Khám phá lịch sử, văn hóa, con người và cảnh đẹp Việt Nam trên ứng dụng du lịch Travelviet
Tải ứng dụng Travelviet
Chùa Dâu
Bắc Ninh 1879 lượt xem
Khu du lịch nổi tiếng Khuôn Thần có vị trí tại huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang. Điểm đến nay cách Hà Nội khoảng 100km và cách thành phố Bắc Giang khoảng 50 km (phố Chũ). Từ trung tâm thị trấn Chũ rẽ trái khoảng 10 km, một khung cảnh tuyệt sắc hiện lên trước mắt. Hồ nước trong xanh soi bóng mây trời cùng với những hòn đảo nhấp nhô. Hồ Khuôn Thần không chỉ mang vẻ đẹp đơn thuần mà còn khiến du khách đắm say. Nơi đây mang vẻ đẹp giao hoà giữa khí – trời – đất. Một cảnh quan, môi trường sinh thái trong lành. Hồ Khuôn Thần hiện lên nổi bật giữa một bức hoạ thiên nhiên muôn màu sắc. Bức hoạ ấy được thuê dệt từ màu xanh bạt ngàn của rừng, trời, mây, non nước. Với diện tích khoảng 240ha, nơi đây được bao bọc bởi những rừng thông, chàm, keo tai tượng tươi tốt. Cảnh sắc ấy lại được điểm tô thêm bởi màu đỏ rực rỡ của những đồi vải đang vào mùa thu hoạch. Thêm vào đó là những rặng liệu nghiêng mình toả bóng. Nét đẹp của Hồ Khuôn Thần càng trở nên cuốn hút hơn bởi những hòn đảo to nhỏ nổi lên giữa mặt nước. Trên các đảo được phủ thông và các cây loại cây ăn quả khác nhau. Tạo hoá đã ban cho khu du lịch Khuôn Thần một cảnh sắc tuyệt tác. Đến nơi đây, du khách có thể thả hồn trên du thuyền. Lênh đênh giữa hồ, cảm nhận sự mênh mông, yên bình và đắm mình trong cảnh sắc thiên nhiên huyền ảo. Vẻ đẹp của trời, mây, non nước hoà quyện lại trước mắt. Khi lên tởi đỉnh đập nước hồ Khuôn Thần, du khách có thể cảm nhận thêm cảnh mênh mông, hùng vĩ, và thơ mộng của trùng điệp nủi rừng. Đặc biệt, vào mùa mưa, nước chảy từ đỉnh đập Khuôn Thần ào ào xuống thung lũng ven hồ tạo thành cảnh sắc ngoạn mục. Trên đường đi, du khách có thể dừng chân ghé thăm các đảo nổi. Trên các đảo này được trồng thông và các cây ăn quả: vải, nhãn,..Không giãn bao la bình yên, trữ tình và thi mộng. Ngồi trên những thảm cỏ xanh mát, dưới những hàng thông vi vu toả bóng. Hay ngả mình trên những chiếc võng đu đưa dưới những cây nhãn. Hoà mình trọn vẹn vào thiên nhiên, làn gió nhẹ thổi cuốn đi hết những ưu phiền. Mỗi nơi sẽ có những thời điểm riêng để phô ra trọn vẹn những vẻ đẹp vốn có của mình. Với hồ Khuôn Thần, nơi đây có không khí mát mẻ, trong lành nên bạn có thể đến vào mọi thời điểm trong năm. Tuy nhiên, mùa hè có lẽ là mùa đến đây lý tưởng nhất. Trái ngược với cái nắng nóng bụi bặm của thành phố. Vào mùa hè, các bạn có thể dành thời gian để đến với khu Khuôn Thần. Nơi đây mang lại cho bạn cái mát lạnh của hồ cùng không khí trong lành. Không những thế, bạn còn được ngắm nhìn sắc đỏ của đồi vải rực rỡ, thưởng thức những trái vải thơm ngon. Một cảm giác thoải mái, dễ chịu tại nơi đây. Không gian, cảnh vật, con người nơi đây đã khiến khu du lịch Hồ Khuôn Thần trở thành một điểm đến lý thú. Trải nghiệm Hồ Khuôn Thần chắc chắn sẽ là một kỷ niệm khó quên với vẻ đẹp của con người, cảnh sắc mộng mơ mang sức hấp dẫn kỳ lạ giữa chốn sơn trang. Nơi đây chính là một điểm đến lý tưởng dành cho những ai yêu thích, khám phá thiên nhiên. Cũng là nơi dừng chân dành cho những ai muốn tìm một nơi bình yên, thư giãn.
Bắc Ninh 3362 lượt xem
Tháng 3 đến tháng 10
Mỗi tỉnh thành Việt Nam đều được ưu ái cho những cảnh sắc thiên nhiên phong phú, các danh lam thắng cảnh độc đáo. Bắc Giang cũng không nằm ngoài sự ưu ái đó. Nhắc đến Bắc Giang là nhắc đến các khu di tích tâm linh như chùa Vĩnh Nghiêm, chùa Bổ Đà, đình Lỗ Hạnh, Lăng Dinh Hương, Lăng Họ Ngọ gắn với nền văn hóa truyền thống độc đáo và lâu đời. Nhắc đến Bắc Giang là nhắc đến các địa điểm du lịch nổi tiếng như Đồng Cao, Suối Nước Vàng, Hồ Cấm Sơn,… và không thể không nói đến Rừng nguyên sinh Khe Rỗ. Sở dĩ nơi đây có cái tên như vậy là do đặc trưng địa hình với những khe sâu, núi cao, rừng già và đặc biệt khi thời tiết thay đổi thì ở Khe Rỗ lại vang lên những âm thanh như thác đổ. Chính vì vậy người dân nơi đây mới gọi tên là "Khuổi Lồ" đọc theo tiếng phổ thông có nghĩa là Khe Rỗ. Nằm trong khu bảo tồn Tây Yên Tử, cảnh sắc thiên nhiên ở rừng nguyên sinh Khe Rỗ vô cùng hoang sơ và có một chút bí ẩn đủ sức làm các du khách tò mò. Chính vì thế, nơi đây nhanh chóng trở thành điểm đến thú vị đối với những du khách ưa khám phá và muốn thư giãn cùng thiên nhiên. Rừng nguyên sinh Khe Rỗ có tổng diện tích tự nhiên 7.153ha, nằm trong ba lưu vực Khe Rỗ, Khe Đin và Khe Nước Vàng. Rừng ở đây rất phong phú về động, thực vật đặc biệt là những loài quý hiếm. Đặc biệt, rừng nguyên sinh Khe Rỗ rất nổi tiếng với cây đa tình đã trên 500 tuổi, vừa là nơi hò hẹn, vừa là nơi kết duyên, vừa là nơi chứng kiến biết bao câu chuyện tình đẹp của những chàng trai, cô gái An Lạc. Do đặc điểm địa hình mà nơi đây nhanh chóng trở thành một khu du lịch nghỉ dưỡng, sinh thái cuối tuần hấp dẫn. Đến Khe Rỗ, du khách không chỉ được đắm mình trong làn nước suối trong vắt, mà còn được trải nghiệm nhiều hoạt động vui chơi thú vị, đặc biệt là hoạt động trải nghiệm cuộc sống, văn hóa của đồng bào. Hiện trong bản có nhiều hộ gia đình có dịch vụ lưu trú qua đêm cho khách du lịch với sức chứa vài chục khách mỗi đêm.
