Khám phá lịch sử, văn hóa, con người và cảnh đẹp Việt Nam trên ứng dụng du lịch Travelviet
Tải ứng dụng Travelviet
Thung lũng Đồng Din
Đắk Lắk 860 lượt xem
Ghềnh Đá Đĩa là địa danh thuộc xã An Ninh Đông, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên. Nơi đây độc đáo với cảnh quan là các khối đá ở đây hoặc hình tròn, hoặc vuông, đã tạo nên một khung cảnh tự nhiên mà như có chủ ý sắp đặt của tạo hóa. Dựa trên nhiều cuộc khảo sát và nghiên cứu, người ta cho rằng khoảng 200 triệu năm trước, trong quá trình hoạt động của núi lửa ở vùng cao nguyên Vân Hòa, nham thạch phun trào theo dòng chảy dẫn ra biển. Khi đụng phải nước biển lạnh, cộng với hiện tượng di ứng lực khiến các khối nham thạch bị đông cứng rạn nứt phần lớn theo mạch dọc tạo nên những khối đá với hình thù khác nhau. Từ trên cao, ghềnh đá như một tổ ong khổng lồ, đen bóng và gồ ghề. Hoặc có thể ví như những chiếc đĩa, lổm nhổm, xếp chồng lên nhau trong lò gạch. Nơi đây được thiên nhiên ưu ái ban cho vẻ đẹp nên thơ trữ tình, hài hòa non nước, đẹp như một bức tranh thủy mặc. Ghềnh Đá Đãi một kỳ thú tuyệt đẹp là nơi thu hút và níu chân du khách du lịch. Từ thành phố Tuy Hòa, bạn lái xe 30km về phía Bắc, đến thị trấn Chí Thạnh bạn rẽ phải theo phía Đông, đi thêm 15km nữa là tới ghềnh Đá Đĩa. Còn nếu bạn muốn tận hưởng những làn gió biển tươi mát, khung cảnh bình dị của vùng biển miền Trung thì con đường ven biển Tuy Hòa dài chừng 35km sẽ là lựa chọn tuyệt vời dành cho bạn. Từ thành phố Tuy Hòa, bạn lái xe 30km về phía Bắc, đến thị trấn Chí Thạnh bạn rẽ phải theo phía Đông, đi thêm 15km nữa là tới ghềnh Đá Đĩa. Còn nếu bạn muốn tận hưởng những làn gió biển tươi mát, khung cảnh bình dị của vùng biển miền Trung thì con đường ven biển Tuy Hòa dài chừng 35km sẽ là lựa chọn tuyệt vời dành cho bạn. Hằng năm vào đầu tháng 2 và tháng 8 âm lịch thường diễn ra các lễ hội cầu ngư. Du khách đến đây vào dịp này sẽ có cơ hội ngắm cảnh ghềnh Đá Đĩa và tham gia vào các màn lễ hội đặc sắc. Phải đến tận nơi, đứng trên bờ biển tận mắt chứng kiến, bạn mới có thể thực sự tin được sự kì diệu mà thiên nhiên mang lại cho nơi đây. Những viên đá với hình thù khác nhau, nằm lộn xộn như chồng chén, đĩa trong các lò gốm sứ. Sóng biển nơi đây cũng mạnh lạ kì. Ngày đêm vỗ bờ, tạo nên bọt trắng xóa cả một vùng. Dọc theo ghềnh Đá Đĩa, thi thoảng bạn sẽ bắt gặp vài chỗ trũng. Mỗi khi có mưa cùng cùng với nước biển đọng lại. Nơi đây bỗng trở thành như những chiếc hồ nhân tạo. Bạn có thể tựa lưng vào những phiến đá, thả mình trong nước biển rồi thưởng thức không khí trong lành, ngắm nhìn vài chú cua, sao biển hay sứa biển bị mắc kẹt. Hay xuống tận sau dưới mép ghềnh là một chiếc hang lớn sâu vào trong núi. Tương truyền đây là hậu quả do chiến tranh để lại. Trưa đến, nếu bạn muốn tìm nơi nào đó để nghỉ ngơi thì bãi Bàng là một địa điểm lý tưởng. Dưới tán bàng vươn rộng, vừa thưởng thức hải sản tươi ngon, vừa tận hưởng cái hương vị đặc trưng của biển Tuy Hòa. Cách đó không xa là hải đăng Gành đèn. Từ đây bạn có thể ngắm nhìn toàn cảnh biển cũng như ghềnh Đá Đĩa Phú Yên. Mặc cho gió vẫn thổi, sóng vẫn vỗ về, thậm chí cả bom đạn, ghềnh Đá Đĩa vẫn đứng đó hiên ngang, huyền bí. Nếu có cơ hội đến Phú Yên, xin hãy ghé thăm Đá Đĩa, nghe gió kể chuyện, nghe sóng làm thơ. So với Nha Trang hay một vài địa điểm du lịch nổi tiếng khác thì tại Ghềnh Đá Đĩa có giá thành rẻ và bình dân hơn rất nhiều. Bạn có thể dễ dàng thoải mái khi chọn lựa một nhà nghỉ hay khách sạn phù hợp với túi tiền của mình. Bạn vừa có thể nghỉ ngơi thư giãn lại vừa có thể ngắm phong cảnh tuyệt sắc nơi đây. Một số khách sạn bạn có thể lựa chọn như: Saigon Phú Yên hotel với giá 800.000đồng/đêm; Anh Tuấn 2 hotel với giá 550.000 đồng/đêm. Nếu là người yêu thích thiên nhiên hoang dã bạn có thể chọn cho mình những khoảng không thư giãn để cắm trại, ngủ lều tại bãi Bàng gần Ghềnh Đá để tận hưởng một đêm tuyệt vời. Mảnh đất Phú Yên đầy nắng và gió đã được thiên nhiên hào phóng ban tặng cho những danh lam thắng cảnh và những kỳ quan thiên nhiên kỳ thú mê hoặc lòng người – Ghềnh Đá Đĩa Phú Yên là một trong những kỳ quan như thế. Bàn tay tạo hóa tài hoa đã tạo nên một khung cảnh tự nhiên đẹp hoang sơ, thu hút khách du lịch muôn phương tìm về để chiêm ngưỡng vẻ đẹp và khâm phục trước vẻ đẹp nơi đây. Nếu bạn thực sự là người yêu cái đẹp thuần khiết nhất của thiên nhiên thì không nên bỏ qua điểm đến Ghềnh Đá trong cuốn cẩm nang du lịch của mình.
