn Ma Thuột, thuộc hai huyện Lăk và Krông Bông của tỉnh Đắk Lắk. Từ đây, mất khoảng 60km đi về hướng đông để đi đến thành phố Buôn Ma Thuột. Hiện nay, Chư Yang Sin đang là một địa điểm du lịch sinh thái được nhiều người yêu thích bởi tập trung nhiều sông suối lớn nhỏ, có nhiều cảnh quan ấn tượng. Vườn quốc gia Chư Yang Sin được biết đến với hệ sinh thái vô cùng đa dạng, bao gồm 9 kiểu rừng khác nhau, trải rộng hơn 589 km2 ở các xã Cư Drăm, Yang Mao, Hòa Phong, Hòa Sơn, Hòa Lễ, Khuê Ngọc Điền. Vì thế, tại đây có đến 487 loài động vật (203 loài chim và 46 loài thú) cùng với hàng ngàn loài thực vật khác nhau. Khi tham quan Vườn quốc gia Chư Yang Sin, đi dọc Vườn, bạn sẽ được ngắm nhìn hệ sinh thái đa dạng này. Lắng nghe tiếng lá cây xào xạc, âm thanh của những ngọn suối chảy róc rách hay tiếng chim muôn đang cất âm thanh hoan ca thì còn gì tuyệt vời hơn phải không nào? Trải nghiệm cắm trại trong rừng là một điều bạn nên thử tại đây. Mang theo thức ăn và lều trại, cùng bạn bè ngủ lại qua đêm sẽ là một trong những trải nghiệm đáng nhớ được nhiều du khách yêu thích trong hành trình tham quan và khám phá Chư Yang Sin. Tuy nhiên, cần lưu ý không tự ý đốt lửa trại trong rừng để đảm bảo an toàn bạn nhé. Khám phá Vườn quốc gia Chư Yang Sin, bạn cũng có thể đến thác Krông Kmar nằm sâu bên trong núi rừng và trải nghiệm tắm thác. Ngọn thác tuy không quá lớn và cao nhưng nước lại vô cùng trong, phiến đá bằng phẳng nên rất lý tưởng để bạn có thể thỏa thích đắm mình trong làn nước mát lạnh, xua tan cái mệt mỏi sau khi đi bộ một đoạn đường dài. Đã đến với Chư Yang Sin thì bạn không thể nào không dành thời gian để chinh phục đỉnh núi Chư Yang Sin đâu đấy nhé. Có thể nói, đây cũng là trải nghiệm được nhiều phượt thủ yêu thích nhất khi đến với khu Vườn quốc gia này. Núi Chư Yang Sin có độ cao lên đến 2500 mét so với mực nước biển và được xem như nóc nhà của Tây Nguyên. Vì thế, ngọn núi này đã trở thành một mục tiêu hấp dẫn đối với du khách đặt chân đến với Vườn quốc gia Chư Yang Sin. Để leo được đến đỉnh núi thì bạn cần phải có sức khỏe thật tốt bởi đường đi tương đối khó khăn. Tuy nhiên, bù lại với sự khó khăn này thì bạn sẽ thấy công sức của mình được bù đắp vô cùng xứng đáng bởi từ đỉnh núi, bạn có thể phóng tầm mắt và chiêm ngưỡng toàn cảnh rừng núi hoang sơ, hùng vĩ. Nếu bạn đã quá chán khung cảnh những tòa nhà cao chọc trời hay đường phố với xe cộ tấp nập thì khung cảnh nơi đây sẽ “bù đắp" tinh thần cho bạn rất nhiều đấy. Vì Vườn quốc gia Chư Yang Sin vẫn còn rất hoang sơ, chưa được khai thác du lịch nhiều nên bạn sẽ không thể tìm thấy các cửa hàng bán thức ăn ở trước cổng Vườn quốc gia hay dọc theo đường mòn vào trong rừng. Vì thế, kinh nghiệm cho bạn chính là nên chuẩn bị trước nước uống và một ít thức ăn để mang theo bạn nhé. Tuy nhiên, tốt nhất bạn cũng chỉ nên mang vừa đủ ăn. Việc mang quá nhiều đồ ăn sẽ khiến bạn dễ bị mệt do mang vác nhiều, từ đó ảnh hưởng đến những trải nghiệm của bạn trong quá trình di chuyển và khám phá Vườn quốc gia Chư Yang Sin. Ngoài ra, bạn cũng nên lưu ý dọn dẹp vệ sinh và mang rác ra ngoài để vứt, không để rác lại Chư Yang Sin để bảo vệ môi trường thiên nhiên nơi đây.
