Khám phá lịch sử, văn hóa, con người và cảnh đẹp Việt Nam trên ứng dụng du lịch Travelviet
Tải ứng dụng Travelviet
Bãi Đỗi – điểm cắm trại lý tưởng ngay bên Tràng An, nơi bạn có thể trải nghiệm thiên nhiên, hoàng hôn và bình minh tuyệt đẹp trong một chuyến dã ngoại nhẹ nhàng và thư giãn. Hãy nghe Ma Thị Hải Anh (Ninh Bình) một travel blogger nổi tiếng bật mí .
Bãi Đỗi nằm cách bến thuyền Tràng An chỉ khoảng 500 mét, rất thuận tiện cho những ai muốn kết hợp khám phá Tràng An sau khi cắm trại. Khu cắm trại tại đây giống như một không gian mở giữa vùng hồ nước trong veo xen lẫn các đỉnh núi đá vôi. Không gian bên bờ hồ mang đến cảm giác thư thái nhẹ nhàng khi tớ giăng lều và nhâm nhi tách trà chiều. Vào những buổi hoàng hôn, cảnh sắc tại Bãi Đỗi trở nên lung linh như một góc bình yên giữa lòng Ninh Bình.
Nguồn ảnh: Sưu tầm
Ngày đầu tớ đến, không khí mát mẻ, hơi sương nhẹ mang đến cảm giác nguyên sơ rất dễ chịu. Cảnh quan tại đây còn giữ được nét hoang sơ, ít sự tác động của con người, khiến tớ cảm thấy mình thật sự hòa vào thiên nhiên. Vào lúc sáng sớm, sương mờ phảng phất trên mặt hồ tạo nên khung cảnh thơ mộng như tranh. Buổi chiều khi nắng xuống, ánh sáng phản chiếu lên mặt nước mang đến cảm giác bình yên đặc biệt.
Nếu bạn có kế hoạch cắm trại ở Bãi Đỗi, nên mang theo đầy đủ các vật dụng cá nhân cần thiết. Tớ chuẩn bị lều, túi ngủ, thảm picnic và dụng cụ bếp nướng di động cùng than hoa. Đèn pin, đồ dùng cá nhân cũng rất quan trọng vì ban đêm sẽ thiếu ánh sáng và không có nơi nào cho thuê. Thuốc chống muỗi là vật không thể thiếu để giữ cho buổi dã ngoại không bị muỗi “ghé thăm”.
Một số vật dụng nhỏ cũng có thể làm tăng trải nghiệm nơi đây. Nước uống đầy đủ, bụp nhỏ, chén dĩa, đũa thìa giúp tớ thưởng thức đồ nướng một cách thoải mái. Nếu có tấm bạt hoặc túi rác, bạn sẽ dễ dàng giữ vệ sinh sau khi dùng bữa. Những vật dụng đơn giản này sẽ giúp bạn có buổi cắm trại chu đáo hơn mà lại không nặng hành lý.
Nguồn ảnh: Sưu tầm
Cắm trại sát mép hồ sẽ mang lại cảm giác yên tĩnh đến bất ngờ, chỉ nghe thấy tiếng gió thổi qua rừng cây. Mỗi sáng thức dậy dưới ánh nắng nhè nhẹ, phóng tầm mắt ra xa là thấy những đỉnh núi phủ sương mềm mại. Đêm xuống, ánh đèn vàng từ lều bên hồ lấp lánh giữa thiên nhiên, rất thư giãn và lãng mạn. Bữa BBQ nhỏ cùng bạn bè bên bếp than tạo ra không khí ấm cúng, quên đi mọi lo toan đời thường.
Sáng sớm là thời điểm lý tưởng để tận hưởng bình minh và không khí mát lành, thoát khỏi mọi ồn ào. Nếu muốn, bạn có thể gửi xe tại Tràng An và thuê thuyền để ngắm cảnh từ trên mặt nước. Dòng sông nhỏ, những hang động đá vôi và cây xanh xen lẫn sẽ đem đến cảm giác như đang lạc vào một thế giới cổ tích. Đây là sự kết hợp hoàn hảo giữa cắm trại và hành trình khám phá phong cảnh Tràng An giản dị nhưng đầy chất thơ.
Nắng trưa có thể rất gắt, nên nên bắt đầu cắm trại vào sáng hoặc chiều để tránh nhiệt cao. Khu vực bên hồ thiếu bóng râm, nên vào thời điểm oi bức dễ gây mệt mỏi nếu chọn sai khung giờ. Các hoạt động như ngắm cảnh, chụp ảnh hoặc tổ chức tiệc nướng sẽ trở nên thoải mái hơn khi ở thời điểm mát mẻ. Ánh sáng bình minh và hoàng hôn cũng giúp bạn lưu lại những khoảnh khắc đẹp như trong tranh.
Nguồn ảnh: Sưu tầm
Bãi Đỗi là lựa chọn lý tưởng nếu bạn muốn tránh xa sự xô bồ mà vẫn được đắm mình trong thiên nhiên tinh khiết. Với chút chuẩn bị kỹ càng và lựa chọn thời điểm phù hợp, chuyến cắm trại sẽ trở nên trọn vẹn hơn. Không gian hoang sơ, tĩnh lặng tại đây sẽ khiến tâm hồn bạn hòa nhịp cùng thiên nhiên.