Đắk Lắk 3147 lượt xem
Tháng 3 đến tháng 8
Bãi Xép là một bãi biển thuộc xã An Chấn, thành phố Tuy Hoà, Phú Yên. Bờ biển ở Bãi Xép chỉ dài 500m nhưng lại sở hữu những cảnh quan thiên nhiên hài hoà đặc sắc với bãi cát vàng óng ánh bên các bãi đá hoang sơ, những mũi đá đen khổng lồ nhô ra biển cùng đồng cỏ và rừng phi lao chạy dài bát ngát. Để đến và chiêm ngưỡng vẻ đẹp Bãi Xép, hãy chạy thẳng trên đường Lê Duẩn để tới Tuy An. Cung đường biển này được lát nhựa phẳng lì với những rặng dương xanh dọc hai bên đường vô cùng đẹp, chưa đến nơi mà đã tạo cho bạn cảm giác vô cùng mát mẻ và thư thái. Chỉ đến khi được trở thành phân cảnh cho bộ phim ăn khách “Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh”, Bãi Xép mới thực sự được đông đảo du khách biết đến cho nên nơi đây vẫn chưa được khai thác phục vụ du lịch nhiều, cảnh quan vẫn giữ được nguyên vẹn vẻ hoang sơ vốn có. Mang những đặc trưng của một bờ biển đẹp, Bãi Xép sở hữu một bãi cát vàng rực rỡ ôm trọn lấy làn nước xanh màu ngọc bích trong vắt. Nhón từng bước chân nhẹ nhàng xuống biển, bạn sẽ cảm nhận được nguồn nước trong trẻo, mát lạnh tưởng như đang ở một hồ nước đá, xua tan đi sự nóng nực và và biết bao căng thẳng, mệt mỏi. Hãy men theo những đường mòn để đi lên những ghềnh đá lớn và chiêm ngưỡng vẻ đẹp Bãi Xép bao la “non xanh nước biếc”, say đắm lòng người trọn trong tầm mắt. Trên những bậc đá sừng sững hùng vĩ này, những bãi cây xương rồng dày đặc nhô ra ngay trước biển xen lẫn với những vạt cỏ khô thấm dầm mưa nắng, cùng hoà theo tiếng gió thổi và tiếng sóng vỗ rì rào vang lên âm thanh biển cả thi vị. Có lẽ ấn tượng nhất vẫn là bãi cỏ mênh mông xanh rì như một thảo nguyên nhỏ trên đỉnh Gành Xép. Không chỉ đến để chiêm ngưỡng cảnh thiên nhiên thơ mộng mà bạn còn được hoà mình vào đời sống mộc mạc, giản dị và nhịp sống trầm lắng của người dân biển Phú Yên. Vào những buổi chiều hè, bạn sẽ bắt gặp các em nhỏ hồn nhiên rong chơi vui đùa thích thú và thả diều trên những bãi cỏ rộng miên man, hay những người dân đang cần mẫn lao động chăm chỉ bờ biển. Trong chuyến thăm quan Bãi Xép, hãy kết hợp khám phá Ghềnh Đá Đĩa và Gành Đèn cũng như đừng quên thưởng thức những món ăn hải sản hấp dẫn của Phú Yên như cháo hàu, lẩu mực, cá ngừ… để có những trải nghiệm Phú Yên đầy trọn vẹn.
Đắk Lắk 3227 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Đập Tam Giang nằm cách trung tâm thành phố Tuy Hòa khoảng 30km, cách nhà thờ Mằng Lăng – 1 trong những địa điểm du lịch nổi tiếng của Phú Yên chừng 1km, là một đập tràn chắn ngang sông Cái. Ở nơi 3 dòng sông gặp nhau thông thường người ta gọi là Tam Giang nhưng ở đây lại chỉ có duy nhất một dòng sông chảy qua. Trước năm 1945, khi chưa có đập, người dân địa phương đã rất vất vả trong việc đưa nước về đồng ruộng, họ phải lặn lội lên những cánh rừng tìm những cây gỗ to nhất đem về đặt chắn ngang sông. Nhưng đến mùa mưa, nước lũ chảy xiết, những cây gỗ kè tạm bợ này lại bị cuốn trôi mất. Và những năm sau, công việc đó cứ lặp đi lặp lại. Sau đó, chính quyền đã cho xây dựng một con đập dài khoảng 800m bằng xi măng vững chãi với thiết kế tam bậc, có 3 bờ kè chắn nước. Nhìn từ xa, đập Tam Giang như một ngọn thác với những dòng nước chảy xuống tung bọt trắng xóa. Mặc dù quy mô không được lớn như đập Đồng Cam nhưng đập Tam Giang có vai trò rất quan trọng trong việc đưa nước tưới tiêu về cho các cánh đồng bát ngát ở xã An Thạch, An Ninh và An Dân của huyện Tuy An. Hơn nữa, con đập này cũng giúp ích rất nhiều khi trở thành con đường nối 2 bên bờ sông. Người dân có thể đi bộ hoặc đi xe đạp, xe máy ngang qua sông Cái một cách dễ dàng mà không phải đi thuyền qua sông, giúp tiết kiệm thời gian và công sức. Nhờ có đập Tam Giang mà việc đi lại giữa 2 bờ trở nên thuận tiện hơn (Ảnh: Sưu tầm) Đến đây, bạn sẽ cảm nhận được một không gian yên bình, lặng ngắm những con người nơi miền quê sông nước mà thấy mình như trút bỏ được mọi lo âu, mệt nhọc của cuộc sống. Không chỉ được đắm mình vào thiên nhiên sông nước hữu tình, khi đến đây bạn còn được thưởng thức những món ăn đặc sản hấp dẫn. Cá chình sông Cái là món ăn bạn không nên bỏ qua. Thịt cá chình chắc, thơm, da giòn, dai và béo với giá trị dinh dưỡng cao. Cá chình sông Cái thường được chế biến thành các món như lẩu cá chình, cá chình nướng lá chanh, cá chình nấu dưa, cá chình rang muối ớt,… Đập Tam Giang không chỉ là một công trình thủy lợi quan trọng của huyện Tuy An mà nó còn là một điểm du lịch hấp dẫn du khách bởi vẻ đẹp hoang sơ, mộc mạc như chính những con người nơi đây.