Đắk Lắk 3386 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Nói đến cao nguyên hùng vĩ của núi rừng Tây Nguyên, ắt hẳn cái tên Dak Lak là một cái tên thú vị không thể nào bỏ qua. Nơi đây được thiên nhiên ưu đãi cho nhiều cảnh quan đẹp, thú vị và hấp dẫn cái nhìn của du khách, hơn thế nữa là nó còn mang một nét đẹp văn hóa rất riêng. Một cảnh quan đẹp khi đến với Dak Lak mà có lẽ được nhiều du khách quan tâm đó là Thác Dray Sáp (thác Chồng) và thác Dray Nur ( thác Vợ). Hai thác nước hùng vĩ của tự nhiên, là đặc trưng cho cảnh quan tuyệt vời của cao nguyên lộng gió này. Một nơi tuyệt vời để tham quan, chụp hình và có những phút giây thư giãn. Thác Dray Sáp và thác Dray Nur là hai thác nước trên dòng sông Serepok. Thác Dray Sáp còn gọi là thác chồng và thác Dray Nur còn gọi là thác Vợ. Thác Dray Sáp tọa lạc tại xã Nam Hà, huyện Krong K nô, tỉnh Đắc Nông và thác Dray Nur cách thác Dray Sáp không xa, thuộc địa phận tỉnh Dak Lak. Hai thác nằm cách trung tâm thành phố Buôn Mê Thuật tầm 30 km. Thác Dray Sáp và thác Dray Nur là hai thác nước hùng vĩ mà thiên nhiên ban tặng cho núi rừng Tây Nguyên. Thác mang vẻ đẹp tự nhiên với dòng nước tuôn trào từng đợt, tạo thành khối như khói sương mờ ảo. Hai thác nước này còn mang trong mình một câu chuyện truyền thuyết thú vị mà ít người biết đến. Chuyện kể rằng, xưa kia ở dòng Serepok là một dòng sông hiền hòa, nước chảy êm đềm quanh buôn làng. Ở dòng chảy ấy, phía hai bên bờ có một cặp nam nữ yêu nhau, nhưng họ bị ngăn cách bởi dòng sông, rồi bị ngăn cấm bởi gia đình, họ đau khổ và cùng nhau nhảy xuống sông. CŨng thời gian đó, cơn thịnh nộ từ đâu, chia tách Serepok thành 2 nhánh riêng biệt. Nhánh sông đực tạo ra thác Dray Sáp, và nhánh sông Cái tạo ra thác Dray Nur. Hai thác nước này nước đều chảy mạnh, tuôn trào từng đợt, mạnh mẽ và dứt khoát. Nó là vẻ đẹp của thác nước tự nhiên, hùng vĩ nhưng đầy lôi cuốn và bí ẩn. Nó là một thắng cảnh đẹp tuyệt vời giữa chốn rừng thiêng. Thác Dray Sáp (thác Chồng) và thác Dray Nur (thác Vợ) là tạo hóa của tự nhiên, nó đẹp và đầy lôi cuốn. Nó là một bức tranh thiên nhiên hài hòa giữa sông, núi, hồ và những cánh rừng bạt ngàn. Hơn nữa, ẩn sâu bên trong là những câu chuyện thật thú vị, đáng để tìm hiểu. Bạn hãy thử trỉa nghiệm để có những cảm giác tuyệt vời tại nơi này nhé.
Đắk Lắk 3230 lượt xem
Tháng 11 đến tháng 4
Thác Gia Long nằm trong khu vực 3 ngọn thác nổi tiếng của vùng cao nguyên, toạ lạc tại điểm giao nhau giữa 2 xã Dray Sap, thuộc huyện Krông Ana, tỉnh Đắk Lắk với xã Đắk Sor, thuộc huyện Krông K'nô, tỉnh Đắk Nông. Nơi này cách trung tâm thành phố Buôn Ma Thuột hơn 30km và cách hồ thủy điện Buôn Kuốp tầm 2km. Nằm trong cụm 3 thác được công nhận là di sản văn hoá thắng cảnh quốc gia, thác Gia Long trở thành điểm đến hấp dẫn của du khách khi đến Đắk Lắk, trở thành niềm tự hào của người dân xứ núi, với một địa điểm vừa hoang sơ, hùng vĩ nhưng cũng rất đỗi thơ mộng. Rộng khoảng 100m và cao hơn 30 Gia Long là dòng thác nhỏ nhất trọng cụm thác Tây Nguyên, dòng thác được dội thẳng xuống quanh năm tung bọt trắng xóa. Dưới chân dòng thác là hồ nước trong veo, êm đềm, rải rác những ghềnh đá với nhiều hình dáng khác nhau, tựa như những ốc đảo hoang sơ giữa đại dương bao la. Được bao bọc bởi một cánh rừng nguyên sinh kỳ vĩ, tạo nên một nét đẹp hoang dại cho dòng thác. Theo truyền thuyết kể rằng đây từng là nơi được vua Gia Long trú ngự khi chạy trốn khỏi quân nhà Tây Sơn, và cũng là điểm thưởng ngoạn thường xuyên của ông. Với vẻ đẹp như tranh thuỷ mặc ông đã quyết định dùng tên mình để đặt tên cho dòng thác vùng Tây Nguyên này. Thành phố Buôn Ma Thuột mang khí hậu đặc trưng của vùng đất đỏ Tây Nguyên, thời tiết được chia làm hai mùa rõ rệt mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau, mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 10. Vào mỗi thời điểm dòng thác sẽ mang một vẻ đẹp riêng khi huyền bí, khi hùng vĩ. Mùa mưa là thời điểm lý tưởng để những tín đồ yêu thiên nhiên thưởng thức cái đẹp hùng vĩ của dòng thác, tuy nhiên lúc này dòng chảy khá lớn chỉ thích hợp ngắm cảnh, các hoạt động thể thao dưới nước sẽ rất dễ gặp nguy hiểm khi tham gia. Mùa khô tại thác Gia Long Đắk Lắk là lúc nước sông cạn, mọi thứ hơi “khô khan”, nhưng đây là khoảng thời gian thích hợp cho những chuyến dã ngoại vào rừng, cũng khá thú vị cho những chuyến xả hơi cuối tuần. Có lẽ điều mà du khách sẽ cảm nhận nhiều nhất khi đến với Thác Gia Long là sẽ có cơ hội khám phá những cảnh quan thiên nhiên đầy kỳ thú. Bạn sẽ được chứng kiến những khung cảnh hiếm gặp, khi từ trên cao nhìn xuống sẽ thấy sự biến đổi hai dòng nước màu trắng và xanh, như tạo thành 2 không gian riêng biệt thật lý thú. Tại dòng thác Gia Long, mỗi thời điểm sẽ mang một vẻ đẹp một sắc màu riêng. Nếu mùa khô dòng nước hiền dịu, e ấp như cô gái mới lớn trông thật yên bình. Thì mùa mưa sẽ là một bức tranh kỳ vĩ, với dòng thác ào ào dữ dội, nước tung bọt cả một góc trời tạo nên những màn sương mờ ảo, thật hùng vĩ và mạnh mẽ. Một điểm trưng khiến nhiều du khách thích mê khi đến nơi đây là kiểu địa chất magma có nguồn gốc từ núi lửa phun trào cách đây hàng triệu năm. Với nhiều khối đá hình trụ tròn xếp chồng lên nhau, tạo nên những hình thù cực lạ mắt, bạn sẽ trông khá giống với Gành Đá Đĩa tại Phú Yên. Hệ sinh thái trong khu vực tham quan cũng vô cùng phong phú với vô số những cây cổ thụ trăm tuổi, với những chiếc rễ to, sừng sững đan xen vào nhau, hay những cây bạch tùng, chò xót, kền kền,..quý hiếm, cùng nhiều loại động vật hoang dã khác. Khi đã đặt chân đến thác Gia Long, bạn nhất định không thể bỏ qua các món ăn đậm hương vị ẩm thực Tây Nguyên. Gần khu vực thác Gia Long là các buôn làng Kuốp, Tua, Nui của đồng bào Êđê, không những có nền văn hoá ấn tượng mà nơi đây còn có nền ẩm thực độc đáo. Vì thế, sau khi tham quan và trải nghiệm những hoạt động lý thú tại dòng thác hùng vĩ, đừng quên thưởng thức những món ngon đậm chất vùng Tây Nguyên như: Rượu cần, Gà nướng cơm lam ống tre, Thịt nướng tẩm gia vị, Rau rừng xào, Cá lăng nướng muối ớt. Khi đến thăm con thác nổi tiếng này, bạn hãy ghi lại những mẹo vi vu dưới đây để có chuyền hành trình trọn vẹn nhất. Lên kế hoạch cho chuyến khám phá thác Gia Long sớm để có được một hành trình thuận lợi và trọn vẹn. Khu tham quan mở cửa từ 7h00 đến 18h00 hằng ngày và không mất phí vé. Trong quá trình tham quan khu du lịch bạn tuyệt đối không được xả rác, cần giữ gìn vệ sinh xanh sạch đẹp cho nơi này. Trong quá trình vui chơi cần đảm bảo an toàn, không đùa giỡn tại những vị trí trơn trượt nguy hiểm.