Đền Lảnh Giang - điểm đến tâm linh nổi tiếng ở Hà Nam còn được gọi với cái tên thân thuộc là Lảnh Giang linh từ. Cụ thể, ngôi đền này nằm ở thôn Yên Lạc, xã Mộc Nam, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam. Địa điểm du lịch này nằm ngay sát chân đê nối liền với Hà Tây cũ, bên bờ hữu của sông Hồng. Đối diện với đền Lảnh Giang là tỉnh Hưng Yên. Do đó, du khách có thể dễ dàng đến đây bằng nhiều phương tiện khác nhau, từ đường bộ cho đến đường thủy. Cũng bởi vị trí này mà nhiều người vẫn hay nhầm lẫn rằng đền Lảnh Giang tọa lạc tại Hưng Yên. Hà Nam là một tỉnh không có sân bay, do đó, để có thể đến được đền Lảnh Giang, du khách có thể săn vé máy bay đi Hà Nội tại Traveloka. Các tính năng Thông báo giá vé, Đổi lịch trình bay và Hoàn tiền của Traveloka sẽ hỗ trợ bạn tối đa trong quá trình đặt vé. Hiện nay, các chuyến bay đến sân bay Nội Bài Hà Nội được khai thác một cách thường xuyên. Do đó, du khách có thể dễ dàng đặt được vé máy bay trong bất cứ khoảng thời gian nào. Sau khi đã hạ cánh an toàn tại sân bay Nội Bài, bạn cần lựa chọn các phương tiện phù hợp tiếp theo để di chuyển đến tỉnh Hà Nam. Đa phần, khách du lịch thường lựa chọn xe buýt 206 hoặc một số hãng xe khách tiêu biểu như Phúc Lộc Thọ, Việt Trung, Thời Đại, Mận Tịnh,... Sau khi đến thị trấn Đồng Văn, huyện Duy Tiên, du khách muốn tham quan đền Lảnh Giang cần di chuyển thêm 8km theo hướng quốc lộ 38 để đến thị trấn Hòa Mạc. Từ đây đi thêm tầm 3, 4 cây số nữa là bạn có thể đến được cầu Yên Lệnh. Tiếp đó, chỉ cần rẽ trái và chạy men theo con đường nằm ngay sát bờ đê sông Hồng là bạn có thể đến được đền Lảnh Giang, Hà Nam. Theo ghi chép từ các tài liệu, cho đến thời điểm hiện tại, người ta vẫn chưa thể xác định được thời gian mà đền Lảnh Giang được xây dựng. Theo bút tích còn sót lại trên nóc của tòa đệ nhị, rất có thể đền Lảnh Giang được trùng tu vào năm 1944. Trải qua những thăng trầm lịch sử, ngôi đền này vẫn còn giữ nguyên được quy mô bề thế vốn có. Nhiều truyền thuyết đã kể lại rằng, đền Lảnh Giang gắn liền với Tam vị danh thần - con của nàng Quý người trang Hoa Giám. Họ không chỉ có công trong việc giúp vua Hùng chống quân Thục Phán mà còn phù trợ vợ chồng Tiên Dung công chúa. Vì thế, đền Lảnh Giang đã được lập ra để ghi công, tưởng nhớ các vị thần giúp sức vua Hùng giữ nước. Mỗi năm, đền Lảnh Giang sẽ có 2 kỳ lễ hội lớn nhằm bày tỏ lòng tưởng nhớ với các vị thủy thần và cầu mong mưa thuận gió hòa quanh năm để người dân an cư lập nghiệp. Trong đó, lễ hội kỳ 1 sẽ diễn ra vào tháng 6 âm lịch hàng, kéo dài từ mùng 2 đến mùng 5. Lễ hội kỳ 2 sẽ tiếp tục diễn ra vào tháng 8 âm lịch, cụ thể là 20/8. Lễ hội tại đền Lảnh Giang không chỉ quy tụ nhiều nghi thức tế lễ, rước thánh vô cùng linh thiêng và trang trọng mà còn tập trung nhiều trò chơi thú vị, hấp dẫn. Đến Hà Nam vào dịp này, du khách không những có thể chiêm ngưỡng danh thắng và các công trình kiến trúc tâm linh độc đáo tại nơi đây mà còn có thể tìm hiểu thêm về phong tục tập quán cũng như nét văn hóa đặc sắc của vùng đất này. Trong năm 1996, đền Lảnh Giang đã chính thức được bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng vào di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia. Cùng từ đó, đền trở thành một trong những công trình cần được giữ gìn, bảo vệ và phát triển. Đền Lảnh Giang gồm có 3 tòa nhà với 14 gian cùng nhà khách, lầu thờ được bao quanh bởi những bức tường thành kiên cố. Trong đền có rất nhiều vật dụng giá trị cùng nhiều cổ vật quý và tượng thờ 3 vị thần thời Hùng Vương. Đứng trước đền Lảnh Giang, hẳn rằng du khách sẽ vô cùng ấn tượng với lối kiến trúc đồ sộ và uy nghiêm. Cổng Tam quan được thiết kế theo kiểu chồng diêm tám mái tạo cảm giác thông thoáng, phần đầu đao là hình rồng đẹp mắt đan xen với các họa tiết vô cùng hài hòa. Trước cổng Tam quan là hồ bán nguyệt trong xanh phẳng lặng được tô điểm bởi những đóa hoa súng rực rỡ sắc hương. Theo chân cây cầu nối từ cửa đền đến giữa hồ, du khách sẽ bắt gặp một tòa tháp ẩn hiện trong bóng cây si già, vừa uy nghiêm, cổ kính nhưng cũng vô cùng nên thơ.
Ninh Bình 3201 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Đền Trần Thương hiện nay là nơi tôn vinh anh hùng dân tộc Quốc công Tiết chế Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn cùng các tướng lĩnh có công chống quân Nguyên Mông thế kỷ XIII. Với hơn một thế kỷ tồn tại, đền vẫn giữ nguyên vẻ đẹp từ thuở sơ khai và là biểu tượng lịch sử và niềm tự hào của người dân Hà Nam. Vùng đất Trần Thương được biết đến với câu nói “Cá Nhân Đạo, gạo Trần Thương” và câu thơ khắc trên bức châm ở đền: “Đất Trần Thương mênh mông phúc lợi, hoa quả rộn ràng mọi mùa xuân.” Trước kia, Trần Thương là trung tâm của 6 con kênh nước. Từ đây, có thể đi ngược dòng sông Hồng về Thăng Long hoặc xuôi ra biển về hướng Đông, chỉ cách đây khoảng 3km là nơi đặt lăng mộ của gia đình nhà Trần. Đền Trần Thương là một trong 3 đền lớn thờ Hưng Đạo Đại Vương trên toàn quốc. Truyền thuyết kể rằng, trên hành trình chống quân Nguyên Mông, Trần Hưng Đạo nhận thấy địa thế tại đây rất hiểm trở, nên ông đã lập 6 kho chứa lương thực để phục vụ cho cuộc chiến. Nơi đây ngày nay đã trở thành địa điểm lưu giữ tinh thần lịch sử và niềm tự hào của người dân Hà Nam. Đền Trần Thương, một công trình kiến trúc uy nghi và cổ kính nằm trên đất thiêng theo kiểu “Tứ thủy quy đường”. Tổng thể cảnh quan đền bao gồm nghi môn ngoại, nghi môn nội, 5 tòa, 15 gian, chia thành 3 cung: đệ nhất, đệ nhị, đệ tam và hai giải vũ, 5 giếng… Kiến trúc và cảnh quan tự nhiên của đền Trần Thương như hòa mình vào đạo trong không gian văn hóa linh thiêng. Giá trị của đền thể hiện qua trang trí tinh tế với các họa tiết độc đáo: lưỡng long chầu nguyệt, rồng bay, phượng múa, sóng nước mây trời… Tạo nên bức tranh sống động, cổ kính và chứa đựng triết lý dân gian. Bộ sưu tập đồ thờ, cổ thư của đền cũng rất đa dạng, đặc biệt là pho tượng Đức Thánh Trần với gương mặt nghiêm túc nhưng vẫn mang nụ cười dung dưỡng. Với giá trị lịch sử truyền thống, đền Trần Thương tỏa sáng với văn hóa độc đáo. Hàng năm, đền tổ chức 2 lễ hội lớn: lễ phát lương Đức Thánh Trần diễn ra vào đêm 14 rạng sáng ngày 15 tháng Giêng; lễ giỗ từ ngày 18 đến 20 tháng 8 âm lịch thu hút đông đảo người dân và du khách. Trong lễ hội, nhiều hoạt động văn hóa dân gian được tổ chức, từ lễ rước nước, thi bơi chải trên sông đến “Diễn xướng thanh đồng” - một lễ nghi truyền thống, tất cả đều nhấn mạnh đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”. Đền Trần Thương không chỉ là nơi tổ chức các lễ hội, mà còn là nơi gìn giữ ký ức về văn hóa, lịch sử và tín ngưỡng. Đây là biểu tượng của sự tôn kính đối với những nhân vật thánh thiện cứu quốc, là niềm tự hào của một quốc gia với lòng hiếu kính bất tận.