Đắk Lắk 3154 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Biển bãi Môn Phú Yên nằm giữa lòng hai ngọn núi, từ xa nhìn lại trông như một cánh cung khổng lồ. Mỗi khi sóng xô bờ lại tạo thành những xoáy nước nhìn có vẻ “đáng sợ” nhưng cẩn thận một chút là không sao. Có hai con đường để di chuyển đến nơi đây. Nếu bạn từ thành phố Tuy Hòa đến thì men theo quốc lộ 1A di chuyển khoảng 23km về hướng Đông Nam và nếu xuất phát từ thành phố Nha Trang thì bạn cũng di chuyển dọc quốc lộ 1A, nhưng đi về hướng Đông Bắc khi đến gần giữa đèo Cả thì chạy thẳng con đường Phước Tân – bãi Ngà chừng 12km, bạn sẽ đến mũi Đại Lãnh – biển bãi Môn. Cảnh sắc trên biển bãi Môn khiến bao người phải trầm trồ ngợi khen, bãi cát dài trắng mịn uốn lượn theo đường bờ biển, làn nước trong vắt soi bóng bầu trời… tất cả hợp lại tạo nên nét đẹp quyến rũ vô cùng. Đặc biệt, nơi đây không có nhiều người sinh sống mà chỉ có tàu bè neo đậu cho nên cảnh sắc vẫn còn nguyên nét hoang sơ thuở ban đầu. Được tạo hóa ưu ái ban cho cảnh sắc thiên nhiên tuyệt đẹp, khí hậu dễ chịu, không khí lại trong lành, đến với bãi Môn, bạn không chỉ có cơ hội được thả hồn hòa mình vào đất trời, ngụp lặn dưới làn nước biển trong xanh mát lạnh mà còn có được cho riêng mình những bức hình kỷ niệm khó quên. Nơi đây đẹp nhất mỗi sớm bình minh, khoảng 5h sáng khi những ánh ban mai đầu tiên trên dải đất chữ S bắt đầu hé rạng, biển Bãi Môn Phú Yên hiện lên lung linh hơn bao giờ hết, những tia nắng vàng óng chiếu xuống mặt nước biển bao la phản chiếu lại hình ảnh bầu trời vô tận… Đến du lịch biển bãi Môn xinh đẹp, các bạn đừng quên ghé thăm hải đăng Đại Lãnh trên mũi Miến Điện – điểm cực Đông của tổ quốc, để thu vào tầm mắt muôn vàn cảnh đẹp trên biển bãi Môn Phú Yên. Nằm ở phía Tây bãi Môn còn có một con suối chảy len lỏi qua các vách đá, xuyên qua khu rừng nguyên sinh Bắc Đèo Cả, chảy về phía bãi tắm rồi hòa vào đại dương vô tận. Với cảnh sắc non nước hữu tình, nơi đây cũng là một trong những địa điểm được du khách ưa thích khi du lịch khám phá bãi Môn. Với cảnh sắc thiên nhiên chan hòa, không khí trong lành tươi mát, bãi Môn Phú Yên không chỉ là địa điểm du lịch đẹp mà còn là nơi thích hợp để tổ chức các hoạt động dã ngoại lý tưởng.
Đắk Lắk 3082 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Biển Vũng Rô Phú Yên là vùng vịnh tuyệt đẹp đan xen giữa nét hũng vĩ của đồi núi và nét thơ mộng của biển cả dọc theo đường cong hình chữ S vùng duyên hải miền Trung. Rời xa khói bụi thành phố, nơi đây chính là chốn bình yên cho bạn dừng chân nghỉ ngơi, xả stress cực lý tưởng. Vịnh Vũng Rô có diện tích lên đến 16.4 km2, là ranh giới trên biển của 2 tỉnh Khánh Hòa và Phú Yên. Vùng biển được bao bọc bởi 3 dãy núi hùng vĩ và hòn đảo giữa biển trời mênh mông gồm Đèo Cả ở hướng Bắc, Hòn Bà ở hướng Tây và Đá Bia ở hướng Đông và đảo Hòn Nưa ở hướng Nam. Bầu không khí xanh mát, cùng với làn gió mát lạnh từ biển cả hay những con dốc ngoằn nghèo là điểm thu hút hàng ngàn phượt thủ tìm đến chinh phục. Ven bờ vịnh Vũng Rô Phú Yên có nhiều bãi cát vừa và nhỏ có thể kể đến như Bãi Chùa, Bãi Bàng, Bãi Lau... Nơi đây được thiên nhiên ưu ái ban tặng hàng trăm loại hải sản khác nhau và đặc biển những rạn san hô đẹp đến nao lòng. Nơi đây được Tổ chức Du lịch thế giới công nhận một trong những thắng cảnh đẹp nhất khu vực châu Á và có thể so sánh với những thắng cảnh tuyệt tác trên thế giới. Sở hữu địa hình hiểm trở, nơi đây từng là địa điểm để lại dấu ấn lịch sử oai hùng. Vũng Rô xưa kia là 1 địa chỉ tiếp nhận vũ khí bí mật từ miền Bắc chuyển vào qua những chuyến tàu không số lịch sử. Từ năm 1964 đến năm 1965, Vũng Rô đã tiếp nhận 4 chuyến tàu cập bến an toàn, đưa được hàng ngàn tấn vũ khí đạn dược chi viện cho chiến trường Nam Trung Bộ và Tây Nguyên. Vũng Rô đã được Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam công nhận là Di tích Lịch sử Văn hóa cấp quốc gia năm 1997. Thời tiết của tỉnh Phú Yên chia làm 2 mùa rõ rệt trong năm đó là mùa nắng và mùa mưa. Từ khoảng tháng 3 đến tháng 9, tiết trời ở đây mát mẻ, nắng vàng thích hợp cho các hoạt động vui chơi trên biển Vũng Rô cũng như khám phá điểm tham quan tại Phú Yên. Hơn nữa, đến biển Vũng Rô vào thời điểm này, bạn có cơ hội trải nghiệm hoạt động đánh bắt thủy sản cùng ngư dân và thưởng thức những món hải sản tươi ngon nhất. Mùa mưa thường bắt đầu từ tháng 9 đến tháng 12, lúc này thường xảy ra bão, lũ lụt và tiết trời khá lạnh. Do đó bạn hãy xem dự báo thời tiết trước khi quyết định du lịch Phú Yên vào lúc này nhé. Cách thành phố Tuy Hòa - Phú Yên khoảng 33 km, có rất nhiều phương tiện di chuyển đến Vũng Rô cho bạn lựa chọn như ô tô, xe buýt du lịch hay xe máy. Tuy nhiên, để cảm nhận trọn vẹn bầu không khí mát mẻ, thoáng đãng cùng thảm thực vật xanh mướt dọc đường thì xe máy chính là lựa chọn hoàn hảo nhất cho bạn đấy. Cách di chuyển đến biển Vũng Rô: Xuất phát từ trung tâm thành phố Tuy Hòa, bạn đi dọc theo tuyến Quốc lộ 1A. Đến lưng chừng đèo Cả, bạn sẽ thấy biển chỉ dẫn rẽ vào con đường nhỏ dẫn xuống bờ biển Vũng Rô. Đừng quên tra trước Google Map để tránh lạc đường nhé. Có thể nói, nơi đây là kiệt tác hoàn mỹ được mẹ thiên nhiên ưu ái ban tặng cho tỉnh Phú Yên xinh đẹp. Vào bất cứ thời điểm nào trong ngày, biển Vũng Rô đều khoác lên mình một sức hút mãnh liệt mê hoặc lòng người. Nếu như buổi sớm bình minh trên bãi biển nhộn nhịp thuyền đánh bắt cập bờ, đến buổi trưa oi ả, yên bình dưới bầu trời trong xanh, thì khi màn đêm buông xuống, biển Vũng Rô lại lấp lánh, thơ mộng dưới ánh trăng. Từ đỉnh đèo Cả phóng tầm mắt về phía Đông Bắc, một bức tranh thiên nhiên tươi mới, tràn đầy sức sống như hiện ra trước mắt. Màu xanh của trời, mây, nước hòa cùng nét uy nghi, hùng vĩ của các dãy núi đá, các hòn đảo đang dang tay che chở cho vịnh Vũng Rô, tạo nên nét cuốn hút đặc biệt của bờ biển này. Đến với biển Vũng Rô, bạn sẽ thỏa sức tung tăng trên bãi cát trắng mịn, thả mình phiêu du cùng những đám mây trắng bồng bềnh trôi giữa trời xanh ngắt, lắng nghe tiếng sóng vỗ rì rào cùng tiếng chim hót líu lo. Chắc chắc đây là một không gian lý tưởng cho bạn nghỉ ngơi, giải tỏa mọi căng thẳng đấy. Để chuyến khám phá biển Vũng Rô được trọn vẹn nhất, bạn cần lưu ý những điểm dưới đây. - Bạn nên lựa chọn trang phục mát mẻ, thoải mái để để dàng di chuyển cũng như trải nghiệm các hoạt động vui chơi ở đây. Bạn hãy hỏi kỹ và thương lượng giá thuê tàu, lặn san hô, và những hoạt động khác để tránh bị ép giá cao hơn. Bạn cũng có thể thuê người lái tàu như một hướng dẫn viên du lịch đồng hành trên suốt chuyến hành trình khám phá vịnh Vũng Rô để tìm hiểu về địa lý, lối sống và nhiều thông tin thú vị nơi đây. Mang theo sạc dự phòng để điện thoại và máy ảnh luôn đầy pin cho bạn thỏa sức "sống ảo" cả ngày nhé.