Đắk Lắk 3238 lượt xem
Tháng 11 đến tháng 4
Thác Thủy Tiên nằm ở phía Đông Bắc, cách Thành phố Buôn Ma Thuột khoảng 56 km, và cách trung tâm xã Tam Giang – Huyện Krông Năng khoảng 7km. Đường vào thác Thủy Tiên là những con đường đèo uốn cong, băng qua những cánh đồng cà phê, cao su bao la bát ngát. Khung cảnh núi rừng dần hiện ra khi bạn bắt đầu hành trình vào rừng. Một khung cảnh rộng lớn, ẩn hiện đâu đó là những con suối đang giấu mình sau những mảng lá rừng, yên bình, thanh thản. Tiếng chim hót líu lo. Màu xanh bạt ngàn của núi đồi, tiếng suối róc rách như những bản tình ca. Tất cả tạo nên cái âm hưởng du dương, như gọi mời, như thôi thúc. Thấp thoáng đâu đó giữa khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ của núi đồi. Dòng thác Thủy Tiên uốn lượn vắt ngang rừng, như một nét chấm phá độc đáo trên bức tranh thủy mặc. Thời gian lý tưởng để trekking Thác Thủy Tiên là Tháng 12 Đến Tháng 3. Bởi thời gian này là thời gian hoa dã quỳ nở rực cả vùng núi Tây Nguyên, hoa cà phê nở trắng núi đồi và cũng là khoảng thời gian diễn ra nhiều lễ hội lớn nhất. Đặc biệt, thời gian này đường đi sẽ khô ráo và dễ dàng hơn khi đến với Thác Thủy Tiên. Chắc chắn sẽ mang cho bạn những trải nghiệm vô cùng thú vị. Thác Thủy Tiên mang trong mình vẻ đẹp hoang sơ. Điểm nhấn giữa núi rừng với vô vàn những tảng đá nằm gối chồng lên nhau và những rễ cây rừng đan kín trông rất lạ mắt. Từ xa nghe tiếng nước chảy rì rào như kêu gọi, nhưng muốn xuống thác bạn phải cuốc bộ thêm khoảng hơn 100 bậc thang. Để rồi reo lên ngạc nhiên khi chứng kiến vẻ đẹp dịu dàng của dòng thác với các tảng đá ngộ nghĩnh gối chồng lên nhau. Tầng thứ nhất có độ dốc thấp lên xuống đơn giản, lòng thác bé dại, nước chảy êm ắng. Hai bên có khá nhiều rễ cây rủ xuống đong đưa như những chiếc võng phân thành một bức tranh thiên nhiên đẹp lung linh. Không dừng lại ở đó, dòng nước lại liên tục ào ạt trút xuống những bậc đá lớn chia thành tầng thứ hai với nhiều vũng nước xanh mát mẻ. Ở đây, bạn có thể ngâm mình dưới các bể nước lớn mát giá buốt. Tầng Thứ Ba nước từ trên cao đổ xuống một mặt hồ rộng và sâu, tung bọt trắng xóa rồi trở về lại với dòng chảy hiền hòa, uốn lượn giữa đại ngàn xanh thẳm. Khi Treckking Thác Thủy Tiên, bạn cần đi giày thể thao, tốt nhất là loại giày chống trơn. Vì địa hình ở đây khá khó đi và có nhiều đá bị bám rêu. Chuẩn bị kem chống nắng, thuốc bôi ngoài da. Thuốc chống muỗi và các dụng cụ y tế cần thiết để phòng trường hợp bất trắc. Mang theo đồ ăn nhẹ và nước uống để bạn có một sức khỏe tốt nhất. Để chinh phục chuyến hành trình tại đây. Không nên ở lại qua đêm hay về quá muộn vì rừng rậm khá nguy hiểm.