Ninh Bình 3099 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Đền Trúc Hà Nam nằm trong khu du lịch Đền Trúc - Ngũ Ðộng Thi Sơn, thuộc thôn Quyển Sơn, xã Thi Sơn, huyện Kim Bảng, cách thành phố Phủ Lý hơn 7km theo quốc lộ 21A. Có khá nhiều sự tích về Đền Trúc Hà Nam nhưng theo các cụ già trông coi đền kể lại thì vào năm 1089, trên đường đi chinh phạt phương Nam qua thôn Quyển Sơn, đoàn thuyền chiến của Lý Thường Kiệt bị một cơn gió bất ngờ thổi gãy cột buồm, cuốn lá cờ lên đỉnh núi Cấm. Thấy lạ, ông bèn cùng tướng sĩ dừng lại, sửa soạn lễ tế trời đất, cầu cho quân đại thắng. Và lần ra quân ấy đúng thật thắng lớn, Lý Thường Kiệt đã cùng quân sĩ quay trở lại làm lễ tạ và cho phép mọi người mở hội ăn mừng chiến thắng. Lễ hội kéo dài hằng tháng, không khí tưng bừng, náo nhiệt, thậm chí trong khoảng thời gian đó ông còn dạy cho người dân nơi đây nghề nuôi tằm dệt vải. Sau này để tưởng nhớ công ơn của Lý Thường Kiệt, dân làng đã lập đền thờ ngay tại nơi ông mở hội, chính là Đền Trúc ngày nay nằm sâu bên trong khu rừng bạt ngàn trúc xanh. Đền Trúc ở Hà Nam được thiết kế theo kiểu chữ “Đinh” gồm cổng đền, tiền đường và hậu cung. Cổng đền có 4 cột trụ: 2 cột chính giữa cao trên 6m và 2 cột nhỏ ở hai bên. Tiền đường Đền Trúc chia làm 5 gian và hậu cung có 3 gian đều được xây dựng theo phong cách truyền thống của thế kỷ 17- 19 là lợp ngói nam, xây bằng gạch thất, bắt mạch để trần, hệ thống cửa được chạm trổ theo các đề tài tứ linh, tứ quý... có giá trị nghệ thuật cao. Không chỉ được ngắm cảnh đẹp và tham gia lễ hội, đến với Đền Trúc Hà Nam du khách còn có cơ hội tận mắt nhìn thấy những hiện vật bằng đá từ thời Lý mang đậm dấu ấn lịch sử của một thời hào hùng. Được biết, hiện nay ở Đền Trúc đang lưu giữ 2 cổ vật chưa được nghiên cứu từ thời Lý là đôi rồng và một bể cảnh bằng đá. Đôi rồng không lớn lắm, nằm đối xứng theo chiều dọc, đầu quay vào tòa tiền đường nhưng lại có hình dạng khác nhau. Theo những nhà khảo cổ từng đến đây cho biết, con rồng phía bên phải nhìn từ ngoài vào là rồng thời Lý có hình dáng mềm mại, uyển chuyển; còn con rồng phía bên trái là rồng thời Trần có dáng to khỏe, mập mạp hơn. Còn bể cảnh bằng đá được tạo từ đá nguyên khối, có hình chữ nhật, vuông thành sắc cạnh, đáy bể có diềm hình sóng nước bao quanh, thành bể có họa tiết tứ quý. Mặc dù chưa biết chính xác được niên đại của bể cảnh này song nhìn những chi tiết phủ rêu phong cũng biết bể có từ hàng trăm năm trước.
Ninh Bình 2896 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Nếu bạn không biết thì kẽm trống hà nam là một trong những thắng cảnh nên thơ, hùng vĩ. Địa danh này gồm cả sông, cả núi, đồng ruộng, cây cỏ bao xung quanh, thêm vào đó là con người tạo dựng thêm những cảnh quan để có một tổng thể khu danh thắng như hiện nay.
Ninh Bình 2530 lượt xem
Tám cảnh thuộc vùng núi của xã Tượng Lĩnh (Kim Bảng) đã từng là nơi chúa Trịnh Sâm cho lập hành cung và được chúa ví với 8 cảnh đẹp nổi tiếng như ở Tiêu Tường (Vân Nam, Trung Quốc). Từ lâu, dãy Bát cảnh sơn (dãy núi có 8 cánh) được coi là một thắng cảnh của trấn Sơn Nam. Theo Lịch triều hiến chương loại chí (phần Dư địa chí) của Phan Huy Chú thì vào thế kỷ thứ XVI, Nghị tổ Trịnh Doanh qua đây chiêm ngưỡng đã ví Bát cảnh sơn với Tiêu Tương bên Trung Quốc và cho lập hành cung để đi về thưởng ngoạn. Xưa kia, ở Bát cảnh sơn có 8 ngôi chùa và một ngôi miếu thờ thổ đại thần linh được bài trí xây dựng theo thuyết bát quái ngũ hành. Thắng cảnh 1: Ông Chùa Tiên hay còn gọi là chùa Ông. Ông Chùa Tiên (Chùa Ông ) được xây dựng từ thời vua Trần Nhân Tông ở trên núi tướng khoảng 200m. Núi chính là bức tường đầu tiên trong hệ thống Bát Cảnh Sơn ở Hà Nam. Chùa có phong cách kiến trúc cực tinh tế với tám trận, bốn góc rồng bởi vậy đây chính là điểm đầu tiên cũng như quan trọng bậc nhất trong thắng cảnh Bát Cảnh Sơn nhé. Thắng cảnh 2: Ông Đền 2. Thắng cảnh này có một hồ nước bán nguyệt lớn xung quanh với những hàng cây xanh thắm. Hồ có diện tích lên tới 320 mẫu quanh năm nước xanh cùng với độ sâu trung bình chừng 5m. Theo tương truyền đây là hồ nước do đền thờ để lại sau một trận lũ lụt. Hiện nay trong hồ có vô số các loài cá mà có thể khai thác được. Đền Ông được xây dựng theo kết cấu tam giác với hàng trăm bức tượng phật uy nghi, tráng lệ tới đây bạn sẽ thấy tâm hồn thêm yên tĩnh, thanh tịnh. Thắng cảnh 4: Chùa Kiều. Chùa Kiều nằm ở độ cao 150m trên ngọn núi cùng tên. Chùa Kiều nằm ở phía Đông Nam với một diện tích lớn. Chùa hiện có 3 tấm bia khắc vào vách đá là một trong những điểm quan trọng của nơi này. Bên cạnh đó ngôi chùa còn gắn liền với những truyền thuyết về ánh trăng. Thắng cảnh 5: chùa Bà. Ngôi chùa trở nên linh thiêng từ khi làng tổ chức rước vong phật Pháp Vũ về thờ. Phật Pháp Vũ thuộc hệ Tứ Pháp chùa Dâu (Bắc Ninh) gồm: Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện. Lịch sử còn ghi lại sự linh ứng mỗi khi các vua thời Lý đến chùa Dâu cầu khấn, từ đó chùa các nơi xin rước Tứ Pháp về thờ”.