Bắc Ninh 3573 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
“Tháng Tám giỗ Cha, tháng Ba giỗ Mẹ”, hàng năm vào ngày 30-3 và 1-4 âm lịch, nhân dân các dân tộc vùng chân núi sườn Tây Yên Tử, huyện Lục Nam (Bắc Giang) lại nô nức trẩy hội Suối Mỡ. Lễ hội tưởng nhớ vị nữ thần Mỵ Nương Quế Hoa được suy tôn là Thánh Mẫu Thượng Ngàn đã có công khai phá đất đai, khơi dòng suối mát, dạy dân cày cấy để có cuộc sống ấm no. Theo các tài liệu xưa ghi chép lại, đền Suối Mỡ thờ Thánh Mẫu Thượng Ngàn từng được sắc phong: “Thần thông quảng đại càn, thập nhị tôn nàng Vực Mỡ”. Mẫu Thượng Ngàn được thờ ở Suối Mỡ là Mỵ Nương Quế Hoa, con Vua Hùng Định Vương và Hoàng hậu An Nương. Hoàng hậu sinh ra nàng bên gốc quế rồi mất. Lớn lên, Quế Hoa luôn nhớ thương mẹ nên đã đi vào rừng sâu để tìm dấu vết người mẹ hiền. Tới khu thung lũng là xã Nghĩa Phương ngày nay, vùng đất phẳng phiu rộng rãi nhưng cây cỏ héo tàn, xơ xác do thường xuyên hạn hán, Quế Hoa nghĩ rằng phải tìm nước về cho người dân sinh sống. Sau nhiều ngày đường vất vả, công chúa bắt gặp hồ nước mênh mông, đang băn khoăn tìm cách mở đường đưa dòng nước mát về nơi khô hạn, thì được một cụ già râu tóc bạc phơ cho quyển sách luyện phép lạ cứu đời. Quế Mỵ Nương bèn lập một hành cung làm nơi tu luyện và đã thành công. Nàng xoè năm ngón tay ấn xuống tạo thành sức mạnh kỳ lạ khiến núi nứt ra, đá ầm ầm xô chuyển, nước từ các khe ào ào dốc xuống vùng đất thấp rồi chảy thành dòng êm ả. Từ đó cây cối mọc lên, chim chóc kéo tới, đời sống nhân dân ngày càng no ấm. Khi đó, Mỵ Nương Quế Hoa cùng 12 thị nữ bay về trời trên đám mây ngũ sắc. Để tưởng nhớ công ơn bà, dân bản lập bàn thờ tại nơi bà đưa nước nguồn về và gọi là đền Suối Mỡ. Đời sau đều tôn là Thánh Mẫu Thượng Ngàn. Suối Mỡ quanh năm nước chảy rì rào bắt nguồn từ khu vực Đá Vách và Hố Chuối rồi xuôi dòng qua năm bậc thác mẹ, thác con nối tiếp. Tương truyền đó chính là dấu năm ngón tay của nàng công chúa Mỵ Nương. Dọc theo con suối thiêng, nhân dân xây dựng một quần thể di tích gồm: Đền Hạ, đền Trung và đền Thượng. Dấu tích cũ cho biết, quần thể di tích có niên đại từ thời Lê – Mạc và đã được tu sửa, tôn tạo qua nhiều giai đoạn. Đến với lễ hội Suối Mỡ là đến với vẻ đẹp sơn thuỷ hữu tình. Với quãng đường 7 km, du khách có thể chiêm ngưỡng toàn cảnh nơi đây với nước suối trong lành và cây lá xanh tươi cùng hệ thống công trình: Đền Hạ, Đền Trung, Đền Thượng, Bãi Quần Ngựa, Đền Trần, Khu Ba Dinh Bẩy Nền, Chùa Hòn Trứng, Đình Xoan và chùa Hồ Bấc… Đền Thượng nằm ở lưng chừng núi Vực Mỡ. Từ đây có thể bao quát cả khu đền Trung, Đền Hạ và một phần thung lũng xã Nghĩa Phương. Đền vốn được tạo ra từ mái đá của sườn núi. Mặt nhìn xuống Suối Mỡ chảy từ thác Thùm Thùm. Từ đây trở xuống Suối Mỡ rộng dần và có nhiều thác lớn nhỏ. Đền Trung ở chân núi Vực Mỡ thuộc hữu ngạn suối này, có không gian rộng rãi thoáng mát. Nước suối trong mát chảy dài xuống Đền Hạ. Đền Hạ quy mô lớn hơn nằm ở giữa thung lũng. Trong ngày hội, đây là nơi tập trung khách thập phương các nơi về lễ đền. Lễ hội đền Suối Mỡ là ngày hội văn hoá của nhân dân các dân tộc thuộc nhiều làng, xã dưới chân núi thuộc sườn tây Yên Tử (Lục Nam). Các làng Dùm, làng Quỷnh thuộc xã Nghĩa Phương từ thượng cổ tới nay, vào ngày hội đều có lễ rước sắc, bài vị và lễ vật về đền Suối Mỡ. Ngoài ra, hội đền còn tổ chức thi bắn cung, võ dân tộc, đấu vật, cờ bỏi, đánh đu, chọi gà... Một nét văn hoá độc đáo và đặc sắc không thể thiếu trong lễ hội Suối Mỡ, gắn với nhân vật thờ chính ở ngôi đền là nghi lễ hầu Thánh trong ngày lễ hội. Những năm gần đây được sự quan tâm và chỉ đạo của ngành văn hoá, lễ hội Suối Mỡ còn tổ chức liên hoan nghi lễ chầu văn, nhằm tôn vinh bảo tồn nét đẹp văn hoá thờ Mẫu.