Đắk Lắk 3314 lượt xem
Tháng 12 Đến Tháng 3 năm sau
Thác Krông Kmar DakLak nằm tại thị trấn Krong Kmar, huyện Krông Bông, tỉnh Đăk Lăk là một trong những điểm tham quan nổi tiếng tại Buôn Ma Thuột. Theo Hướng dẫn đường đi đến thác Krong Kmar DakLak, dòng thác xinh đẹp này bắt nguồn từ con sông Sêrêpốk và khoác lên mình vẻ đẹp thiên nhiên hoang sơ, kỳ vĩ. Nằm nép mình dưới chân dãy núi Chư Yang Sin - Một trong những dãy núi được mệnh danh là nóc nhà của Tây Nguyên - Thác Krong Kmar DakLak là điểm đến cực kỳ thích hợp cho những ai đang kiếm tìm một không gian xanh, yên tĩnh để thư giãn. Khí hậu tại Buôn Ma Thuột phân chia thành hai mùa rõ rệt là mùa mưa và mùa khô. Trong đó, mùa khô sẽ bắt đầu từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau và mùa mưa sẽ nằm trong khoảng tháng 5 đến tháng 11. Theo Hướng dẫn đường đi đến thác Krong Kmar DakLak, thời điểm lý tưởng nhất để bạn di chuyển đến đây là vào mùa khô vì lúc này trời ít mưa, nắng nhiều nên đường đi đến thác không quá trơn trượt, gây khó khăn. Nếu đến đây tham quan từ tháng 5 đến tháng 11 thì bạn cần cẩn thận khi di chuyển trên các phiến đá ngay thác nước. Để đến được thác Krong Kmar DakLak, trước tiên bạn cần phải đặt chân tới được thành phố Buôn Ma Thuột. Có rất nhiều phương tiện để bạn lựa chọn di chuyển đến thành phố này như máy bay, xe khách, xe máy hoặc ô tô cá nhân. Trong đó, máy bay chính là phương tiện lý tưởng nhất để bạn di chuyển từ Sài Gòn hoặc Hà Nội đến phố núi đại ngàn này. Giá vé máy bay thì cao hơn so với các phương tiện khác, dao động từ 650.000 VNĐ đến 1.600.000 VNĐ tùy vào địa điểm mà bạn xuất phát. Trong khi đó giá vé xe khách chỉ từ 180.000 VNĐ đến 800.000 VNĐ nhưng quãng đường và thời gian di chuyển cũng lâu hơn. Theo Hướng dẫn đường đi đến thác Krong Kmar DakLak, đường đi đến thác tuy không quá khó khăn nhưng vào mùa mưa khá trơn trượt, ẩm ướt. Vì vậy bạn nên tránh đi vào mùa mưa hoặc nếu đã lỡ đi thì nên đưa cho người có kinh nghiệm cầm lái. Con đường men dọc theo thác Krong Kmar thường có những phiến đá để bạn dừng chân sống ảo hoặc nghỉ ngơi, thư giãn. Tuy nhiên vẫn nên cẩn thận nếu đi trên đó vì rất dễ té ngã. Giá vé vào đây là miễn phí nên bạn chỉ cần đem theo đồ ăn, thức uống là đã có thể dành cả ngày tham quan tại đây. Sau khi ăn thì dọn dẹp sạch sẽ, giữ gìn mỹ quan thiên nhiên trong lành. Ngoài xe máy, bạn cũng có thể di chuyển bằng ô tô để đến đây khám phá. Theo Hướng dẫn đường đi đến thác Krong Kmar DakLak, di chuyển bằng ô tô sẽ chở được nhiều người hơn và dễ dàng để bạn mang theo đồ đạc.
Đắk Lắk 3487 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Di tích lịch sử mộ và đền thờ Lê Thành Phương tọa lạc tại thôn Mỹ Phú, xã An Hiệp, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên. Di tích đã được công nhận là Di tích lịch sử - văn hóa cấp Quốc gia vào năm 1996. Lê Thành Phương là danh nhân lịch sử hàng đầu ở tỉnh Phú Yên. Ông sinh năm 1825 tại làng Mỹ Phú, tổng Xuân Vinh (nay là thôn Mỹ Phú – xã An Hiệp – huyện Tuy An – tỉnh Phú Yên) trong một gia đình nho học và giàu lòng yêu nước. Thi đỗ tú tài năm 30 tuổi, ông trở về quê mở trường dạy học. Năm 1885, hưởng ứng chiếu Cần Vương của vua Hàm Nghi, Lê Thành Phương đã đứng lên chiêu tập nghĩa quân Phú Yên dựng cờ khởi nghĩa chống thực dân Pháp xâm lược. Ông được vua Hàm Nghi phong làm "Thống soái Quân vụ Đại thần". Với tài năng của Lê Thành Phương, chỉ sau 1 tháng, ông đã tập hợp được vài nghìn người kéo cờ khởi nghĩa. Bấy giờ, ai ai cũng biết đến ông với danh xưng “Thống soái quân vụ đại thần”. Ông tiến hành chia phân khu chiến đấu thành 2 khu, một là từ đèo Cù Mông đến đèo Tam Giang, hai là từ đèo Tam Giang tới đèo Cả. Chỉ trong thời gian ngắn, cuộc nổi dậy của ông đã nhiều phen làm giặc Pháp khiếp sợ. Tháng 2 – 1887, Lê Thành Phương bị địch bắt do có tay sai chỉ điểm. Ngày 20/2/1887 (nhằm ngày 28 tháng Giêng năm Đinh Hợi), vì không dụ dỗ mua chuộc được ông, tên việt gian Trần Bá Lộc đã ra lệnh xử tử Lê Thành Phương cùng nhiều sỹ phu yêu nước khác tại Bến Cây Dừa (thuộc xã An Dân, huyện Tuy An ngày nay). Cuộc khởi nghĩa do Lê Thành Phương tổ chức và lãnh đạo ở Phú Yên là một bộ phận quan trọng của phong trào Cần Vương toàn quốc, có ảnh hưởng tích cực và mạnh mẽ đến phong trào Cần Vương ở các tỉnh Nam Trung bộ. Cuộc khởi nghĩa Lê Thành Phương là trang sử vẻ vang trong quá trình đấu tranh chống ngoại xâm giành độc lập dân tộc vô cùng anh dũng, hào hùng của nhân dân Phú Yên và mãi mãi là niềm tự hào của nhân dân Phú Yên. Ông đã nêu cho tấm gương sáng ngời về ý chí