Đắk Lắk 3389 lượt xem
Từ khoảng tháng 3 đến tháng 9
Ngành du lịch của tỉnh Phú Yên ngày càng thu hút sự chú ý của các “tín đồ xê dịch” nhờ khung cảnh hoang sơ, bình dị. Trong đó, đầm Ô Loan là một “điểm sáng” với vẻ đẹp nên thơ, trữ tình và dần trở thành điểm check-in không thể bỏ lỡ ở địa phương này. Nếu nhìn từ trên cao xuống, bạn sẽ thấy toàn cảnh đầm như một con chim phượng hoàng khổng đồ, ôm trọn lấy những đỉnh núi xung quanh. Đặc biệt, vào lúc mặt trời vừa ló rạng hay khi mặt trời chuẩn bị xuống núi, cảnh vật nơi đây lại toát lên vẻ đẹp quyến rũ lạ thường. Có lẽ đây là 2 khung cảnh đẹp nhất trong ngày mà du khách nhất định phải chiêm ngưỡng nếu có dịp đến Phú Yên. Đến thăm đầm Ô Loan, bạn sẽ không khỏi ngỡ ngàng trước khung cảnh thiên nhiên thanh bình, hoang sơ và trữ tình hiếm thấy ở nơi nào khác. Vẻ đẹp ấy cũng đã làm say đắm biết bao nhiếp ảnh gia và cả những nhà làm phim. Khung cảnh nơi đây luôn mang vẻ đẹp lung linh, huyền ảo vào cả 4 mùa trong năm. Nếu đi dạo quanh khu vực đầm Ô Loan, bạn sẽ tìm thấy rất nhiều điểm check-in độc đáo, có thể trở thành phông nền hoàn hảo cho bức ảnh “ngàn like” của bạn. Đặc biệt, nếu có thể bắt được khung cảnh những chiếc thuyền đánh cá dần dần tiến vào bờ thì bức ảnh của bạn sẽ trở nên sinh động hơn nhiều. Thời gian tốt nhất để “săn” được những bức ảnh để đời ở đầm Ô Loan là lúc bình minh hoặc hoàng hôn, khi bầu trời được nhuộm đỏ bởi ánh mặt trời. Đó cũng là những con thuyền bắt đầu ra khơi hoặc là lúc người dân trở về nhà với một mẻ cá đầy ắp sau một ngày làm việc năng suất. Ngoài ra, khi mặt trời vừa ló rạng, đầm Ô Loan tựa như một chú chim khổng lồ đang sải cánh rộng và chuẩn bị bay vút lên bầu trời. Cũng từ góc nhìn ấy, nhưng trong ánh hoàng hôn dịu nhẹ, con đầm lại giống như một chú chim đang tìm chốn bình yên để trở về sau một ngày dài. Con đầm rộng nằm giữa núi rừng bao la tạo nên một bức tranh mộng mị với ánh sáng huyền ảo. Môi trường đầm phá của địa điểm này mang đến cho chúng ta rất nhiều loại hải sản bổ dưỡng và tươi ngon. Ngoài ra, vì con đầm nằm cận biển nên hương vị của hải sản ở đây thơm ngon không kém cạnh các vùng biển khác. Dưới đây là một số món ăn đặc sản mà bạn nhất định phải nếm thử khi đi du lịch đầm Ô Loan: Sò huyết: Đây chính là một trong những món ăn làm nên sự nổi tiếng của ẩm thực đầm Ô Loan, với kích cỡ và chất dinh dưỡng vượt trội so với sò huyết ở các khu vực khác. Những con sò béo ngậy, tươi ngon và dày thịt sẽ được chế biến theo nhiều cách khác nhau, nhưng đảm bảo giữ nguyên màu đỏ tươi đẹp mắt. Cua Huỳnh Đế: Loại cua này có màu đỏ gạch đặc trưng và phần thịt săn chắc. Các đầu bếp ở đây sẽ sử dụng tài nghệ của mình để chế biến cua Huỳnh Đế thành nhiều món ăn hấp dẫn như cua rang me, lẩu cua, cua hấp hoặc nướng. Tôm: Con đầm nước lợ này có nhiều loại tôm phong phú với đặc điểm chung là thịt dày và chắc. Bạn có thể thưởng thức món tôm đất, tôm bạc, tôm rằn hoặc gọi cả một nồi lẩu tôm để trải nghiệm trọn vẹn hương vị của loại hải sản này. Tôm: Con đầm nước lợ này có nhiều loại tôm phong phú với đặc điểm chung là thịt dày và chắc. Bạn có thể thưởng thức món tôm đất, tôm bạc, tôm rằn hoặc gọi cả một nồi lẩu tôm để trải nghiệm trọn vẹn hương vị của loại hải sản này. Khí hậu của tỉnh Phú Yên được chia làm 2 mùa rõ rệt là mùa mưa (tháng 9 đến tháng 12) và mùa khô (tháng 1 đến tháng 8 năm sau). Dù khung cảnh ở đầm Ô Loan mang vẻ đẹp riêng vào từng thời điểm khác nhau nhưng bạn vẫn nên bắt đầu chuyến đi của mình vào mùa khô. Bởi lẽ, tiết trời khô ráo vào lúc này sẽ thuận lợi hơn cho các hoạt động trải nghiệm ngoài trời của bạn. Hơn nữa, đây cũng là thời điểm lý tưởng nhất để “săn” cảnh bình minh và hoàng hôn tuyệt đẹp ở đây. Đặc biệt vào tháng giêng hàng năm, tại đầm có rất nhiều lễ hội văn hóa thú vị được tổ chức. Nếu có thể ghé thăm vào thời gian này, bạn sẽ được tham gia vào nhiều hoạt động của người dân địa phương như lễ cầu ngư, cúng thần, đua thuyền,… Còn nếu đến thăm đầm vào mùa mưa, bạn sẽ được thưởng thức nhiều hải sản tươi ngon và bổ dưỡng. Tuy nhiên, những cơn mưa có thể trở thành trở ngại cho chuyến thăm quan và bạn cũng khó có thể chụp hình check-in trong điều kiện thời tiết này.