Ninh Bình 3129 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Chùa Bà Đanh nằm sát núi Ngọc và được dòng sông Đáy bao quanh ba mặt. Phía bên ngoài chùa giáp với đường đi bộ, cổng tam quan chùa thì gần bờ sông, vì thế tam quan được tôn cao năm bậc và hai đầu xây bít đốc. Tam quan chùa có ba gian, hai tầng, tầng trên có hai lớp mái, lợp bằng ngói nam, xung quanh sàn gỗ hàng lan can và những chấn song con tiện, tầng này sử dụng làm gác chuông, ba gian dưới có cửa gỗ lim. Phía ngoài cửa là hai cột đồng, trên nóc tam quan đắp một đôi rồng chầu. Hai bên cổng chính là cổng nhỏ có tám mái, cửa uốn lượn hình bán nguyệt. Ngày thường, khách ra vào bằng cửa nhỏ, chỉ khi chùa có lễ thì cửa chính mới mở. Chùa Bà Đanh thờ Phật, ngoài Phật còn có tượng Thái Thượng Lão Quân, tượng Nam Tào, Bắc Đẩu và thờ cúng tín ngưỡng Tứ Phủ (Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Điện, Pháp Phong). Đặc biệt chùa thờ nữ thần Pháp Vũ, là nữ thần gió. Theo truyền thuyết, nữ thần Pháp Vũ linh thiêng trông coi việc điều mưa khiển gió, mang lại mưa thuận gió hòa cho mùa màng bội thu, giúp đời sống người dân sung túc nên chùa có tên Đức Bà làng Đanh, gọi tắt là chùa Bà Đanh. Ở không gian trung tâm chùa là pho tượng Bà Đanh đang ở thế toạ thiền trên chiếc ngai đen bóng với khuôn mặt phúc hậu, hiền từ, đầy nữ tính và gần gũi. Sự hài hoà giữa pho tượng và chiếc ngai tạo nên vẻ hấp dẫn của nghệ thuật điêu khắc vùng đồng bằng Bắc Bộ. Gần như toàn bộ nghệ thuật kiến trúc và nghệ thuật chạm khắc của ngôi chùa tập trung ở nhà bái đường – nơi hành lễ thường ngày. Nhà bái đường năm gian gỗ lim, đầu hồi bít đốc và cũng đắp nổi hai con rồng. Quan sát từ giữa sân gạch, du khách sẽ thấy được hệ thống tượng đắp nổi “tứ long chầu mặt nguyệt” trên nóc nhà mái đường. Cả bốn con rồng, từ kiểu dáng đến thân hình đều uốn lượn, mắt, râu, vuốt, vây đều rất sinh động, uyển chuyển, mà cũng rất dữ dội, trông như đang vờn nhau, bay lượn trong khoảng không bao la. Rồng ở đây mang màu sắc của thời kỳ nhà Nguyễn. Đầu hai dãy hành lang và liền với nhà bái đường là hai cột trụ cao vút, uy nghi. Trên mỗi cột đều đắp nổi hình tứ linh: long, ly, quy, phượng theo thế đối xứng, hài hoà, cân đối. Từng đường nét đều thể hiện sự tài hoa của các nghệ nhân xưa. Dù đẹp và cổ kính, nhưng chùa Bà Đanh lại được biết đến bởi sự vắng vẻ, hoang vu. Đã có rất nhiều giả thuyết lý giải cho điều này nhưng thuyết phục nhất là chùa rất linh thiêng, người đi đường hoặc người vào lễ bái nếu cười cợt, nói chuyện to, bất kính dù chỉ một câu cũng sẽ bị trừng phạt. Vì thế khách hành hương ngày càng ít ghé thăm ngôi chùa. Một phần nữa, chùa nằm cách xa khu dân cư, quanh đó ít người dân sinh sống. Ba mặt chùa là sông, rừng rậm, cây cối, vì thế rất ít người lai vãng đến chùa chỉ trừ những ngày lễ hội lớn của đạo Phật. Những lý do trên đã khiến chùa đã vắng càng vắng hơn. Ngày nay, chùa được đầu tư xây dựng lại khá khang trang, rộng rãi, khách đến chùa cũng nhiều hơn. Vì thế câu nói xưa giờ đã được cải biên thành: “Ngày xưa vắng ngắt vắng ngơ/ Bây giờ tấp nập như chùa Bà Đanh”. Chùa Bà Đanh hiện đang lưu giữ nhiều cổ vật, cổ thư quý hiếm, nhất là tượng Phật tổ, tượng Bồ Tát, đại tự, khánh đá, câu đối và nhang án…
Ninh Bình 3158 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Đền thờ vua Đinh Tiên Hoàng, còn có tên là đền Đinh Bộ Lĩnh, đền Văn Bòng hoặc đền Đại Hữu (lấy tên địa danh nơi ngôi đền tọa lạc), hiện thuộc thôn Văn Bòng, xã Gia Phương huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình. Tương truyền, đây chính là nơi gắn với tích sinh ra Đinh Bộ Lĩnh, người anh hùng dân tộc có công trong việc dẹp loạn 12 sứ quân thống nhất đất nước, lập nên nhà nước Đại Cồ Việt vào năm 968. Tại đây, cũng có bài vị thờ các quan trung thần là tứ trụ triều đình nhà Đinh gồm Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Trịnh Tú, Lưu Cơ. Tương truyền, vua Đinh Tiên Hoàng cùng với con trai là Đinh Liễn bị Đỗ Thích sát hại vào năm 979, theo nghi lễ triều đình đã tấn phong thuỵ hiệu, mỹ tự, lập đền thờ cúng tại quê nhà. Như vậy, đền đã được khởi lập từ xa xưa. Hiện nay phần còn lại của di tích mang phong cách kiến trúc thời Nguyễn. Những nguồn tư liệu về vua Đinh Tiên Hoàng rất nhiều, chính sử và truyền thuyết dân gian đã ghi lại và âm hưởng chung là ca ngợi sự tài giỏi, công lao to lớn của ông đối với sự nghiệp thống nhất đất nước, mở nền chính thống của nước ta sau hàng nghìn năm nô lệ. Trên mảnh đất quê hương ông hiện nay vẫn còn rất nhiều truyền thuyết, địa danh liên quan tới thời ấu thơ của Đinh Tiên Hoàng cũng như Nguyễn Bặc, Đinh Điền, những