Bắc Ninh 3608 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Khu du lịch sinh thái Suối Mỡ nằm trên tuyến đường tâm linh từ TP Bắc Giang đến thị trấn Thanh Sơn (Sơn Động) kết nối với nhiều khu, điểm du lịch hấp dẫn như: Chùa Vĩnh Nghiêm (Yên Dũng); khu du lịch tâm linh - sinh thái Tây Yên Tử, Khe Rỗ (Sơn Động), đồng thời tiếp giáp với hai tỉnh Quảng Ninh và Hải Dương trở thành điểm du lịch cầu nối trung chuyển với các điểm du lịch trong quần thể di tích - danh thắng phía Đông và Tây Yên Tử, cùng di tích Côn Sơn - Kiếp Bạc và các điểm du lịch khác của 3 tỉnh. Khu du lịch sinh thái Suối Mỡ có giá trị về mặt lịch sử, văn hóa và tín ngưỡng, gồm hệ thống 3 ngôi đền chính: Hạ - Trung - Thượng thờ Thánh Mẫu Thượng ngàn công chúa Quế Mị Nương con của vua Hùng Vương thứ IX - người có công khai mở ra vực mỡ, dẫn nước nhập điền, dạy nhân dân cách trồng trọt chăn nuôi. Đền Suối Mỡ với những nét cổ kính và những giá trị văn hóa lịch sử được lưu giữ tại đây đã được công nhận là Di tích lịch sử cấp quốc gia vào năm 1988. Lễ hội đền Suối Mỡ diễn ra hằng năm vào ngày 30 tháng 3 và mồng 1, mồng 2 tháng 4 Âm lịch nhằm cầu mong mùa màng tốt tươi và cũng là dịp để mọi người tỏ lòng biết ơn với công chúa Quế Mỵ Nương thu hút hàng nghìn du khách thập phương đến cầu phúc, cầu tài... Lễ hội mang đậm bản sắc dân tộc đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia năm 2015. Cùng đó, Khu du lịch sinh thái Suối Mỡ còn có những di tích phụ cận khác như: Đền Trần, đền Cậu Bé Lệch, đền Cô Bé Cây Xanh, đền Quan...; những di tích lịch sử về một thời hào hùng của dân tộc như: Bãi Quần Ngựa, khu Ba Dinh Bảy Nền thời nhà Trần...; những di tích mang đậm dấu ấn Phật giáo Trúc Lâm Yên Tử như: Chùa Hồ Bấc, chùa Hòn Trứng... tạo ra quần thể du lịch văn hóa, tâm linh Suối Mỡ. Một trong những điểm khiến bất cứ du khách nào đã từng đến Suối Mỡ không thể quên được đó chính là vẻ đẹp sinh thái của núi, rừng, suối, thác nơi đây. Nằm trải dài trên diện tích hàng ngàn ha, hệ thống rừng nguyên sinh của Suối Mỡ hết sức phong phú và đa dạng là điều kiện phát triển bền vững loại hình du lịch sinh thái - nghỉ dưỡng. Suối Mỡ có hai hệ thống thác chính là thác Suối Mỡ và thác Thùm Thùm mang vẻ đẹp kỳ vĩ và nên thơ. Mỗi hệ thống thác lại có nhiều bậc thác hùng vĩ, mỗi bậc mỗi vẻ và đặc biệt dưới chân những bậc thác này đều có những bồn tắm tự nhiên hết sức kỳ thú. Đến với Suối Mỡ vào những buổi trưa hè nắng nóng, du khách sẽ được ngâm mình trong làn nước trong mát rồi để mặc cho làn nước từ trên cao dội xuống mơn man khắp cơ thể như một môn vật lý trị liệu giúp xua tan đi những căng thẳng mệt mỏi sau những ngày làm việc vất vả hay chọn cho mình không gian riêng trên những chiếc ghế, chiếc giường bằng đá để nghỉ ngơi và cảm nhận vẻ đẹp của núi rừng Suối Mỡ. Trong Khu du lịch sinh thái Suối Mỡ còn có hồ chứa nước Suối Mỡ với tổng diện tích mặt nước hơn 30 ha, quanh lòng hồ là những bãi cỏ xanh bằng phẳng thích hợp cho các loại hình du lịch như: Dã ngoại cắm trại, câu cá, bơi thuyền… Cùng đó, với hệ thống rừng nguyên sinh, cao nguyên đá Suối Mỡ là điểm đến hấp dẫn của các bạn trẻ đam mê loại hình du lịch phượt, leo núi khám phá vẻ đẹp của thiên nhiên nơi đây. Suối Mỡ được xác định là điểm nhấn quan trọng trong phát triển du lịch của tỉnh Bắc Giang, luôn được chú trọng đầu tư xây dựng. Thời gian qua, cơ sở hạ tầng Khu du lịch sinh thái Suối Mỡ từng bước được hoàn thiện. Nhiều hạng mục đầu tư quan trọng với tổng số tiền hàng trăm tỷ đồng như: Công trình hồ Suối Mỡ, khu rừng bảo vệ cảnh quan Suối Mỡ, dự án đầu tư hạ tầng khu du lịch; nâng cấp sửa chữa đền Hạ, nhà hát Văn và khuôn viên; cầu treo Đền Trần; công trình tuyến đường du lịch quanh hồ Suối Mỡ; công trình tu bổ, tôn tạo khu di tích đền Trung…
Bắc Ninh 3632 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Chùa Đức La (hay còn được biết đến là chùa Vĩnh Nghiêm) nằm trên một quả đồi thấp tại thông Đức La, xã Trí Yên, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang. Chùa Đức La nằm cách trung tâm thành phố khoảng hơn 18 km. Có lẽ vì vậy, mà nơi đây không vướng những cái ồn ào, tấp nập của thành thị. Chùa được xây dựng từ đầu thời Lý Thái Tổ (1010-1028) cho tới thời vua Trần Thành Tông (1258-1278), chùa là nơi có nhiều vị cao tăng tu hành. Do đó, chùa đã được tu tạo nguy nga và lộng lẫy hơn. Chùa cũng là nơi mà vua Trần Nhân Tông đến thụ giới và sáng lập nên Thiền phái Phật giáo Việt Nam. Tại chùa Đức La, vua Trần Nhân Tông cùng Pháp Loa và Huyền Quang đã tạo nên Trúc Lâm Tam Tổ của thiền phái Trúc Lâm. Chùa Đức La nổi bật với phong cảnh thiên nhiên hữu tình, nên thơ. Chùa nằm trên một quả đồi thấp, ở nơi lưu hợp của sông Lục Nam và sông Thương. Bao quanh chùa là núi Cô Tiên. Một vị trí tuyệt vời, giao thoa giữa núi sông. Không ồn ào, nhộn nhịp, đứng ở nơi đây, con người như được hoà mình vào giữa mênh mông trời đất. Chùa Đức La được đặt trên khuôn viên rộng với diện tích khoảng 10000 mét vuông. Mở đầu là cổng Tam Quan và sau đó là Tiền Đường. Bước vào sân chùa, những dấu ấn xưa cũ vẫn còn được lưu trữ hiển hiện ngay trước mắt. Trong đó, tấm bia to 6 mặt năm Hoằng Định được xem là lâu đời nhất. Chùa Đức La có lối kiến trúc độc đáo, được lưu giữ từ hàng ngàn năm. Chùa có cấu trúc với 4 khối: chùa hình chữ “công”, hai bên có các dãy Tả vu, Hữu vu. Các dãy trong chùa đều rộng rãi gồm 18 gian. Chùa Đức La còn được biết đến bởi các giá trị điêu khắc tinh xảo, điệu nghệ. Thể hiện rõ nét nhất thông qua hệ thống tượng Phật được sắp xếp ở 3 khối nhà chính: Tam bảo, Nhà Tổ đệ nhất và Nhà Tổ đệ nhị. Bên cạnh đó, trong chùa còn lưu giữ lại nhiều di vật có giá trị. Phải kể đến bức hoành phi – câu đối cùng hệ thống văn bia với 8 tấm ghi lại tiến trình lịch sử và phát triển của Trung tâm Phật giáo Vĩnh Nghiêm.