Đắk Lắk 3366 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Di tích lịch sử mộ và đền thờ Lê Thành Phương tọa lạc tại thôn Mỹ Phú, xã An Hiệp, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên. Di tích đã được công nhận là Di tích lịch sử - văn hóa cấp Quốc gia vào năm 1996. Lê Thành Phương là danh nhân lịch sử hàng đầu ở tỉnh Phú Yên. Ông sinh năm 1825 tại làng Mỹ Phú, tổng Xuân Vinh (nay là thôn Mỹ Phú – xã An Hiệp – huyện Tuy An – tỉnh Phú Yên) trong một gia đình nho học và giàu lòng yêu nước. Thi đỗ tú tài năm 30 tuổi, ông trở về quê mở trường dạy học. Năm 1885, hưởng ứng chiếu Cần Vương của vua Hàm Nghi, Lê Thành Phương đã đứng lên chiêu tập nghĩa quân Phú Yên dựng cờ khởi nghĩa chống thực dân Pháp xâm lược. Ông được vua Hàm Nghi phong làm "Thống soái Quân vụ Đại thần". Với tài năng của Lê Thành Phương, chỉ sau 1 tháng, ông đã tập hợp được vài nghìn người kéo cờ khởi nghĩa. Bấy giờ, ai ai cũng biết đến ông với danh xưng “Thống soái quân vụ đại thần”. Ông tiến hành chia phân khu chiến đấu thành 2 khu, một là từ đèo Cù Mông đến đèo Tam Giang, hai là từ đèo Tam Giang tới đèo Cả. Chỉ trong thời gian ngắn, cuộc nổi dậy của ông đã nhiều phen làm giặc Pháp khiếp sợ. Tháng 2 – 1887, Lê Thành Phương bị địch bắt do có tay sai chỉ điểm. Ngày 20/2/1887 (nhằm ngày 28 tháng Giêng năm Đinh Hợi), vì không dụ dỗ mua chuộc được ông, tên việt gian Trần Bá Lộc đã ra lệnh xử tử Lê Thành Phương cùng nhiều sỹ phu yêu nước khác tại Bến Cây Dừa (thuộc xã An Dân, huyện Tuy An ngày nay). Cuộc khởi nghĩa do Lê Thành Phương tổ chức và lãnh đạo ở Phú Yên là một bộ phận quan trọng của phong trào Cần Vương toàn quốc, có ảnh hưởng tích cực và mạnh mẽ đến phong trào Cần Vương ở các tỉnh Nam Trung bộ. Cuộc khởi nghĩa Lê Thành Phương là trang sử vẻ vang trong quá trình đấu tranh chống ngoại xâm giành độc lập dân tộc vô cùng anh dũng, hào hùng của nhân dân Phú Yên và mãi mãi là niềm tự hào của nhân dân Phú Yên. Ông đã nêu cho tấm gương sáng ngời về ý chí kiên cường bất khuất và tinh thần anh dũng hy sinh vì dân vì nước. Di tích Mộ và Đền thờ Lê Thành Phương tại thôn Mỹ Phú – xã An Hiệp – huyện Tuy An – tỉnh Phú Yên đã được nhà nước chính thức công nhận là Di tích Lịch sử - Văn hóa cấp quốc gia vào năm 1997. Từ đó, đã trở thành truyền thống, cứ đến ngày 27 và 28 tháng Giêng hằng năm, huyện Tuy An, chính quyền xã An Hiệp phối hợp với Sở Văn hoá - Thể thao và Du lịch tỉnh Phú Yên tổ chức lễ tưởng niệm đến vị “Thống soái quân vụ đại thần” Lê Thành Phương, người con yêu tú của quê hương Phú Yên. Đây cũng là dịp để nhân dân khắp nơi trong tỉnh Phú Yên, nhất là huyện Tuy An tụ hội về tham gia các hoạt động truyền thống, các trò chơi dân gian được tổ chức như: Đẩy gậy, kéo co nam, nữ, đi cà kheo, chạy 3 chân, vừa chạy vừa lắc vòng, vừa hành quân vừa nấu cơm, thi cờ tướng, cờ người, cắm trại đẹp, thi hát dân ca, hội bài chòi và liên hoan văn nghệ. Nguồn: Trung Tâm Xúc Tiến Thông Tin Du Lịch Phú Yên
Đắk Lắk 4859 lượt xem
Nhà đày Buôn Ma Thuột tọa lạc tại số 17 đường Tán Thuật - phường Tự An - thành phố Buôn Ma Thuột. Được xây dựng trong những năm 1930 – 1931, Nhà đày là nơi giam giữ, đày ải tù chính trị chủ yếu ở các tỉnh Trung kỳ. Tên gọi Nhà đày Buôn Ma Thuột một mặt bắt nguồn từ tên gọi do thực dân Pháp đặt: Pénitencier de Ban Mê Thuột, mặt khác là do tính chất, loại hình các nhà giam của thực dân Pháp. Nhà đày được xây dựng với tổng diện tích gần 2ha, với 4 bức tường bao quanh cao 4m, dầy 40cm, 4 góc đều có vọng gác và có lính canh 24 trên 24 giờ. Phía trong có 6 dãy lao tập thể, các dãy xà lim… đây là nơi giam cầm, đày ải và thủ tiêu các chiến sĩ cách mạng với một chế độ hết sức khắc nghiệt và tàn bạo. Tại Trung Kỳ, Cao nguyên Đắk Lắk bấy giờ bị bao vây giữa bốn bề núi rừng trùng điệp, rậm rạp, nhiều thú dữ. Khí hậu khắc nghiệt, độc địa nóng lạnh thất thường, độ ẩm cao nhiều mầm bệnh nguy hiểm như sốt rét, kiết lỵ, thổ tả dễ phát sinh. Với địa hình cao nguyên rộng, xen kẽ nhiều rừng rậm bao bọc bởi nhiều núi cao, một phía là biên giới với nước ngoài, lại bị chia cắt bởi nhiều thung lũng, sông suối, ít có đường sá, cầu cống. Vào khoảng năm 1900, một nhà lao đã được người Pháp đã xây dựng lên dùng để giam tù chính trị. Tại đây, vùng đất hoang vu, khí hậu độc địa, ít người lui tới, sự khác biệt về ngôn ngữ văn hóa với người dân tộc Ê Đê, hình thành nhà lao giam giữ thì tù nhân khó bề trốn thoát. Cuối thập niên 1920 đầu 1930, phong trào chống thực dân tại Đông Dương tăng cao khi những người bản xứ tiếp thu các tư tưởng cách mạng phương Tây. Số lượng tù nhân chính trị ngày càng tăng cao. Chính quyền liên tục phải mở rộng và xây mới các nhà tù và nhà đày làm nơi lưu đày biệt xứ và giam giữ những nhà cách mạng dân tộc bản xứ bị xử án nặng trên lãnh thổ Đông Dương. Ban đầu Khâm sứ Trung Kỳ chọn xây dựng nhà đày tại huyện Lăk, cách thị xã Buôn Ma Thuột khoảng 50 km. Tuy nhiên, tỉnh trưởng Đắk Lắk bấy giờ đã đề nghị nên xây dựng nhà đày ngay tại thị xã Buôn Ma Thuột trên cơ sở mở rộng nhà lao cũ, với lý do việc xây dựng nhà đày mới