vị danh tướng cùng quê Đại Hữu với vua Đinh. Núi Kỳ Lân nằm ở đầu xã Gia Phương, cách đền gần 3km, với lăng phát tích vua Đinh, động Đại Hữu, lăng phát tích Nguyễn Bặc. Về phía tây nam của núi có một khoảng uốn lượn trông giống hình tay ngai, lưng chừng có một khu rộng tương đối bằng phẳng. Tương truyền, ông Đinh Công Trứ, thân phụ của Đinh Tiên Hoàng thấy cảnh đẹp đã mang mộ của ông nội nhà vua an táng tại ngai này, xây dựng lăng mộ, gọi là Lăng phát tích, hiện đã được tôn tạo. Cạnh Lăng phát tích có động Đại Hữu ở lưng chừng núi, trong hang có nhiều hình thù đẹp do nhũ đá tạo thành, có chỗ có hình giáng như con Kỳ Lân, nên còn gọi là động Kỳ Lân. Trước đây, theo truyền lại thì hang có đền thờ Sơn Thần, là nơi nương tựa của bà Đàm Thị và Đinh Bộ Lĩnh khi ông Đinh Công Trứ qua đời, như nhiều sách đã viết. Phía đông nam lăng phát tích vua Đinh còn có lăng phát tích Nguyễn Bặc. Lăng nằm cạnh chân núi. Ngay phía trước đền, cách khoảng hơn 200m là gò Bồ Đề, một khu đất cổ cao ráo, hình vuông, rộng gần 200m2 ở đầu xóm Văn Bòng, tương truyền đây là nền nhà cũ của Đinh Bộ Lĩnh. Ở giữa khu ruộng của thôn Văn Bòng, gần đền thờ vua Đinh Tiên Hoàng có một khoảng đất tương đối cao, rộng hàng nghìn mét vuông, có tên cổ là Đào Áo (còn gọi là xứ Đào Áo). Tương truyền nơi đây là chỗ tụ quân của Đinh Bộ Lĩnh để tập trận. Nhìn chung vùng xung quanh di tích hiện nay còn lưu lại rất nhiều địa danh, truyền thuyết liên quan tới vua Đinh Tiên Hoàng. Đây là những nguồn sử liệu quý để làm sáng tỏ thân thế và sự nghiệp của ông. Đặc biệt từ quê hương ông ở xã Gia Phương hiện nay, ngược lên Gia Hưng (Gia Viễn), sang Trường Yên (Hoa Lư), cả một chiều dài, rộng hàng chục km, vùng đất nào cũng có những địa danh, truyền thuyết liên quan tới vua Đinh Tiên Hoàng. Đền thờ được tu bổ quy mô trong những năm gần đây, nhưng vẫn bảo tồn được nét kiến trúc thời Nguyễn cổ kính, quay hướng tây có ba toà, kiến trúc theo kiểu “tiền nhất, hậu đinh”. Phía trước đền là hồ bán nguyệt. Phía trong hồ, khoảng giữa của sân được xây 2 cột đồng trụ tạo thành lối ra, vào di tích. Khu đền thờ gồm 3 toà: Tiền bái, Trung đường và Chính tẩm. Tiền bái gồm 5 gian, kiến trúc theo lối chồng rường bằng gỗ lim, tường hồi bít đốc. Toàn bộ các đầu bẩy chạm khắc hoa văn lá lật, riêng gian giữa mặt đầu bẩy chặm khắc rồng. Các con chồng ở hệ thống các vì kèo đều được chạm hoa văn lá lật. Bờ nóc Tiền bái hình lưỡng long chầu nguyệt. Trung đường tiếp giáp với Tiền bái, gồm 3 gian, kiến trúc theo kiểu mê toàn (toàn bộ hệ thống hoành nằm trên các mê kèo), phía trước có hệ thống cửa ra vào, các đều bẩy chạm hoa văn lá lật. Đặc biệt mê kèo phía đầu đốc hai bên cửa hiên có mảng chạm bong đề tài tứ linh khá tinh vi. Tòa Chính tẩm gồm 2 gian chính và 1 gian dĩ. Kiến trúc theo kiểu thượng rường hạ mê. Di tích hiện còn giữ được một số hiện vật quý như tượng thờ, ngai, khám thờ, sắc phong của các triều đại… Hàng năm, vào dịp lễ hội cố đô Hoa Lư, người thôn Văn Bòng và xã Gia Phương, cũng mở hội đền và tham gia lễ rước kiệu lửa từ quê hương vua về cố đô Hoa Lư. Với những giá trị lịch sử và văn hóa nổi bật, đền thờ vua Đinh Tiên Hoàng đã được Bộ Văn hoá Thông tin xếp hạng là Di tích lịch sử văn hoá cấp quốc gia năm 1993. Nguồn: Sở Văn hóa và Thể thao tỉnh Ninh Bình
Ninh Bình 4169 lượt xem
Lăng vua Lê Đại Hành nằm dưới chân núi Mã Yên về phía Nam, hai bên có hai quả núi mà nhân dân gọi là “Long chầu, Hổ phục”, là tay ngai, nên núi còn có tên chữ là Hoàn Ỷ Sơn. Trong khu vực thành ngoại của Kinh thành Hoa Lư ngày nay thuộc Thôn Yên Thượng, Xã Trường Yên Huyện Hoa Lư, Tỉnh Ninh Bình. Lăng vua Lê còn có tên gọi khác nữa theo nhân dân địa phương là Mả Quan. Cách gọi này có thể xuất phát từ quan niệm của dân gian về vai trò, vị trí (bề tôi) của Lê Hoàn dưới triều đại vua Đinh Tiên Hoàng, tuy nhiên tên gọi này cổ xưa và không phổ biến lắm. Lăng vua Lê thuộc loại hình di tích mộ táng, theo truyền thống cổ truyền của dân tộc. Theo quan niệm của người xưa, lăng vua Đinh - vua Lê đều đặt vào nơi được gọi là “huyệt Đế Vương”. Vua Lê Đại Hành tức Lê Hoàn trước đây là người tài giỏi võ nghệ, phóng khoáng, có chí lớn. Lê Hoàn gia nhập nghĩa quân Hoa Lư, theo Nam Việt Vương Đinh Liễn tham dự các trận mạc, đánh dẹp các sứ quân cát cứ, lập nhiều chiến công. Được vua Đinh Tiên Hoàng trọng là bậc trí dũng và trở thành Thập Đạo tướng quân dưới triều nhà Đinh. Lê Hoàn cầm quân đuổi giặc Tống, đánh thắng Chiêm Thành, củng cố bộ máy Nhà nước phong kiến độc lập, thống nhất. Chính quyền cũng chăm lo thi hành một số biện pháp tích cực cho sự phát triển kinh tế. Lê Hoàn lên ngôi