Bắc Ninh 3345 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Hồ Cấm Sơn có toạ lạc tại xã Sơn Hải, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang, được xem là công trình đại thủy nông lớn thứ tư trong cả nước. Nhiệm vụ chính của hồ là cung cấp nước cho sản xuất nông nghiệp. Dù có diện tích trung bình 2.600ha, nhưng vào mùa hè và những lúc có mưa nhiều, mặt hồ có thể mở rộng lên tới hơn 3.000ha. Hồ Cấm Sơn được bao bọc bởi những dãy núi cao hùng vĩ và rừng cây xanh mướt, tạo thành một không gian thiên nhiên đẹp mê hồn. Để đến được Hồ Cấm Sơn, bạn có thể đi xe từ trung tâm Hà Nội theo con đường dài khoảng 100km. Trên đường đi, bạn sẽ phải đi qua cầu Long Biên và thị xã Từ Sơn, sau đó đi đến Bắc Ninh và chạy thêm khoảng 22km để đến Bắc Giang. Tại đây, bạn sẽ tiếp tục đi theo Quốc Lộ 31 để tới thị trấn Chũ (Lục Ngạn) và tìm đường rẽ trái để đi đến hồ Khuôn Thần (tỉnh lộ 289). Khi đến ủy ban xã Kiên Thành, bạn chỉ còn cách Hồ Cấm Sơn khoảng 15km nữa. Tuy nhiên, vì đường đi khá xa và gồm nhiều đoạn đường khác nhau, để đảm bảo an toàn cho chuyến đi của mình, bạn nên đi cùng một nhóm đông người và nghỉ ngơi định kỳ trên đường. Ngoài ra, bạn cũng có thể hỏi đường người dân địa phương để được hướng dẫn cụ thể hơn tránh bị lạc đường và mất thời gian nhé. Hồ Cấm Sơn là một địa điểm du lịch phù hợp để ghé thăm vào bất kỳ thời điểm nào trong năm. Tuy nhiên, theo kinh nghiệm từ những người từng đến đây, mùa hè là thời điểm đẹp nhất để trải nghiệm không gian thoáng đãng và thưởng ngoạn cảnh đẹp của hồ. Bạn có thể cắm trại cùng bạn bè hay trải nghiệm tắm hồ tại đây. Ngoài ra, mùa thu cũng là thời điểm tuyệt vời để du lịch Hồ Cấm Sơn, lúc này khí hậu mát mẻ và cây cối bắt đầu thay lá, tạo nên một không gian thiên nhiên lãng mạn. Nếu bạn muốn trải nghiệm mùa vụ vải chín đỏ rực của vùng đồi Lục Ngạn, bạn có thể lên kế hoạch đến đây vào khoảng tháng 6 hoặc tháng 7. Đây cũng là thời điểm để hòa mình vào không khí thu hoạch của các dân cư địa phương. Hồ Cấm Sơn giống như một bức tranh thiên “sơn thủy hữu tình”, khi đặc thù nơi đây là bờ hồ được bao quanh bởi các ngọn núi điệp trùng. Người dân đi lại chủ yếu bằng thuyền, lưu giữ nhiều nét văn hóa truyền thống cổ truyền. Khi đến đây, du khách sẽ được chiêm ngưỡng vẻ đẹp hoang sơ của những dãy núi cao và hàng cây xanh mướt tạo bóng xuống mặt hồ trong lành. Thêm vào đó, hàng trăm hòn đảo lớn nhỏ nhấp nhô giữa mặt hồ càng tôn lên cảm giác như bạn đang sống trong một phiên bản thu nhỏ của Hạ Long, tại Bắc Giang. Có thể bạn chưa biết, sự lãng mạn và thơ mộng của thiên nhiên ở đây từng truyền cảm hứng sáng tác cho nhạc sĩ Phó Đức Phương tạo nên bài hát "Hồ trên núi", trở thành một tác phẩm nổi tiếng đến ngày nay. Ngoài ra, bạn có thể cùng người thân du ngoạn tới những hòn đảo nhỏ và chiêm ngưỡng mây trời, núi non hùng vĩ tại hồ Cấm Sơn bằng một chiếc thuyền máy. Ngoài việc chiêm ngưỡng thiên nhiên tuyệt đẹp, du khách còn có thể tham gia nhiều hoạt động thú vị tại Hồ Cấm Sơn như chèo thuyền, leo núi, câu cá,... Điều này chắc chắn sẽ khiến cho chuyến du lịch của bạn trở nên đầy phấn khích và ý nghĩa. Không chỉ thế, khu du lịch Hồ Cấm Sơn còn là điểm đến "hot" ở Bắc Giang, thu hút rất nhiều du khách trẻ đến đây cắm trại, dã ngoại. Sau khi khám phá đảo trên thuyền, bạn có thể ghé qua xóm chài để mua những sản phẩm đặc sản như tôm, cá tươi sống. Ngoài ra, bạn có thể ghé vào các căn nhà xung quanh để mua gà đồi và thuê bếp của chủ nhà để tự tay nấu nướng món ăn đặc trưng của vùng đất này. Đây thực sự là trải nghiệm tuyệt vời để tìm hiểu về văn hóa, phong tục tập quán địa phương và cảm nhận sự ấm áp, thân thiện của người dân nơi đây.