đòi hỏi một chi phí lớn trong khi thời đó nước Pháp đang lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1929; đồng thời, nếu xây dựng ở Lăk thì việc giải tù nhân đi rất xa, tốn kém nhiều thời gian. Từ những lý do đó, Khâm sứ Trung Kỳ quyết định chọn thị xã Buôn Ma Thuột là nơi xây dựng nhà đày. Nhà đày Buôn Ma Thuột do thực dân Pháp thiết lập trong thời kỳ 1930 - 1931 để đày biệt xứ và giam giữ những người yêu nước, những đảng viên cộng sản bị bắt, bị xử án nặng ở các tỉnh Trung Kỳ, những người đi đầu trong các cuộc đấu tranh phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh. Một điểm đặc biệt khác với các nhà tù, nhà đày khác là tù nhân phải tự làm nhà tù để giam giữ chính họ đó là cách nổi bật nhất mà thực dân Pháp tiến hành ở nhà đày Buôn Ma Thuột. Nhà đày toạ lạc trên một khuôn viên rộng gần 2 ha vị trí này gần toà công sứ, trại lính khố xanh, nhà lao tỉnh. Đây là một đồi ít cây lớn, cho phép những xe tải dễ lui tới vận chuyển nguyên vật liệu. Bản thiết kế và kế hoạch do kỹ sư trưởng, giám đốc công chính Trung kỳ soạn thảo. Từ năm 1930 Nhà đày Buôn Ma Thuột đã giam giữ những người hoạt động như: Hồ Tùng Mậu, Phan Đăng Lưu, Nguyễn Chí Thanh, Tố Hữu, Hồng Chương, Bùi San, Trần Văn Quang, Ngô Đức Độ, Ngô Xuân Hàm... Di tích lịch sử nhà đày Buôn Ma Thuột còn được nhắc đến với tên gọi nhà phạt. Nơi đây cũng giống như bao nhà tù trên khắp nước Việt Nam, nó không những là minh chứng rõ ràng nhất cho tội ác tàn độc của Đế quốc – Thực dân, mà nơi đây còn được coi như một ngôi trường lớn đã tạo nên những người chiến sĩ cách mạng kiên trung cho đất nước. Nhà đày Buôn Ma Thuột là một di tích lịch sử tại Đắk Lắk, với kết cấu là một di tích hệ thống nhà tù (nhà đày) cũ từ thời Pháp thuộc. Ngày 10 tháng 7 năm 1980 Nhà đày được Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận là di tích cấp quốc gia. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Đắk Lắk
Đắk Lắk 3823 lượt xem
Di tích lịch sử đồn điền ca da trải dài từ km 18 đến km 47 dọc hai bên quốc lộ 26 thuộc xã Ea Kênh và Ea Yông, huyện Krông Pắk. Ca da là chữ viết tắt của Công ty Nông nghiệp Á Châu, do người Pháp xây dựng vào năm 1922 để trồng cà phê, chè. Ca da là nơi thực dân Pháp mở đầu cho việc cướp đoạt đất đai để khai thác tài nguyên một cách quy mô trong quá trình khai thác thuộc địa ở Đắk Lắk, việc lập đồn điền và du nhập chủ nghĩa tư bản thực dân đã phá vỡ nền kinh tế truyền thống của các dân tộc thiểu số nơi đây. Quá trình khai thác mạnh nhất của thực dân Pháp tại Đồn điền ca da bắt đầu từ năm 1925 đến năm 1934, chúng bóc lột công nhân bằng đồng lương rẻ mạt và đối xử vô cùng tàn nhẫn. Chính trong thời điểm này, giai cấp công nhân đã ra đời và phát triển mạnh mẽ. Năm 1940, Chi bộ Đảng cộng sản đầu tiên được thành lập tại Nhà đày Buôn Ma Thuột, chính nơi đây ngọn lửa, đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam được nhen nhóm, làm nòng cốt lan rộng khắp nơi, đóng vai trò hết sức to lớn đối với phong trào giải phóng dân tộc ở Đắk Lắk. Cuối năm 1944, Chi bộ Nhà đày đã xây dựng được những cơ sở trong đồn lính khố xanh, thành lập một số tổ chức bán hợp pháp để hoạt động lan toả khắp các đồn điền mà mạnh nhất là đồn điền ca da. Năm 1945, ca da – nơi có phong trào và tổ chức vững mạnh được Ban Chấp hành lâm thời chọn giao nhiệm vụ nòng cốt trong cuộc khởi nghĩa. Ca da cũng là nơi huấn luyện, tập hợp lực lượng để cướp chính quyền đầu tiên và là hậu cứ tiếp tục chiến đấu nếu cuộc khởi nghĩa chưa thành công. Các tổ chức bí mật cũng được thành lập, với những đồng chí trung kiên như: Trần Thử, Trần Phòng, Mai Nguyên, Trần Cối, Nguyễn Tâm Thu và Trần Thị Thủy. Cũng chính nơi đây, bộ máy cai trị của thực dân Pháp sau hơn 40 mươi năm xây dựng đã bị sụp đổ đầu tiên ở Đắk Lắk. Quá trình ra đời và trưởng thành của công nhân đồn điền Ca da đã khẳng định sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng Đắk Lắk, có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 và cuộc Tổng tiến công nổi dậy mùa Xuân 1975 ở tỉnh Đắk Lắk. Sau ngày đất nước thống nhất, Đồn điền Ca da được giao cho Công ty Nông nghiệp Đắk Lắk quản lý, trên cơ sở đó năm 1977 Nông trường cà phê Phước An được thành lập, tiếp đó tháng 5/1989 Nông trường cà phê Tháng 10 ra đời. Hai Nông trường này đã có nhiều đóng góp trong công cuộc xây dựng và phát triển tỉnh Đắk Lắk nói chung và huyện Krông Pắk nói riêng. Với giá trị lịch sử và hiện trạng của Đồn điền ca da, ngày 26/01/1999, Bộ trưởng Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) đã ban hành Quyết định số 02/1999/QĐ-BVHTT xếp hạng Di tích lịch sử ca da, xã Ea Yông, huyện Krông Pắk, tỉnh Đắk Lắk là Di tích quốc gia. Nguồn: Bảo tàng tỉnh Đắk Lắk
Đắk Lắk 3742 lượt xem