Hoàng đế, đổi niên hiệu là Thiên Phúc. Có thể nói, dưới triều vua Lê Đại Hành, Kinh đô Hoa Lư và đất nước Đại Cồ Việt đã có sự phồn thịnh, ổn định. Về chính trị, quân sự, văn hóa, ngoại giao có xu thế phát triển, đánh dấu những mốc quan trọng. Ông xứng đáng là người đã dẹp yên thù trong, giặc ngoài, tạo thế mạnh nước nhà và tỏ rõ quyền uy với nhà Tống phương bắc. Năm Ất tỵ 1005, vào tháng ba Vua Lê Đại Hành băng hà ở điện Trường Xuân. Khi vua Lê mất, quần thần an táng và xây dựng lăng mộ ở phía tây nam chân núi Mã Yên. Kích thước của lăng nhỏ hơn lăng của vua Đinh Tiên Hoàng nhưng vẫn chứng tỏ được thế uy nghi của vị đế vương. Phía sau là bia đá, mặt chính của bia có dòng chữ: "Lê Đại Hành Hoàng Đế lăng" và dòng niên đại của bia: Minh Mệnh năm thứ 21 (1840). Theo truyền lại trong dân gian, vùng đất Trường Yên khi xây dựng Kinh đô Hoa Lư, vua Đinh và vua Lê đều lấy Mã Yên Sơn làm tiền án, lấy dãy Đại Vân làm hậu chẩm cho kinh thành. Núi Mã Yên cũng là nơi Vua thường ngự trong mỗi lần duyệt thủy quân. Lăng vua Lê Đại Hành đã được trùng tu vào năm 2020, uy nghi xứng đáng với tầm vóc của vị Hoàng đế. Vị thế lăng vua Đinh và lăng vua Lê nằm trong khu di tích Cố đô Hoa Lư, gắn liền với các di tích trung tâm như: Đền thờ vua Đinh - vua Lê và các di tích phụ cận khác. Ngoài giá trị lớn về mặt lịch sử - văn hóa, nơi ghi dấu ấn vẻ vang của dân tộc, đây còn là nơi được thiên nhiên ban tặng cảnh quan sơn thủy hữu tình, thu hút du khách gần xa về thăm quan, chiêm bái, tri ân bậc vĩ nhân có công lớn với đất nước. Nguồn: Ban Quản lý Quần thể danh thắng Tràng An
Ninh Bình 4000 lượt xem
Đền Bảo Lộc, xã Mỹ Phúc (Mỹ Lộc) được xây dựng trên đất “thang mộc” của An Sinh Vương Trần Liễu, thân phụ của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn và là anh trai của Trần Thái Tông - vị vua đầu tiên của vương triều Trần. Thời Trần, cùng với việc xuất hiện chế độ Thượng hoàng, năm 1262, hương Tức Mặc đổi thành phủ Thiên Trường và được xây dựng quy mô như kinh đô thứ hai sau Thăng Long. Bên cạnh việc xây dựng cung điện, nhà cửa nguy nga tráng lệ cho bậc đế vương, nhà Trần còn phong hàng loạt thái ấp cho các quý tộc, bao quanh như một vành đai bảo vệ Thiên Trường. Ấp An Lạc ngày đó cách trung tâm Thiên Trường 2km (đường chim bay) về phía bắc. Tương truyền, ấp An Lạc là nơi sinh ra và lớn lên của Trần Quốc Tuấn. Với công lao to lớn trong ba cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm, tháng 4 năm 1288 ông được ban tước hiệu “Quốc công tiết chế Hưng Đạo đại vương”. Khi ông mất, triều đình lại phong là: “Thái sư Thượng phụ Thượng quốc công Nhân vũ Hưng Đạo đại vương”. Đền Bảo Lộc ban đầu được xây dựng ven sông Châu gồm ba gian gỗ lim lợp ngói mũi hài, sau bờ sông bị sói lở, đền được di chuyển vào vị trí như hiện nay. Một thời gian dài tồn tại với quy mô nhỏ, đầu thế kỷ XX, đền Bảo Lộc được nhân dân quyên tiền nâng cấp thành công trình kiên cố, quy mô khá lớn, kích thước cao rộng. Đền được xây theo thiết kế của Đông Phương Bác Cổ, song có sửa chữa lại cho phù hợp với kiến trúc cổ truyền của dân tộc. Bắt đầu xây dựng từ năm 1928, phải 5 năm sau công trình mới hoàn thành. Đền nằm chính giữa, quay hướng đông, bên trái là chùa thờ Phật, bên phải là phủ thờ Mẫu, phía sau đền là Khải Thánh thờ vương phụ, vương mẫu, phu nhân của ông. Toàn bộ khu di tích được thiết kế đăng đối, hài hòa, không gian thoáng đãng tạo cảm giác thanh thoát lòng người về lễ thánh. Đền Bảo Lộc nằm chính giữa được xây theo kiểu chữ đinh gồm tiền đường 7 gian rộng, trung đường dài 5 gian, hậu cung 3 gian. Kiến trúc của đền đơn giản, các cột xây bằng gạch, nhiều xà được đổ xi măng cốt thép bền vững, bề thế. Tuy chạm khắc không nhiều, song rải rác ở từng bộ phận vẫn có các đề tài: tứ linh, long cuốn thủy, hoa lá, tùng, cúc, trúc, mai… Đặc biệt, sáu bộ cánh cửa ở hậu cung với những mảng chạm tinh xảo mang đậm phong cách nghệ thuật thời Nguyễn. Trong đền, ngoài bài vị còn có hai pho tượng thờ Trần Hưng Đạo (một bằng đồng, một bằng gỗ). Pho tượng đồng trong tư thế ngồi nặng 4,8 tấn, đặt ở trung đường. Hai bên có tượng Hưng Vũ Vương Nhiễn và Phạm Ngũ Lão là con trai và con rể của ông. Pho tượng bằng gỗ trầm hương được đặt tại hậu cung, hai bên là tượng thầy dạy văn và thầy dạy võ. Đền Khải Thánh nằm ở phía sau, kiến trúc tương tự như đền chính nhưng phần nền cao hơn 3m, thờ thân phụ, thân mẫu, phu nhân và hai người con gái của Trần Hưng Đạo. Cách bài trí thờ tự ở đây thể hiện tinh thần tôn sư trọng đạo, trung hiếu vẹn toàn của Hưng Đạo đại vương. Trong các di tích thờ Trần Hưng Đạo, đền Bảo Lộc có ý nghĩa đặc biệt vì mảnh đất này đã gắn với tuổi thơ của ông. Bởi vậy dân gian có câu “Sinh Kiếp Bạc, thác Trần Thương, quê hương Bảo Lộc”. Hằng năm, vào ngày kỵ của ông (20 tháng 8 âm lịch) rất đông khách thập phương lại có dịp về lễ hội truyền thống Trần Hưng Đạo. Nguồn: Di tích lịch sử - văn hóa Nam Định