Bắc Ninh 3681 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Khu lăng mộ và đền thờ các vị Vua triều Lý là chứng tích lịch sử về làng Cổ Pháp xưa và Đình Bảng ngày nay; là đất phát tích, tôn miếu thờ các vị vua triều Lý và còn là nơi an táng của các vị tiên vương và hoàng tộc nhà Lý. Triều Lý (1009 - 1225), từ khi Thái Tổ (Lý Công Uẩn) lên ngôi, dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long (1010), trải qua 8 đời vua, truyền ngôi được 216 năm, là giai đoạn nhà nước phong kiến độc lập tự chủ,vững mạnh, nhân dân được sống trong cảnh thái bình, thịnh trị. Khu di tích là công trình kiến trúc đặc sắc, với nghệ thuật điêu khắc đá, điêu khắc gỗ, tạc tượng thờ, kỹ thuật xây dựng đều đạt ở mức tinh xảo và nhiều giá trị di sản văn hóa phi vật thể được bảo lưu: tín ngưỡng thờ cúng, lễ hội, phong tục, tập quán.... Khu lăng mộ các vị vua triều Lý còn là di chỉ khảo cổ đặc biệt quan trọng phục vụ cho công tác nghiên cứu khoa học. Di tích có nhiều tên gọi khác, như Đền Đô, Cổ pháp Điện/Đền thờ Lý Bát Đế và Khu lăng mộ các vị Vua triều Lý (Thọ lăng Thiên Đức hay Sơn lăng cấm địa); bao gồm 2 khu vực chính là: Đền Đô và Khu lăng mộ các vị Vua triều Lý (Sơn lăng cấm địa). 1. Đền Đô: tổng diện tích 31.250m2, được phân chia thành khu nội thành và ngoại thành. Ngoại thành: rộng 26.910m2, gồm các hạng mục hồ bán nguyệt, nhà thủy đình, nhà văn chỉ bên phải, nhà võ chỉ bên trái. Nội thành: rộng 4.340m2, được chia thành khu nội thất và ngoại thất. Nội thất gồm: hậu cung, nhà chuyển bồng, nhà tiền tế, nhà bia và nhà để 8 kiệu thờ, nhà để 8 ngựa thờ ở hai bên. Ngoại thất gồm: phương đình, đền Vua bà, nhà chủ tế, nhà khách, nhà trưng bày, hội trường, ngũ long môn, sân đền, tượng voi, sấu đá… 2. Khu lăng mộ các vị Vua triều Lý (Sơn lăng cấm địa) Khu lăng mộ là nơi an nghỉ cuối cùng của các vua triều Lý, cách đền Đô khoảng 800m về phía Đông Bắc, nằm ở khu Ao Sen, thuộc cánh đồng phường Đình Bảng, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Ngày nay, khu lăng mộ các vị vua nhà Lý bao gồm những công trình sau: - Lăng vua Lý Thái Tổ - Lăng Lòng Chảo - Lăng Cả (vua Lý Thái Tông) - Lăng Hai (còn gọi là lăng Con) thờ vua Lý Thánh Tông - Lăng Con Voi (vua Lý Nhân Tông) - Lăng Đường Gio (vua Lý Thần Tông) - Lăng Đường Thuấn (vua Lý Anh Tông) - Lăng vua Lý Cao Tông - Lăng vua Lý Huệ Tông - Lăng bà Nguyên Phi Ỷ Lan - Lăng Phát Tích (lăng Bà Phạm Thị) Hiện vật ở di tích đền Đô và Khu lăng mộ các vị vua triều Lý còn lại không nhiều, có thể kể đến như 8 bài vị ghi tên các vua Lý được sơn son thếp vàng, chạm khắc vào thời Lê, đỉnh đồng, hạc đồng và một số bát đĩa có niên đại thời Lê. Đặc biệt còn một bia đá, niên đại 1604 do Tiến sỹ Phùng Khắc Khoan soạn ghi công đức các vua Lý. Ngoài ra, các sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng dân gian và thờ các vị vua triều Lý vẫn được duy trì và trở thành truyền thống ở đền Đô. Hằng năm ở Đình Bảng diễn ra 3 lễ hội chính: - Hội chùa vào ngày mùng 7 tháng Giêng. - Hội đình vào ngày 15 tháng Hai, diễn ra 2 ngày chính (từ ngày 14 đến ngày 15 tháng Hai). - Hội đền vào ngày 15 tháng Ba, được diễn ra tại đền Đô. Với giá trị đặc biệt, di tích lịch sử Khu lăng mộ và đền thờ các vị vua triều Lý được xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt ngày 31/12/2014 của Thủ tướng Chính phủ. Nguồn: Cục Di sản văn hóa
Bắc Ninh 3681 lượt xem
Đình Vân Cốc hay còn có tên nôm là đình Bài Cả, nhân dân trong vũng thường gọi là đình Bài. Ngôi đình Bài Cả xưa kia thờ chung thành hoàng đức thánh Cao Sơn Đại Vương với đình Bài Xanh, vì có một lý do nào đó nên đã chia ngôi đình này ra (thượng đình thôn Xanh, hạ đình thôn Bài. Cả hai ngôi đình đều nằm dưới chân núi phía tây núi Bài một trong những dãy núi thuộc dải Nham Biền Sơn hay núi neo 99 ngọn. Làng nằm trải dài theo triền núi như hình con Cốc đang tung cánh bay, mắt nhìn xuống đồng chiêm trũng vốn là hồ Lãng Bạc ngày xưa. Nhìn từ trên cao làng Vân Cốc như một con Cốc Lớn, thân là núi Bài, đầu là núi Đồn, hai cánh dài sải rộng ra hai bên là làng Vân Cốc. Ngôi đình nằm gọn dưới hai mắt con cốc. Đình Vân Cốc thuộc xã Vân Trung, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang. Là nơi thờ Thành hoàng làng là đức thánh Cao Sơn Đại Vương. Đức Cao Sơn quê ở Động Lăng Xương, huyện Thanh Châu, phủ Gia Hưng, đạo Sơn Tây. Ông là con của hai cụ Nguyễn Hành và Đẩu Thị Loan, ông sinh ra là do bố mẹ được báo mộng-người thần đầu thai. Cho nên lớn lên ông rất thông minh võ nghệ, am hiểu thiên thư. Khi đất nước có giặc ngoại xâm, vua Duệ Vương đã hạ chiếu đi khắp nơi tìm người tài giỏi, đức hiền ra giúp nước. Ông liền về triều ứng tuyển và được trọng dụng ngay, ông được Tản