kiên cường bất khuất và tinh thần anh dũng hy sinh vì dân vì nước. Di tích Mộ và Đền thờ Lê Thành Phương tại thôn Mỹ Phú – xã An Hiệp – huyện Tuy An – tỉnh Phú Yên đã được nhà nước chính thức công nhận là Di tích Lịch sử - Văn hóa cấp quốc gia vào năm 1997. Từ đó, đã trở thành truyền thống, cứ đến ngày 27 và 28 tháng Giêng hằng năm, huyện Tuy An, chính quyền xã An Hiệp phối hợp với Sở Văn hoá - Thể thao và Du lịch tỉnh Phú Yên tổ chức lễ tưởng niệm đến vị “Thống soái quân vụ đại thần” Lê Thành Phương, người con yêu tú của quê hương Phú Yên. Đây cũng là dịp để nhân dân khắp nơi trong tỉnh Phú Yên, nhất là huyện Tuy An tụ hội về tham gia các hoạt động truyền thống, các trò chơi dân gian được tổ chức như: Đẩy gậy, kéo co nam, nữ, đi cà kheo, chạy 3 chân, vừa chạy vừa lắc vòng, vừa hành quân vừa nấu cơm, thi cờ tướng, cờ người, cắm trại đẹp, thi hát dân ca, hội bài chòi và liên hoan văn nghệ. Nguồn: Trung Tâm Xúc Tiến Thông Tin Du Lịch Phú Yên
Đắk Lắk 4823 lượt xem
Nhà đày Buôn Ma Thuột tọa lạc tại số 17 đường Tán Thuật - phường Tự An - thành phố Buôn Ma Thuột. Được xây dựng trong những năm 1930 – 1931, Nhà đày là nơi giam giữ, đày ải tù chính trị chủ yếu ở các tỉnh Trung kỳ. Tên gọi Nhà đày Buôn Ma Thuột một mặt bắt nguồn từ tên gọi do thực dân Pháp đặt: Pénitencier de Ban Mê Thuột, mặt khác là do tính chất, loại hình các nhà giam của thực dân Pháp. Nhà đày được xây dựng với tổng diện tích gần 2ha, với 4 bức tường bao quanh cao 4m, dầy 40cm, 4 góc đều có vọng gác và có lính canh 24 trên 24 giờ. Phía trong có 6 dãy lao tập thể, các dãy xà lim… đây là nơi giam cầm, đày ải và thủ tiêu các chiến sĩ cách mạng với một chế độ hết sức khắc nghiệt và tàn bạo. Tại Trung Kỳ, Cao nguyên Đắk Lắk bấy giờ bị bao vây giữa bốn bề núi rừng trùng điệp, rậm rạp, nhiều thú dữ. Khí hậu khắc nghiệt, độc địa nóng lạnh thất thường, độ ẩm cao nhiều mầm bệnh nguy hiểm như sốt rét, kiết lỵ, thổ tả dễ phát sinh. Với địa hình cao nguyên rộng, xen kẽ nhiều rừng rậm bao bọc bởi nhiều núi cao, một phía là biên giới với nước ngoài, lại bị chia cắt bởi nhiều thung lũng, sông suối, ít có đường sá, cầu cống. Vào khoảng năm 1900, một nhà lao đã được người Pháp đã xây dựng lên dùng để giam tù chính trị. Tại đây, vùng đất hoang vu, khí hậu độc địa, ít người lui tới, sự khác biệt về ngôn ngữ văn hóa với người dân tộc Ê Đê, hình thành nhà lao giam giữ thì tù nhân khó bề trốn thoát. Cuối thập niên 1920 đầu 1930, phong trào chống thực dân tại Đông Dương tăng cao khi những người bản xứ tiếp thu các tư tưởng cách mạng phương Tây. Số lượng tù nhân chính trị ngày càng tăng cao. Chính quyền liên tục phải mở rộng và xây mới các nhà tù và nhà đày làm nơi lưu đày biệt xứ và giam giữ những nhà cách mạng dân tộc bản xứ bị xử án nặng trên lãnh thổ Đông Dương. Ban đầu Khâm sứ Trung Kỳ chọn xây dựng nhà đày tại huyện Lăk, cách thị xã Buôn Ma Thuột khoảng 50 km. Tuy nhiên, tỉnh trưởng Đắk Lắk bấy giờ đã đề nghị nên xây dựng nhà đày ngay tại thị xã Buôn Ma Thuột trên cơ sở mở rộng nhà lao cũ, với lý do việc xây dựng nhà đày mới đòi hỏi một chi phí lớn trong khi thời đó nước Pháp đang lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1929; đồng thời, nếu xây dựng ở Lăk thì việc giải tù nhân đi rất xa, tốn kém nhiều thời gian. Từ những lý do đó, Khâm sứ Trung Kỳ quyết định chọn thị xã Buôn Ma Thuột là nơi xây dựng nhà đày. Nhà đày Buôn Ma Thuột do thực dân Pháp thiết lập trong thời kỳ 1930 - 1931 để đày biệt xứ và giam giữ những người yêu nước, những đảng viên cộng sản bị bắt, bị xử án nặng ở các tỉnh Trung Kỳ, những người đi đầu trong các cuộc đấu tranh phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh. Một điểm đặc biệt khác với các nhà tù, nhà đày khác là tù nhân phải tự làm nhà tù để giam giữ chính họ đó là cách nổi bật nhất mà thực dân Pháp tiến hành ở nhà đày Buôn Ma Thuột. Nhà đày toạ lạc trên một khuôn viên rộng gần 2 ha vị trí này gần toà công sứ, trại lính khố xanh, nhà lao tỉnh. Đây là một đồi ít cây lớn, cho phép những xe tải dễ lui tới vận chuyển nguyên vật liệu. Bản thiết kế và kế hoạch do kỹ sư trưởng, giám đốc công chính Trung kỳ soạn thảo. Từ năm 1930 Nhà đày Buôn Ma Thuột đã giam giữ những người hoạt động như: Hồ Tùng Mậu, Phan Đăng Lưu, Nguyễn Chí Thanh, Tố Hữu, Hồng Chương, Bùi San, Trần Văn Quang, Ngô Đức Độ, Ngô Xuân Hàm... Di tích lịch sử nhà đày Buôn Ma Thuột còn được nhắc đến với tên gọi nhà phạt. Nơi đây cũng giống như bao nhà tù trên khắp nước Việt Nam, nó không những là minh chứng rõ ràng nhất cho tội ác tàn độc của Đế quốc – Thực dân, mà nơi đây còn được coi như một ngôi trường lớn đã tạo nên những người chiến sĩ cách mạng kiên trung cho đất nước. Nhà đày Buôn Ma Thuột là một di tích lịch sử tại Đắk Lắk, với kết cấu là một di tích hệ thống nhà tù (nhà đày) cũ từ thời Pháp thuộc. Ngày 10 tháng 7 năm 1980 Nhà đày được Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận là di tích cấp quốc gia. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Đắk Lắk