Danh nhân Lương Văn Chánh là người Bắc Hà, dưới triều vua Lê Thế Tông được phong chức Thiên Vũ vệ Đô chỉ huy sứ. Năm Mậu Dần – 1578, Lương Văn Chánh được chúa Nguyễn Hoàng cử vào ổn định vùng đất từ đèo Cù Mông đến đèo Cả. Nhờ có công lớn, ông được thăng chức Đặc tiến Phụ quốc Thượng tướng quân, sau làm Trấn Biên quan. Sau đó ông chiêu tập lưu dân vùng Thanh – Nghệ, Thuận Hoá và các nơi khác đến khai phá đất hoang, kết lập gia cư, làng mạc ở vùng Cù Mông, Bà Đài và dọc theo sông Đà Rằng. Ông đem kinh nghiệm khẩn hoang vào áp dụng ở Phú Yên, cùng với người dân làm cho vùng đất này trở nên trù phú, làng xóm dần được hình thành. Đây là cơ sở để chúa Nguyễn lập ra phủ Phú Yên vào năm 1611. Ông Lương Văn Chánh qua đời ngày 19 tháng Chín năm Tân Hợi 1611. Mộ Lương Văn Chánh nằm trên một gò cao, quay mặt ra phía sông Bến Lội, hướng về núi Chóp Chài. Đền thờ Lương Văn Chánh nằm ở địa hình thông thoáng, phía trước là sông Bến Lội, phía sau là núi Cấm. Trong khuôn viên còn có cây bồ đề cổ thụ cành lá xum xuê, che mát cả một góc đền, được Hội Bảo vệ thiên nhiên và môi trường Việt Nam công nhận là cây Di sản Việt Nam năm 2014. Để bày tỏ sự ngưỡng mộ, tri ân của thế hệ hôm nay đối với bậc tiền nhân đã có công khai cơ lập nghiệp; thể hiện đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, đáp ứng nguyện vọng cũng như sự mong đợi của cán bộ, nhân dân trong tỉnh và cả nước, Tỉnh Phú Yên đã cho đúc tượng danh nhân Lương Văn Chánh để thờ ngay tại Đền của ông, tượng được đúc bằng đồng có chiều cao 1,4 mét, tư thế ngồi trên ghế tựa, tay cầm chiếu chỉ, được đặt ngay chính điện đền thờ, thể hiện sự tôn nghiêm trang trọng. Hàng năm, vào ngày mùng 6 tháng 2 và ngày 19 tháng 9 (Âm lịch), Phú Yên tổ chức Lễ hội Đền thờ Lương Văn Chánh với sự tham gia của đông đảo nhân dân và thu hút nhiều du khách đến tham quan tìm hiểu. Di tích khu Mộ và Đền thờ Lương Văn Chánh được xếp hạng là Di tích lịch sử cấp Quốc gia ngày 27/9/1996. Nguồn: Trung Tâm Xúc Tiến Du Lịch Tỉnh Phú Yên
Đắk Lắk 3726 lượt xem
Đền thờ Đức Thánh Trần tọa lạc tại số 291, đường Trần Hưng Đạo, phường An Lạc, thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk. Năm 1947, trên một mảnh đất nhỏ ở thị trấn Buôn Hồ, huyện Krông Buk (nay là thị xã Buôn Hồ), nhân dân đã dựng Đền thờ Đức Thánh Trần để tỏ lòng thành kính, biết ơn và tôn vinh vị anh hùng dân tộc Trần Hưng Đạo - người có công lớn trong ba lần chiến thắng quân Nguyên - Mông, đã đi vào lịch sử, đi vào thế giới huyền thoại, thế giới tâm linh, trở thành vị “Thánh” thiêng liêng được toàn thể nhân dân thờ phụng, được dân gian phong là một trong “Tứ bất tử” của dân tộc Việt Nam. Ban đầu Đền được dựng tạm từ những cây rừng và vách ván, mái lợp tôn, chính giữa Đền đặt một trang thờ và treo bức tranh Trần Hưng Đạo bằng giấy. Ngay từ lúc mới hình thành, nhân dân đã bầu Ban quản trị Đền để phục vụ công tác quản lý, tế lễ, hương khói hàng tháng, hàng năm. Đến năm 1964, Ban quản trị Đền đứng ra khởi xướng, kêu gọi nhân dân thị xã Buôn Hồ quyên góp thêm tiền mua đất đai, vật liệu và dỡ bỏ ngôi Đền cũ, xây dựng Đền thờ Đức Thánh Trần bằng tường gạch, mái lợp tôn. Để có được khuôn viên và Đền thờ khang trang như ngày nay, Đền đã trải qua nhiều lần trùng tu, tôn tạo, mở rộng diện tích như: Năm 1972 cải tạo, mở rộng chánh điện; năm 2004 mua thêm đất; năm 2006 lát nền; 2012 làm sàn. Tuy nhiên, do được xây dựng trong hoàn cảnh đất nước đang xảy ra chiến tranh và điều kiện kinh tế - xã hội của địa phương còn khó khăn nên Đền thờ chưa thể xây dựng theo kiểu kiến trúc cổ truyền của một số Đền thờ Đức Thánh Trần ở Hải Dương, Hà Nội, Thanh Hóa, thành phố Hồ Chí Minh,... Hiện nay, Đền thờ Đức Thánh Trần nằm trong một khuôn viên rộng với tổng diện tích là 525,8m2, với các hạng mục: Cổng Đền, sân trước, Đền thờ, sân sau. Nơi thờ chính của Đền là Nội điện (hậu cung), được xây dựng lồi ra phía sau so với Tiền đường, không được chia ra nhiều gian và cũng không có cửa khép kín như ở các ngôi Đền ở các tỉnh phía Bắc mà chỉ gồm một gian được thông thẳng với gian giữa Tiền đường. Nội điện không có cửa khép kín mà được trang trí bằng viền khung gỗ với hoa văn rồng mây ở lối đi vào, hai bên treo hai câu đối: “Bạch Đằng Vạn Kiếp dân Việt nhớ ơn. Hàm Tử Chương Dương quân Nguyên khiếp vía” Bức hoành phi cao 60 cm, rộng 3,6 m, sơn son với 4 chữ Hán: “Trần triều hiển thánh” được treo trang trọng ngay trên cửa vào Nội điện. Hương án ở Nội điện gồm có 3 tầng: Tầng trệt là nơi thờ Ngũ hổ (biểu tượng cho sức mạnh thiêng liêng có thể diệt trừ ma tà, trấn giữ các phương, là thần linh canh cửa ở các ngôi Đền) với hai bức tranh Ngũ hổ và một đỉnh đồng được đặt chính giữa trang thờ, hai bên đặt hai chân nến bằng đồng và một tượng Hổ bằng đồng để mong cầu no đủ, an lành; Tầng thứ hai của hương án Nội điện cao 50 cm, rộng 1,8 m, đây là nơi đặt bát nhang và một Ấn Đền Trần được lồng trong một khung kính với chiều ngang 30 cm, chiều cao 60 cm. Đây là Ấn Đền Trần được nhà báo Trần Quang Tuấn thỉnh từ Đền Trần của tỉnh Nam Định đem về tặng lại cho Ban Quản lý Đền thờ Đức Thánh Trần ở Đắk Lắk vào Tết năm 2016. Trên trang thờ cũng đặt hai chân nến và một đỉnh trầm bằng đồng được trang trí hình Lân tượng trưng cho sự thông minh, sức mạnh, kiểm soát tâm hồn người đến hành lễ; Tầng thứ ba – tầng cao nhất của hương án chính là nơi đặt tượng Trần Hưng Đạo bằng thạch cao, tượng cao khoảng 1,1 