Viên Sơn Thanh phong làm tiền đạo thượng tướng quân. Được nhân dân địa phương hết lòng giúp đỡ- thần nhân âm phù, chẳng mấy thời gian Ngài đã làm xong, khi gặc Thục tới nơi liền bị quân tướng của Ngài đánh cho tơi tả (sau đó phải cầu hoà với nhà Hùng). Giặc Thục bình xong, ông trở lại tráng khi khi trước đã đóng luỹ đồn để báo đáp lòng dân. Xong xuôi ông lại được lệnh hồi triều. Rồi vua cho ông về ăn lộc ở Thanh Hoá và ở đó triều đình có sắc phong cho ông làm Thượng Đẳng Phúc thần và sức cho các nơi mà khi trước đi đánh giặc đã qua được dân trợ giúp phải lập nơi thờ phụng mãi mãi về đức thánh Cao Sơn Đại Vương. Theo ngọc phả của Đình thì Trang Vân Cốc trước đây có một ngôi miếu cổ tại khu đất đình thông, sau đó chuyển rời về giữa làng. Ngôi đình hiện tại dựng năm Mậu Tý- triều Lê Cảnh Hưng (1788) do Dương Tướng Công – Tự Quốc Cơ hưng công xây dựng. Đình hiện còn 5 gian 2 trái 1 ống muống 2 gian, 3 gian hậu cung có sàn gỗ cao rộng. Trước đình còn 2 tấm bia vuông. Di vật hiện còn là 8 bức cửa võng vững chắc uy nghi, 4 đôi câu đối, 10 bức hoành phi, 2 sập thờ long phù hổ phục, 2 cỗ đài nước, 2 giá quán tẩy, 2 hòm sắc phong, 1 quyển sắc phong thần hiệu, 1 quyển ngọc phả , 1 cây hương đá, 1 hòm đựng bộ đòn bát cống, 2 xương quạt, 2 xương tàn lọng, 2 ngựa thờ lớn, 1 bộ chấp kích hơn 20 chiếc, một bộ bát bửu, một mui luyện, 1 long đình, 1 hương án cổ, 2 ngai thờ, 2 bài vị. Tất cả đều được sơn son thiếp vàng lộng lẫy. Một trống, một chiêng và một số cây đèn đá, giá nến… Cùng với chiến công chói lọi trên chiến tuyến sông Như Nguyệt, địa điểm lịch sử Núi Đồn là nơi riễn ra những trận chiến đấu vô cùng ác liệt của quân dân ta thời Lý chống quân xâm lược Tống xâm lược.Đây cũng là nơi đón đánh thắng lợi và truy đuổi kẻ thù dân tộc ra khỏi bờ cõi. Bởi sau trận quyết chiến lược thần tốc, dũng mãnh của quân dân ta vào tập đoàn quân do chánh tướng Quách Quỳ chỉ huy ở đây, âm mưu xâm lược của kẻ thù đã bị đập nát, Quách Quỳ cam chịu thất bại cay đắng. Nhằm đêm tối hạ lệnh rút tàn quân về nước, dẫm đạp lên nhau (như chính sử nhà Tống đã phải thừa nhận). Đình Vân Cốc đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng Di tích lịch sử, kiến trúc nghệ thuật quốc gia , ngày 21/01/1989). Nguồn: Cổng Thông Tin Điện Tử Thị Xã Việt Yên Tỉnh Bắc Giang
Bắc Ninh 3661 lượt xem
Đình Phúc Long thuộc xã Tăng Tiến, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang. Đình Phúc Long là trung tâm sinh hoạt tín ngưỡng và văn hoá truyền thống của nhân dân làng Phúc Long xưa cũng như nay. Đình làng là nơi thờ phụng của toàn dân, đồng thời cũng là trung tâm tổ chức lễ hội của làng trong các dịp tết, lễ thể hiện lịch sử lâu đời và truyền thống văn hiến của làng Phúc Long. Căn cứ vào thần tích khắc trên bia đá chiều vua Tự Đức, đồng thời theo truyền thuyết của nhân dân địa phương, cho thấy đình làng Phúc Long thờ các vị thần âm phù, linh ứng, giúp vào việc đánh giặc cứu nước, bảo vệ quê hương. Ngoài ra, nhân dân Phúc Long còn thờ Nhuệ Quận Công Lê Tướng Công, vị quan triều Lê đã có công giúp dân tu dựng lại chùa và đình làng Phúc Long. Đó là ngôi đình, chùa còn lại đến ngày nay. Nhớ ơn ông dân làng đã khắc bia ghi công đức của ông và thờ quan tướng công làm hậu thần, hàng năm cúng tế ông và ngày giỗ 10 tháng 7, gọi là giỗ đức cụ. Văn tế quan tướng công đọc trong ngày giỗ. Có chung tín ngưỡng là thờ Trời, Đất và Nước- những yếu tố gắn bó mật thiết đến cuộc sống của người dân làm nông nghiệp lúa nước. Giá trị của đình Phúc Long không chỉ ở niên điểm khởi dựng cổ xưa, trên 300 năm cách ngày nay, mà điểm chủ yếu là ở quy mô to lớn và kiểu thức kiến trúc độc đáo và nghệ thuật chạm khắc, trang trí tài nghệ, tinh xảo. Điều cuốn hút nhất ở đình Phúc Long là phần trang trí, trạm khắc trên các bộ phận kiến trúc: như trên các đầu dư, đẩy bẩy, ở các bức cuốn, ở cửa võng trước hậu cung đình, ở các mi môn, ở các yếm cột (hay còn gọi là côn tai cột), đều được trạm khắc các hình trang trí với nhiều đồ án khác nhau. Khác với nhiều đình khác, toàn bộ khung gỗ của đình Phúc Long đều để trần, không sơn son thiếp vàng, phô diễn tất cả sự tinh tế, tài khéo của những người thợ dựng đình. Điều rễ nhận biết ở kết cấu kiến trúc và nhất là phần chạm khắc, biểu lộ hai hiệp thợ mộc tham gia xây dựng ngôi đình. Vì vậy phong cách kiến trúc, nhất là phần chạm khắc, biểu lộ hai phong cách khác nhau, trạm khắc tinh tế, tỉa tót, đường nét trau chuốt, mềm mại. Song tất cả đều hoà quyện vừa thống nhất, vừa phong phú, đa dạng, phản ánh những nét chung nhất của nghệ thuật kiến trúc, trạm khắc thời Lê giai đoạn cuối thế kỷ XVII, mang đậm nghệ thuật dân gian: Hồn nhiên, phóng khoáng. Các hình trang trí phổ biến là chạm nối, chạm kênh bong các hình “tứ linh”, “tứ quý” với các biến thể rồng, nghê, phượng, mặt hổ phù, long hoá, lý hoá… vô cùng phong phú. Đình Phúc Long chính thức được Bộ Văn hoá và Thông tin công nhận là di tích lịch sử nghệ thuật cấp quốc gia năm 1993. Nguồn: Cổng Thông Tin Điện Tử Thị Xã Việt Yên Tỉnh Bắc Giang
Bắc Ninh 3583 lượt xem
Chùa Hàm Long (hay Long Hạm) thuộc khu Thái Bảo, phường Nam Sơn, thành phố Bắc Ninh, được khởi dựng từ thời Lý (khoảng thế kỷ XII). Theo con mắt dân gian thì chùa nằm ở thế hàm rồng, nghĩa là dưới hàm một con rồng lớn dài 9 khúc, đó chính là cả dãy Lãm Sơn. Đây là trung tâm Phật giáo lớn, tương truyền là chỗ tu hành của sư Dương Không Lộ. Tọa lạc trên diện tích đất hơn 9.000m2, chùa có vị trí cảnh quan đẹp, hòa hợp với thiên nhiên, được mệnh danh là danh lam cổ tự có lịch sử lâu đời, các công trình kiến trúc được thiết kế, trang trí theo lối truyền thống, chạm khắc tinh xảo, nghệ thuật. Ngày nay, Chùa Hàm Long là trung tâm sinh hoạt tâm linh của nhân dân địa phương và thập phương quanh vùng, nơi tôn thờ phật pháp, là nơi hướng chúng sinh đến với điều thiện tránh xa điều ác, sống từ bi hỷ xả. Ngôi chùa hiện nay có quy mô lớn gồm các công trình: cổng Tam Quan, Tam Bảo, nhà Tổ, nhà Mẫu, nhà Khách, nhà Tăng và các công trình phụ trợ. Tam bảo chùa được làm bằng gỗ lim, kết cấu hình chữ Đinh, gồm Tiền đường 7 gian, kết cấu vì nóc “chồng rường giá chiêng”, vì nách “kẻ ngồi cốn mê” và 3 gian Thượng điện kết cấu vì nóc “chồng rường giá chiêng”, vì nách “kẻ ngồi”. Chùa thờ 7 vị Tổ, thờ Mẫu, thờ ông Đỗ Trọng Vỹ, ông nổi tiếng là người thông minh hiếu học và sau trở thành vị quan thanh liêm, nhà giáo, nhà văn hóa, đặc biệt ông là người có công khởi dựng Văn Miếu Bắc Ninh. Sau khi về già ông về chùa Hàm Long tu trì, sau khi ông mất được thờ phụng tại đây. Hiện nay, chùa Hàm Long vẫn duy trì nghi thức gửi vong cho các vong linh mất vào các giờ hung, giờ phạm. Để tránh tai ương, tật ách, gia đình của vong linh thường gửi vong lên chùa Hàm Long để sớm được trì trú, phổ độ, để các vong linh sớm được vãng sinh, siêu thoát về cõi cực lạc. Các công trình kiến trúc trong khuôn viên Chùa được chạm khắc trang trí tinh xảo, nghệ thuật với một diện mạo khang trang tố hảo. Chùa có ngày hội vào ngày 14 tháng 2 âm lịch, ngoài ra trong năm còn các ngày như: lễ Phật Đản, lễ Vu Lan, tuần Rằm, Mùng một, dịp lễ hội truyền thống, Tết nguyên đán. Chùa cũng đón nhiều đoàn khách trong nước và nước ngoài, các lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước về thăm lễ Phật. Chùa được Bộ Văn hóa Thông tin xếp hạng di tích lịch sử văn hoá, ngày 18/01/1988. Nguồn: Cổng Thông tin điện tử tỉnh Bắc Ninh
Bắc Ninh 3439 lượt xem
Văn Miếu Bắc Ninh là 1 trong 6 văn miếu ở Việt Nam, có giá trị lịch sử, văn hóa, phản ánh truyến thống khoa bảng của vùng quê Kinh Bắc qua các thời kỳ dựng nước và giữ nước thuộc các triều đại phong kiến. Văn Miếu Bắc Ninh là niềm tự hào về truyền thống khoa bảng của quê hương và là một điểm du lịch hấp dẫn đối với du khách trong và ngoài tỉnh. Văn Miếu Bắc Ninh được xây dựng trên núi Phúc Sơn, thuộc khu 10 phường Đại Phúc, thành phố Bắc Ninh. Văn miếu được xây dựng trước thời Nguyễn (muộn nhất vào thời Lê), để thờ phụng và tế lễ “Đức Khổng Tử” - người được tôn vinh là “Thánh sư” hay “Vạn thế sư biểu” và Tứ phối - các chư hiền của đạo Nho là Nhan Hồi, Tăng Sâm, Tử Tư, Mạnh Tử (các vị được phối thờ với Khổng Tử). Tổng thể công trình Văn Miếu Bắc Ninh hiện nay gồm: Cổng Nghi môn, toà Tiền tế 5 gian 2 dĩ, 2 bên hồi Hậu đường là 2 toà Bi đình 5 gian 2 dĩ, 2 bên hồi Tiền tế là 2 toà Tả vu - Hữu vu, tại sân chính giữa cổng Nghi môn và toà Tiền tế dựng bia bình phong. Hàng năm, vào ngày rằm tháng Giêng, tại Văn Miếu tổ chức lễ dâng hương có sự tham gia của các đồng chí lãnh đạo tỉnh để tưởng niệm các bậc tiền nhân, cầu mong quốc thái dân an, tỉnh Bắc Ninh ổn định phát triển, sự nghiệp giáo dục ngày càng tiến bộ. Nơi đây cũng thường đón tiếp các Đoàn học sinh giỏi quốc gia, quốc tế của tỉnh Bắc Ninh đến dâng hương, báo công sau mỗi kỳ thi. Cổng di tích được xây dựng Tam môn, cột trụ lồng đèn, hai trụ giữa đình đắp phượng tạo thành trái giành, hai trụ bên đặt nghê chầu. Xung quanh lồng đèn, các ô chính đắp nổi kênh bong Tứ linh Tứ quý. Tấm bia đá (bia bình phong) dựng giữa sân Văn miếu “Bắc Ninh tỉnh trùng tu Văn miếu bi ký” (Bia ghi việc trùng tu Văn miếu Bắc Ninh); có kích thước lớn gần 10m2, được coi là bảo vật của Văn miếu. Trên tấm bia ca ngợi vai trò, ý nghĩa của Văn Miếu, cũng như tôn vinh những bậc hiền tài. Trung tâm di tích là tòa Tiền tế gồm 5 gian 2 dĩ, dựng trên nền bó gạch cao hơn sân 55 cm. Phía trước mở cửa bức