Đắk Lắk 3814 lượt xem
Di tích lịch sử đồn điền ca da trải dài từ km 18 đến km 47 dọc hai bên quốc lộ 26 thuộc xã Ea Kênh và Ea Yông, huyện Krông Pắk. Ca da là chữ viết tắt của Công ty Nông nghiệp Á Châu, do người Pháp xây dựng vào năm 1922 để trồng cà phê, chè. Ca da là nơi thực dân Pháp mở đầu cho việc cướp đoạt đất đai để khai thác tài nguyên một cách quy mô trong quá trình khai thác thuộc địa ở Đắk Lắk, việc lập đồn điền và du nhập chủ nghĩa tư bản thực dân đã phá vỡ nền kinh tế truyền thống của các dân tộc thiểu số nơi đây. Quá trình khai thác mạnh nhất của thực dân Pháp tại Đồn điền ca da bắt đầu từ năm 1925 đến năm 1934, chúng bóc lột công nhân bằng đồng lương rẻ mạt và đối xử vô cùng tàn nhẫn. Chính trong thời điểm này, giai cấp công nhân đã ra đời và phát triển mạnh mẽ. Năm 1940, Chi bộ Đảng cộng sản đầu tiên được thành lập tại Nhà đày Buôn Ma Thuột, chính nơi đây ngọn lửa, đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam được nhen nhóm, làm nòng cốt lan rộng khắp nơi, đóng vai trò hết sức to lớn đối với phong trào giải phóng dân tộc ở Đắk Lắk. Cuối năm 1944, Chi bộ Nhà đày đã xây dựng được những cơ sở trong đồn lính khố xanh, thành lập một số tổ chức bán hợp pháp để hoạt động lan toả khắp các đồn điền mà mạnh nhất là đồn điền ca da. Năm 1945, ca da – nơi có phong trào và tổ chức vững mạnh được Ban Chấp hành lâm thời chọn giao nhiệm vụ nòng cốt trong cuộc khởi nghĩa. Ca da cũng là nơi huấn luyện, tập hợp lực lượng để cướp chính quyền đầu tiên và là hậu cứ tiếp tục chiến đấu nếu cuộc khởi nghĩa chưa thành công. Các tổ chức bí mật cũng được thành lập, với những đồng chí trung kiên như: Trần Thử, Trần Phòng, Mai Nguyên, Trần Cối, Nguyễn Tâm Thu và Trần Thị Thủy. Cũng chính nơi đây, bộ máy cai trị của thực dân Pháp sau hơn 40 mươi năm xây dựng đã bị sụp đổ đầu tiên ở Đắk Lắk. Quá trình ra đời và trưởng thành của công nhân đồn điền Ca da đã khẳng định sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng Đắk Lắk, có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 và cuộc Tổng tiến công nổi dậy mùa Xuân 1975 ở tỉnh Đắk Lắk. Sau ngày đất nước thống nhất, Đồn điền Ca da được giao cho Công ty Nông nghiệp Đắk Lắk quản lý, trên cơ sở đó năm 1977 Nông trường cà phê Phước An được thành lập, tiếp đó tháng 5/1989 Nông trường cà phê Tháng 10 ra đời. Hai Nông trường này đã có nhiều đóng góp trong công cuộc xây dựng và phát triển tỉnh Đắk Lắk nói chung và huyện Krông Pắk nói riêng. Với giá trị lịch sử và hiện trạng của Đồn điền ca da, ngày 26/01/1999, Bộ trưởng Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) đã ban hành Quyết định số 02/1999/QĐ-BVHTT xếp hạng Di tích lịch sử ca da, xã Ea Yông, huyện Krông Pắk, tỉnh Đắk Lắk là Di tích quốc gia. Nguồn: Bảo tàng tỉnh Đắk Lắk
Đắk Lắk 3721 lượt xem
Danh nhân Lương Văn Chánh là người Bắc Hà, dưới triều vua Lê Thế Tông được phong chức Thiên Vũ vệ Đô chỉ huy sứ. Năm Mậu Dần – 1578, Lương Văn Chánh được chúa Nguyễn Hoàng cử vào ổn định vùng đất từ đèo Cù Mông đến đèo Cả. Nhờ có công lớn, ông được thăng chức Đặc tiến Phụ quốc Thượng tướng quân, sau làm Trấn Biên quan. Sau đó ông chiêu tập lưu dân vùng Thanh – Nghệ, Thuận Hoá và các nơi khác đến khai phá đất hoang, kết lập gia cư, làng mạc ở vùng Cù Mông, Bà Đài và dọc theo sông Đà Rằng. Ông đem kinh nghiệm khẩn hoang vào áp dụng ở Phú Yên, cùng với người dân làm cho vùng đất này trở nên trù phú, làng xóm dần được hình thành. Đây là cơ sở để chúa Nguyễn lập ra phủ Phú Yên vào năm 1611. Ông Lương Văn Chánh qua đời ngày 19 tháng Chín năm Tân Hợi 1611. Mộ Lương Văn Chánh nằm trên một gò cao, quay mặt ra phía sông Bến Lội, hướng về núi Chóp Chài. Đền thờ Lương Văn Chánh nằm ở địa hình thông thoáng, phía trước là sông Bến Lội, phía sau là núi Cấm. Trong khuôn viên còn có cây bồ đề cổ thụ cành lá xum xuê, che mát cả một góc đền, được Hội Bảo vệ thiên nhiên và môi trường Việt Nam công nhận là cây Di sản Việt Nam năm 2014. Để bày tỏ sự ngưỡng mộ, tri ân của thế hệ hôm nay đối với bậc tiền nhân đã có công khai cơ lập nghiệp; thể hiện đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, đáp ứng nguyện vọng cũng như sự mong đợi của cán bộ, nhân dân trong tỉnh và cả nước, Tỉnh Phú Yên đã cho đúc tượng danh nhân Lương Văn Chánh để thờ ngay tại Đền của ông, tượng được đúc bằng đồng có chiều cao 1,4 mét, tư thế ngồi trên ghế tựa, tay cầm chiếu chỉ, được đặt ngay chính điện đền thờ, thể hiện sự tôn nghiêm trang trọng. Hàng năm, vào ngày mùng 6 tháng 2 và ngày 19 tháng 9 (Âm lịch), Phú Yên tổ chức Lễ hội Đền thờ Lương Văn Chánh với sự tham gia của đông đảo nhân dân và thu hút nhiều du khách đến tham quan tìm hiểu. Di tích khu Mộ và Đền thờ Lương Văn Chánh được xếp hạng là Di tích lịch sử cấp Quốc gia ngày 27/9/1996. Nguồn: Trung Tâm Xúc Tiến Du Lịch Tỉnh Phú Yên