Ninh Bình 3762 lượt xem
Khu di tích Đền Trần Nam Định là ngôi đền thờ 14 vị vua nhà Trần cùng gia quyến và các quan lại có công phù tá. Nơi đây còn nổi tiếng với Lễ dâng hương khai ấn Đền Trần đầu xuân và Hội Đền Trần tháng tám âm lịch hàng năm. Khu di tích đền Trần - Nam Định bao gồm 3 công trình kiến trúc chính là: đền Thiên Trường, đền Cố Trạch và đền Trùng Hoa, có kiểu dáng chung và quy mô ngang nhau. Phía trước có cổng ngũ môn. Qua cổng là một hồ nước hình chữ nhật. Chính giữa phía sau hồ là đền Thiên Trường. Đền Thiên Trường thường gọi Đền Thượng, tọa lạc ở vị trí trung tâm của khu di tích Đền Trần Nam Định. Đền được xây trên nền Thái Miếu và cung Trùng Quang của nhà Trần mà trước nữa là nhà thờ tộc của họ Trần. Cung Trùng Quang là nơi các thái thượng hoàng nhà Trần sống và làm việc. Kiến trúc Đền Thiên Trường hiện nay gồm có tiền đường, trung đường, chính tẩm, thiêu hương, 2 dãy tả hữu vu, 2 dãy tả hữu ống muống, 2 dãy giải vũ Đông Tây. Tổng cộng có 9 tòa, 31 gian. Khung đền được dựng bằng gỗ lim, mái lợp ngói, nền lát gạch. Tiền đường là nơi để ban thờ và bài vị của các quan có công lớn phù tá nhà Trần. Trung đường đặt bài vị của 14 hoàng đế nhà Trần. Chính tẩm thờ tự 4 vị thủy tổ họ Trần, và các phu nhân, hoàng phi. Tòa thiêu hương (kinh đàn) đặt ban thờ và bài vị của các công thần nhà Trần. Đền Cố Trạch thường gọi là Đền Hạ, nằm ở mặt Đông của khu di tích Đền Trần Nam Định. Tiền đường đặt bài vị 3 gia tướng thân tín của Trần Hưng Đạo là Phạm Ngộ, Phạm Ngũ Lão và Nguyễn Chế Nghĩa. Trung đường thờ bài vị và tượng của Trần Hưng Đạo, 4 người con trai, Phạm Ngũ Lão và các tả hữu tướng quân. Chính tẩm đặt bài vị cha mẹ, Trần Hưng Đạo và vợ (công chúa Thiên Thành), 4 con trai và 4 con dâu, con gái và con rể. Thiêu hương (kinh đàn) đặt long đình, trong có tượng Trần Hưng Đạo cùng 9 pho tượng Phật. Gian tả vu đặt bài vị Trương Hán Siêu, Phạm Thiện Nhân và các văn thần triều Trần. Gian hữu vu đặt bài vị các võ thần triều Trần, bài vị Trần Công và các thân nhân họ Trần. Đền Trùng Hoa nằm ở mặt phía Tây của khu di tích Đền Trần. Đền được xây dựng mới từ năm 2000, trên nền cung Trùng Hoa xưa - nơi các hoàng đế nhà Trần về tham vấn các vị thái thượng hoàng. Trong đền Trùng Hoa có 14 pho tượng được đúc bằng đồng của 14 hoàng đế nhà Trần đặt tại tòa trung đường và tòa chính tẩm. Tòa thiêu hương đặt ngai và bài vị thờ hội đồng các quan. Gian tả vu thờ các quan văn. Gian hữu vu thờ các quan võ. Hàng năm, tại khu di tích Đền Trần Nam Định sẽ diễn ra 2 lễ hội lớn, đó là Lễ khai ấn Đền Trần đầu xuân và Hội Đền Trần tháng tám, thu hút đông đảo người dân địa phương cùng du khách thập phương về dự, tri ân công đức của 14 vị vua Trần và cầu mong những điều tốt đẹp. Đền Trần là khu di tích lịch sử văn hóa đặc biệt, quan trọng của tỉnh Nam Định được nhà nước xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia năm 2012. Nguồn: Cổng thông tin Điện tử Thành phố Nam Định
Ninh Bình 3726 lượt xem
Đình làng Vân Chàng tọa lạc trên địa phận tổ dân phố số 16, thôn Vân Chàng, thị trấn Nam Giang. Đình làng Vân Chàng là nơi thờ tự và tri ân công đức của nhân dân địa phương đối với Lục vị Tổ sư nghề rèn. Thần phả đình làng Vân Chàng cho biết, sáu vị tổ nghề đã cùng 15 vị tổ thuộc các dòng họ: Đoàn, Trần, Vũ, Nguyễn, Đỗ, Ngô... chiêu mộ nhân dân khai phá đồng ruộng, phát triển sản xuất và mở mang nghề nghiệp. Năm Quý Sửu (1373), đời vua Trần Duệ Tông, niên hiệu Long Khánh 2, sau khi truyền dạy nghề cho người dân nơi đây, sáu vị tổ lại trở về quê cũ làng Hoa Chàng (Hà Tĩnh) tiếp tục truyền dạy nghề rèn. Để tri ân công đức của các ông tổ nghề, nhân dân địa phương đã đặt tên làng là Hoa Chàng - quê gốc của các vị Tổ sư (đến thời Nguyễn đổi thành làng Vân Chàng); lập đền thờ tôn làm: Phúc thần - Lục vị Tổ sư - Đương cảnh Thành hoàng và lấy ngày 15 tháng 11 âm lịch là ngày sáu vị Tổ sư từ làng Vân Chàng trở về quê cũ làm ngày chính kỵ. Hiện tại đình làng Vân Chàng còn lưu giữ được 6 đạo sắc phong niên hiệu Khải Định 9 (1924) khẳng định công lao “Hộ quốc”, “Tý dân” và gia tặng Lục vị Tổ sư là: Dực bảo trung hưng linh phù Vân Sơn Thánh tổ. Ngoài các đạo sắc phong, thì đình làng Vân Chàng còn lưu giữ nhiều câu đối ca ngợi công lao và sự nghiệp của Lục vị tổ sư. Hiện nay, cùng với đình làng Vân Chàng, thị trấn Nam