m, bề ngang khoảng 50 cm, được đặt trên một đế tượng dày 60 cm, cao 20 cm. Tượng được đúc ở thế ngồi trên ghế Rồng, tay cầm kiếm, với trang phục màu đỏ và nét mặt uy nghiêm để thể hiện sức mạnh, ý chí, tinh thần chống giặc ngoại xâm của một thiên tài quân sự Việt Nam. Bên trái của tượng Trần Hưng Đạo đặt một cây kiếm, một bộ quan phục cùng với một đôi hài vải thêu hoa văn trang trí và một tủ kính đựng lễ phục màu vàng. Hai bên của tượng Trần Hưng Đạo còn đặt tượng hai con Kỳ Lân bằng gỗ (trong văn hóa Việt Nam thì Kỳ Lân cũng là con vật báo hiệu điềm lành, là biểu tượng cho sự trường thọ, sự nguy nga đường bệ và niềm hạnh phúc lớn lao). Đặc biệt, hai bên hương án còn dựng hai thành đao bằng đồng có hoa văn trang trí hình rồng và cao khoảng 1,8 m để tăng thêm vẻ uy nghi, tôn nghiêm cho điện thờ trong Nội điện. Đền thờ Đức Thánh Trần là nơi thờ vọng để tưởng nhớ công ơn của người anh hùng dân tộc Trần Hưng Đạo. Trong kháng chiến chống Mỹ, Đền thờ Đức Thánh Trần là một địa điểm cung cấp, tiếp tế lương thực, thực phẩm, thuốc men cho cách mạng, chủ yếu là cung cấp cho các đội công tác dọc tuyến H4 (mật danh của các huyện Buôn Hồ, Krông Năng, Krông Buk). Ngoài ra, Ban Quản trị Đền do các cụ Đặng Văn Đậu, Năm Phụng, Hà Hạnh,… đã vận động, kêu gọi chủ đồn điền cà phê Rossi đứng ra móc nối với lực lượng Bảo An tại khu vực H4 để che giấu cho việc tiếp tế lương thực, thực phẩm, thuốc men, đạn dược tại Đền thờ Trần Hưng Đạo trong những năm kháng chiến chống Mỹ. Với ý nghĩa đó, ngày 29/9/2017, Ủy ban Nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã xếp hạng Đền thờ Đức Thánh Trần là Di tích lịch sử cấp tỉnh. Nguồn: Bảo tàng tỉnh Đắk Lắk
Đắk Lắk 3652 lượt xem
Ngày 5/10/1930, tại nhà đồng chí Phan Lưu Thanh, ở xóm Đồng Bé, thôn Phước Long, xã Xuân Long (nay là khu phố Long Bình, thị trấn La Hai, huyện Đồng Xuân), đã tổ chức Hội nghị Đảng viên, tuyên bố thành lập Chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên ở tỉnh Phú Yên gồm có 8 đảng viên, đồng chí Phan Lưu Thanh được bầu làm Bí thư. Đến tháng 01/1931, Tỉnh ủy Phú Yên được thành lập. Ngày 18/6/1997, Nơi thành lập Chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên ở tỉnh Phú Yên đã được xếp hạng là Di tích lịch sử cấp Quốc gia. Sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (03/2/1930), một số thanh niên trí thức yêu nước ở Phú Yên tìm cách liên lạc với các tổ chức Cộng sản để tổ chức các cuộc đấu tranh. Cuối năm 1929, cuộc vận động thành lập tổ chức cộng sản có nhiều chuyển biến tích cực, gắn liền với quá trình hoạt động của một tập thể chiến sỹ cách mạng, trong đó tiêu biểu nhất là đồng chí Phan Lưu Thanh. Đồng chí Phan Lưu Thanh sinh năm 1906, quê ở xóm Đồng Bé, thôn Phước Long, xã Xuân Long, huyện Đồng Xuân (nay là khu phố Long Bình, thị trấn La Hai, huyện Đồng Xuân), là một thanh niên yêu nước sống trong cảnh đất nước lầm than, đã tích cực tham gia các tổ chức yêu nước lúc bấy giờ như: Hưng nghiệp hội xã, Hội Việt Nam cách mạng thanh niên... Được tuyên truyền và giác ngộ về lý tưởng chủ nghĩa cộng sản, đồng chí Phan Lưu Thanh đã tích cực hoạt động để gây dựng cơ sở cộng sản. Với việc tổ chức những hoạt động cách mạng có ý nghĩa lịch sử, đồng chí Phan Lưu Thanh được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam tại Chi bộ Thị Nghè (Sài Gòn) vào tháng 8/1930 và được cử về La Hai, Đồng Xuân, Phú Yên để tiếp tục gây dựng cơ sở. Đồng chí đã liên lạc, móc nối, tập hợp một số thanh niên tiến bộ trước đây, cùng tiếp tục hoạt động tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản, treo cờ búa liềm, rải truyền đơn ở La Hai, Tuy An, Tuy Hòa, Tỉnh lỵ Sông Cầu... Những hình thức này đã gây ảnh hưởng trong quần chúng, tạo điều kiện cho quần chúng công nông tiếp xúc với chủ trương của Đảng, kích thích tinh thần yêu nước trong một số thanh niên, học sinh có ý thức dân tộc theo tư tưởng cộng sản. Qua tuyên truyền, giác ngộ, thử thách, đồng chí Phan Lưu Thanh đã kết nạp một số đồng chí ưu tú vào Đảng. Trước sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng trong tỉnh. Ngày 5/10/1930, đồng chí Phan Lưu Thanh tổ chức cuộc họp toàn thể đảng viên tại nhà của mình bàn việc thành lập Chi bộ Đảng Cộng sản. Sau khi tiến hành các thủ tục theo quy định của Đảng, trong không khí trang nghiêm và thiêng liêng, đồng chí Phan Lưu Thanh tuyên bố thành lập Chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên ở Phú Yên. Chi bộ có 9 đảng viên. Sự ra đời của Chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên ở Phú Yên đã mở ra một thời kỳ mới cho phong trào cách mạng ở Phú Yên, đáp ứng được nguyện vọng bức thiết của giai cấp công nhân, nông dân, đội ngũ lớp trí thức và nhân dân lao động ở Phú Yên. Từ đây, phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân Phú Yên có sự soi đường, dẫn lối của tổ chức những người cộng sản - nhân tố có tính chất quyết định cho sự thắng lợi của phong trào cách mạng ở Phú Yên sau này. Nguồn: Trang Thông tin điện tử Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Phú Yên
Đắk Lắk 3626 lượt xem