bàn 3 gian giữa, hai gian bên trổ cửa hình chữ Thọ. Hai hồi tường xây gạch kiểu bình đầu dật cấp, nối cánh phong, cột trụ lồng đèn, đình trải giành. Bờ nóc xây chỉ, hai đầu đắp rồng hóa, chính giữa là đôi rồng chầu mặt nguyệt. Hậu đường kế tiếp sau Tiền đường và nối với nhau bằng một gian giải muống tạo thành chữ Công. Nhà Hậu đường 5 gian được đục chạm Tứ quý. Hậu đường là nơi tôn thờ Chu Công, Khổng Tử, Tứ Phối. Nối liền hai đầu hồi nhà Hậu đường, bên phải dựng nhà bia, bên trái nhà Tạo soạn, mỗi công trình 4 gian, dựng trên nền bó gạch thấp hơn Hậu đường. Kiến trúc theo lối kéo kìm, qua giang vợt. Hai nhà Tả vu, Hữu vu dựng dọc hai bên sân trước Tiền đường, mỗi dãy 4 gian, hai dĩ, kiến trúc đơn giản kiểu bình đầu bít đốc, tường xây gạch, mái lợp ngói mũi, mở cửa cánh ván gian giữa. Nét đặc sắc nổi trội trong số toàn bộ những giá trị còn tồn tại của Văn miếu Bắc Ninh chính là 15 tấm bia đá. Trong đó, 12 bia “Kim bảng lưu phương” được dựng năm 1889, lưu danh gần 700 vị đại khoa quê hương Kinh Bắc là những người làm rạng rỡ truyền thống hiếu học khoa bảng và có công trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, phát triển nền văn hóa Việt Nam. Nguồn: Cổng Thông tin điện tử tỉnh Bắc Ninh
Bắc Ninh 3425 lượt xem
Chùa Vĩnh Nghiêm, còn được gọi là chùa Đức La, là một ngôi chùa cổ tại làng Đức La, xã Trí Yên, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang. Chùa Vĩnh Nghiêm là ngôi chùa cổ, là nơi lưu giữ lại bộ mộc bản gốc duy nhất của Phật phái Trúc lâm. Đã được UNESCO trao Bằng công nhận 3000 mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm là di sản tư liệu ký ức thế giới. Chùa được công nhận là một trung tâm Phật giáo, nơi đào tạo tăng đồ cho cả nước, nơi phát tích Tam Tổ phái Thiền Trúc Lâm của Phật giáo Việt Nam. Năm 2015, chùa được Nhà nước Việt Nam công nhận là Di tích quốc gia đặc biệt. Chùa Vĩnh Nghiêm tọa lạc nơi hợp lưu của sông Lục Nam và sông Thương (gọi là ngã ba Phượng Nhãn). Chùa nhìn ra ngã ba sông, phía Lục Đầu Giang - Kiếp Bạc, vùng Cẩm Lý cửa ngõ ra vào núi Yên Tử. Bao quanh chùa là núi non trong đó có núi Cô Tiên. Bên kia sông là vương phủ của Trần Hưng Đạo, đền Kiếp Bạc. Tương truyền chùa Vĩnh Nghiêm được khởi dựng vào thời Lý (thế kỷ XI). Cuối thế kỷ XIII, (1010-1028) Phật hoàng Trần Nhân Tông cho mở mang, xây dựng nơi đây thành trung tâm Phật giáo lớn của thời Trần, đổi tên chùa là Vĩnh Nghiêm, gắn liền với sự ra đời và phát triển của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Với vai trò là một trong chốn tổ của thiền phái, chùa Vĩnh Nghiêm được xây dựng với quy mô kiến trúc bề thế, nhiều hạng mục, mang tính quy chuẩn, mẫu mực của kiến trúc chùa tháp truyền thống. Đây là ngôi chùa cổ có kiến trúc giàu bản sắc Phật Việt nhất mà không ngôi chùa nào trong vùng có được, xứng danh là một “đại danh lam cổ tự”. Trong chùa còn thờ Tượng Phật, tượng các vị Tổ dòng Trúc Lâm, tượng các vị sư Tổ sau này, tượng Hộ pháp, tượng La Hán… Trong chùa còn có chiếc mõ dài gần nửa mét, được sơn đen bóng, lỗ thoát âm có đề hai dòng chữ Phạn. Chùa Vĩnh Nghiêm xưa là nơi đào luyện tăng đồ Phật giáo nên là nơi tàng trữ để các bộ ván kinh xưa rộng tới 10 gian nhà. Đó là những bộ ván kinh có từ 700 năm nay, là kho sách cổ vô cùng quý giá, như: Sa di tăng Sa di lì tỷ khiêu lỵ (348 giới luật), bộ Yên Tử nhật trình từ thế kỷ 15 (quá trình hình thành phái Trúc Lâm), Hoa nghiêm sớ, Di đà sớ sao, Đại thừa chỉ quán, Giới kinh ni... Ngày nay có nhiều kệ ván in kinh sử vẫn còn tại chùa. Người xưa gọi đây là khắc in, minh chứng chùa Vĩnh Nghiêm từng thống lãnh 72 chốn tùng lâm. Hiện nay, kho mộc thư vẫn lưu giữ được 34 đầu sách với gần 3000 bản khắc, mỗi bản có hai mặt, mỗi mặt 2 trang sách khắc ngược (âm bản) khoảng 2000 chữ Nôm, chữ Hán. Những bản khắc đó vẫn được lưu truyền tại nước ta với từng nét chữ sắc xảo, tinh tế. Ngày nay, những giá trị đó vẫn còn giữ nguyên bản, không bị hao mòn giá trị. Diện tích chùa khoảng 1 ha, bao quanh chùa là lũy tre dày đặc. Hiện nay, chùa được tu tạo và tạo điều kiện thuận lợi cho du khách đến du lịch và lễ bái. Du khách có thể đi theo lộ trình như: cổng tam quan, đi sâu vào khoảng 100m nữa là bái đường hay còn gọi là chùa Hộ. Hai bên đường chùa được xây dựng những khóm thông khoảng tầm 1m để tạo thành tùng lâm. Trên sân chùa có một bia đá to, gồm 6 mặt dựng năm Hoằng Định thứ 7 (1606). Ngay trước mặt tấm bia cổ là vườn tháp mộ của 5 vị sư: Phù Lãng Trung pháp (hiệu Sa môn), Thông Duệ ứng Duyên, Thanh Quý, Tịnh Phương Sa môn, Thanh Hanh và một số tháp khác. Lễ hội chùa Vĩnh Nghiêm được tổ chức vào ngày 14 tháng 2 âm lịch. Nguồn: Cổng Thông Tin Điện Tử Tỉnh Bắc Giang
Bắc Ninh 3405 lượt xem