Đắk Lắk 3685 lượt xem
Đền thờ Đức Thánh Trần tọa lạc tại số 291, đường Trần Hưng Đạo, phường An Lạc, thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk. Năm 1947, trên một mảnh đất nhỏ ở thị trấn Buôn Hồ, huyện Krông Buk (nay là thị xã Buôn Hồ), nhân dân đã dựng Đền thờ Đức Thánh Trần để tỏ lòng thành kính, biết ơn và tôn vinh vị anh hùng dân tộc Trần Hưng Đạo - người có công lớn trong ba lần chiến thắng quân Nguyên - Mông, đã đi vào lịch sử, đi vào thế giới huyền thoại, thế giới tâm linh, trở thành vị “Thánh” thiêng liêng được toàn thể nhân dân thờ phụng, được dân gian phong là một trong “Tứ bất tử” của dân tộc Việt Nam. Ban đầu Đền được dựng tạm từ những cây rừng và vách ván, mái lợp tôn, chính giữa Đền đặt một trang thờ và treo bức tranh Trần Hưng Đạo bằng giấy. Ngay từ lúc mới hình thành, nhân dân đã bầu Ban quản trị Đền để phục vụ công tác quản lý, tế lễ, hương khói hàng tháng, hàng năm. Đến năm 1964, Ban quản trị Đền đứng ra khởi xướng, kêu gọi nhân dân thị xã Buôn Hồ quyên góp thêm tiền mua đất đai, vật liệu và dỡ bỏ ngôi Đền cũ, xây dựng Đền thờ Đức Thánh Trần bằng tường gạch, mái lợp tôn. Để có được khuôn viên và Đền thờ khang trang như ngày nay, Đền đã trải qua nhiều lần trùng tu, tôn tạo, mở rộng diện tích như: Năm 1972 cải tạo, mở rộng chánh điện; năm 2004 mua thêm đất; năm 2006 lát nền; 2012 làm sàn. Tuy nhiên, do được xây dựng trong hoàn cảnh đất nước đang xảy ra chiến tranh và điều kiện kinh tế - xã hội của địa phương còn khó khăn nên Đền thờ chưa thể xây dựng theo kiểu kiến trúc cổ truyền của một số Đền thờ Đức Thánh Trần ở Hải Dương, Hà Nội, Thanh Hóa, thành phố Hồ Chí Minh,... Hiện nay, Đền thờ Đức Thánh Trần nằm trong một khuôn viên rộng với tổng diện tích là 525,8m2, với các hạng mục: Cổng Đền, sân trước, Đền thờ, sân sau. Nơi thờ chính của Đền là Nội điện (hậu cung), được xây dựng lồi ra phía sau so với Tiền đường, không được chia ra nhiều gian và cũng không có cửa khép kín như ở các ngôi Đền ở các tỉnh phía Bắc mà chỉ gồm một gian được thông thẳng với gian giữa Tiền đường. Nội điện không có cửa khép kín mà được trang trí bằng viền khung gỗ với hoa văn rồng mây ở lối đi vào, hai bên treo hai câu đối: “Bạch Đằng Vạn Kiếp dân Việt nhớ ơn. Hàm Tử Chương Dương quân Nguyên khiếp vía” Bức hoành phi cao 60 cm, rộng 3,6 m, sơn son với 4 chữ Hán: “Trần triều hiển thánh” được treo trang trọng ngay trên cửa vào Nội điện. Hương án ở Nội điện gồm có 3 tầng: Tầng trệt là nơi thờ Ngũ hổ (biểu tượng cho sức mạnh thiêng liêng có thể diệt trừ ma tà, trấn giữ các phương, là thần linh canh cửa ở các ngôi Đền) với hai bức tranh Ngũ hổ và một đỉnh đồng được đặt chính giữa trang thờ, hai bên đặt hai chân nến bằng đồng và một tượng Hổ bằng đồng để mong cầu no đủ, an lành; Tầng thứ hai của hương án Nội điện cao 50 cm, rộng 1,8 m, đây là nơi đặt bát nhang và một Ấn Đền Trần được lồng trong một khung kính với chiều ngang 30 cm, chiều cao 60 cm. Đây là Ấn Đền Trần được nhà báo Trần Quang Tuấn thỉnh từ Đền Trần của tỉnh Nam Định đem về tặng lại cho Ban Quản lý Đền thờ Đức Thánh Trần ở Đắk Lắk vào Tết năm 2016. Trên trang thờ cũng đặt hai chân nến và một đỉnh trầm bằng đồng được trang trí hình Lân tượng trưng cho sự thông minh, sức mạnh, kiểm soát tâm hồn người đến hành lễ; Tầng thứ ba – tầng cao nhất của hương án chính là nơi đặt tượng Trần Hưng Đạo bằng thạch cao, tượng cao khoảng 1,1 m, bề ngang khoảng 50 cm, được đặt trên một đế tượng dày 60 cm, cao 20 cm. Tượng được đúc ở thế ngồi trên ghế Rồng, tay cầm kiếm, với trang phục màu đỏ và nét mặt uy nghiêm để thể hiện sức mạnh, ý chí, tinh thần chống giặc ngoại xâm của một thiên tài quân sự Việt Nam. Bên trái của tượng Trần Hưng Đạo đặt một cây kiếm, một bộ quan phục cùng với một đôi hài vải thêu hoa văn trang trí và một tủ kính đựng lễ phục màu vàng. Hai bên của tượng Trần Hưng Đạo còn đặt tượng hai con Kỳ Lân bằng gỗ (trong văn hóa Việt Nam thì Kỳ Lân cũng là con vật báo hiệu điềm lành, là biểu tượng cho sự trường thọ, sự nguy nga đường bệ và niềm hạnh phúc lớn lao). Đặc biệt, hai bên hương án còn dựng hai thành đao bằng đồng có hoa văn trang trí hình rồng và cao khoảng 1,8 m để tăng thêm vẻ uy nghi, tôn nghiêm cho điện thờ trong Nội điện. Đền thờ Đức Thánh Trần là nơi thờ vọng để tưởng nhớ công ơn của người anh hùng dân tộc Trần Hưng Đạo. Trong kháng chiến chống Mỹ, Đền thờ Đức Thánh Trần là một địa điểm cung cấp, tiếp tế lương thực, thực phẩm, thuốc men cho cách mạng, chủ yếu là cung cấp cho các đội công tác dọc tuyến H4 (mật danh của các huyện Buôn Hồ, Krông Năng, Krông Buk). Ngoài ra, Ban Quản trị Đền do các cụ Đặng Văn Đậu, Năm Phụng, Hà Hạnh,… đã vận động, kêu gọi chủ đồn điền cà phê Rossi đứng ra móc nối với lực lượng Bảo An tại khu vực H4 để che giấu cho việc tiếp tế lương thực, thực phẩm, thuốc men, đạn dược tại Đền thờ Trần Hưng Đạo trong những năm kháng chiến chống Mỹ. Với ý nghĩa đó, ngày 29/9/2017, Ủy ban Nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã xếp hạng Đền thờ Đức Thánh Trần là Di tích lịch sử cấp tỉnh. Nguồn: Bảo tàng tỉnh Đắk Lắk
Đắk Lắk 3629 lượt xem
Ngày 5/10/1930, tại nhà đồng chí Phan Lưu Thanh, ở xóm Đồng Bé, thôn Phước Long, xã Xuân Long (nay là khu phố Long Bình, thị trấn La Hai, huyện Đồng Xuân), đã tổ chức Hội nghị Đảng viên, tuyên bố thành lập Chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên ở tỉnh Phú Yên gồm có 8 đảng viên, đồng chí Phan Lưu Thanh được bầu làm Bí thư. Đến tháng 01/1931, Tỉnh ủy Phú Yên được thành lập. Ngày 18/6/1997, Nơi thành lập Chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên ở tỉnh Phú Yên đã được xếp hạng là Di tích lịch sử cấp Quốc gia. Sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (03/2/1930), một số thanh niên trí thức yêu nước ở Phú Yên tìm cách liên lạc với các tổ chức Cộng sản để tổ chức các cuộc đấu tranh. Cuối năm 1929, cuộc vận động thành lập tổ chức cộng sản có nhiều chuyển biến tích cực, gắn liền với quá trình hoạt động của một tập thể chiến sỹ cách mạng, trong đó tiêu biểu nhất là đồng chí Phan Lưu Thanh. Đồng chí Phan Lưu Thanh sinh năm 1906, quê ở xóm Đồng Bé, thôn Phước Long, xã Xuân Long, huyện Đồng Xuân (nay là khu phố Long Bình, thị trấn La Hai, huyện Đồng Xuân), là một thanh niên yêu nước sống trong cảnh đất nước lầm than, đã tích cực tham gia các tổ chức yêu nước lúc bấy giờ như: Hưng nghiệp hội xã, Hội Việt Nam cách mạng thanh niên... Được tuyên truyền và giác ngộ về lý tưởng chủ nghĩa cộng sản, đồng chí Phan Lưu Thanh đã tích cực hoạt động để gây dựng cơ sở cộng sản. Với việc tổ chức những hoạt động cách mạng có ý nghĩa lịch sử, đồng chí Phan Lưu Thanh được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam tại Chi bộ Thị Nghè (Sài Gòn) vào tháng 8/1930 và được cử về La Hai, Đồng Xuân, Phú Yên để tiếp tục gây dựng cơ sở. Đồng chí đã liên lạc, móc nối, tập hợp một số thanh niên tiến bộ trước đây, cùng tiếp tục hoạt động tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản, treo cờ búa liềm, rải truyền đơn ở La Hai, Tuy An, Tuy Hòa, Tỉnh lỵ Sông Cầu... Những hình thức này đã gây ảnh hưởng trong quần chúng, tạo điều kiện cho quần chúng công nông tiếp xúc với chủ trương của Đảng, kích thích tinh thần yêu nước trong một số thanh niên, học sinh có ý thức dân tộc theo tư tưởng cộng sản. Qua tuyên truyền, giác ngộ, thử thách, đồng chí Phan Lưu Thanh đã kết nạp một số đồng chí ưu tú vào Đảng. Trước sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng trong tỉnh. Ngày 5/10/1930, đồng chí Phan Lưu Thanh tổ chức cuộc họp toàn thể đảng viên tại nhà của mình bàn việc thành lập Chi bộ Đảng Cộng sản. Sau khi tiến hành các thủ tục theo quy định của Đảng, trong không khí trang nghiêm và thiêng liêng, đồng chí Phan Lưu Thanh tuyên bố thành lập Chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên ở Phú Yên. Chi bộ có 9 đảng viên. Sự ra đời của Chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên ở Phú Yên đã mở ra một thời kỳ mới cho phong trào cách mạng ở Phú Yên, đáp ứng được nguyện vọng bức thiết của giai cấp công nhân, nông dân, đội ngũ lớp trí thức và nhân dân lao động ở Phú Yên. Từ đây, phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân Phú Yên có sự soi đường, dẫn lối của tổ chức những người cộng sản - nhân tố có tính chất quyết định cho sự thắng lợi của phong trào cách mạng ở Phú Yên sau này. Nguồn: Trang Thông tin điện tử Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Phú Yên
Đắk Lắk 3595 lượt xem