Giang, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định thờ Lục vị Tổ sư, ở các địa phương khác là Hà Tĩnh, thành phố Hồ Chí Minh đều có nơi thờ các vị Tổ sư nghề rèn. Nghề rèn ở làng Vân Chàng, thị trấn Nam Giang hình thành từ cuối thế kỷ XIV, tính đến nay đã gần 7 thế kỷ. Ban đầu, nghề rèn chỉ là nghề phụ bên cạnh sản xuất nông nghiệp. Trải qua nhiều giai đoạn lịch sử, nghề rèn đã từng bước phát triển, tách khỏi nông nghiệp để đi sâu vào sản xuất chuyên môn hóa, trở thành nghề thủ công truyền thống. Năm 1426, khi nghĩa quân Lam Sơn tiến ra Bắc, một thanh niên người họ Đoàn đã đứng ra tập hợp dân làng đứng lên giết giặc, được phong Dũng tráng Đại tướng quân. Biết nơi đây có nghề rèn, Bình Định vương Lê Lợi đã giao cho dân làng nhiệm vụ rèn vũ khí cho nghĩa quân. Từ đó đến nay, nghề rèn Vân Chàng liên tục tồn tại và phát triển. Cũng trong thời kỳ chống giặc Minh xâm lược, một nhóm thợ Vân Chàng đã đến với nghĩa quân Lam Sơn dùng phương pháp rèn ra ống pháo lệnh bằng sắt. Loại pháo này là hiệu lệnh để nghĩa quân nhất tề vùng dậy tiêu diệt quân thù. Hiện nay, tại đình Vân Chàng vẫn còn lưu giữ được 2 pháo lệnh đúc bằng sắt. Thời Nguyễn, thợ rèn Vân Chàng đi lính, nhiều người được phong “Tượng mục”, có người được phong “Thủy bộ chư dinh Thủy mục” là người cầm đầu lính thợ sửa chữa vũ khí cho các doanh trại quân đội, bao gồm cả quân thủy và quân bộ. Khi giặc Pháp xâm lược Bắc kỳ, nhiều thợ Vân Chàng đứng trong hàng ngũ quân dân chống Pháp. Hơn 2.000 quân Cần Vương do Tiến sỹ Vũ Hữu Lợi (1836 - 1886) chỉ huy đóng tại làng Giao Cù (Đồng Sơn, Nam Trực, Nam Định), tất cả vũ khí đều do thợ rèn Vân Chàng sản xuất. Đến nay, trải qua gần 7 thế kỷ, từ nghề rèn thủ công truyền thống đã phát triển và lan tỏa mạnh mẽ, hình thành cụm công nghiệp cơ khí Nam Giang. Nghề rèn Vân Chàng và cơ khí Nam Giang đã và đang trở thành nền kinh tế mũi nhọn của địa phương, góp phần giải quyết công ăn việc làm, nâng cao đời sống, xây dựng kinh tế - văn hóa - xã hội địa phương ngày một phát triển. Với những giá trị tiêu biểu về lịch sử, kiến trúc nghệ thuật, Đình làng Vân Chàng đã được xếp hạng di tích Lịch sử và kiến trúc nghệ thuật cấp Quốc gia năm 2018. Nguồn: Uỷ Ban Nhân Dân Huyện Nam Trực
Ninh Bình 3690 lượt xem
Chùa và đền Khả Lương ở làng Khả Lương, xã Ninh Thắng, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình. Chùa còn có tên chữ là Thắng Lâm Tự (chùa Thắng Lâm). Đền Khả Lương có địa thế đẹp nằm trên mảnh đất hình con rùa, phía trước sân là miệng con rùa, nên dân làng không san lấp, như một kiểu “thuỷ trì” là nơi tụ thuỷ, tụ phúc. Tương truyền chùa được khởi dựng từ thời Lý, đến thời Nguyễn dân làng di chuyển đền từ địa danh Mả La về phí trước chùa, tạo thành một kiểu kiến trúc “Tiền Thần, Hậu Phật”. Đền có cấu trúc kiểu chữ Đinh hậu cung nối thêm một hàng cột và một mảnh giường tạo thành Tiền Đường ba gian. Hậu Cung ba gian, bốn hàng chân cột bằng gỗ lim, lợp ngói vẩy, vì kèo ngoài, kiểu kèo mê, vì trong kiểu giá chiêng, được chạm khắc rồng hổ phù tứ linh: long, ly, quy, phượng, sơn son thếp vàng lộng lẫy. Đền là nơi thờ cúng Hộ Sinh Đại Vương, người có công cứu giúp dân làng khỏi đại nạn, được Nhà phong là Hộ Quốc Đại Vương, trở thành Thành Hoàng của làng Khả Lương. Chùa Khả Lương có kiến trúc kiểu chữ Nhị (=) Tiền Đường năm gian vì kèo kiểu “thượng giường, hạ kẻ”, ba hàng chân cột, trốn một hàng cột giữa , hàng cột trước được làm bằng đá xanh. Hậu Cung hay Chùa Thượng ba gian, những kèo kiểu “thượng giường, hạ kẻ”, ba hàng chân cột, hàng cột trước và hàng cột sau bằng đá xanh, phía trước có hai con rồng chầu bằng đá (tương truyền từ đời Lý). Chùa thờ Tam Thế, A Di Đà tam tôn, Thích ca sơ sinh, Thánh Tăng, Thổ Địa râu trắng, một tín ngưỡng dân gian với mong ước phù hộ che trở cho nhân dân và ngôi làng của mình. Ngoài ra chùa còn thờ Hàn Lâm, đó là nơi thờ các cô hồn, đây cũng là một việc thờ tự cổ xưa mang tính chất lương thiện tốt đẹp của người dân. Hàng năm chùa và đền Khả Lương diễn ra nhiều các hình thức sinh hoạt văn hóa như ngày hội kỷ niệm vua Trần Thái Tông, ngày xá tội vong nhân, ngày lễ Thích Ca thánh Phật, ngoài ra còn những ngày Tư, Rằm, mùng Một nhân dân trong làng đều thắp hương, cúng bái. Di tích trải qua các thời kỳ cũng là nơi diễn ra nhiều sự kiện cách mạng của địa phương. Trong kháng chiến chống Pháp chùa là cơ sở chữa trị cho thương binh, chùa còn là nơi sơ tán của trường Phổ thông cấp I, xã Ninh Thắng. Nhiều người đã trưởng thành trong mái trường này. Chùa và đền Khả Lương còn lưu giữ được nhiều hiện vật quý như: bia đá, chuông, rồng đá, sắc phong, long ngai, bài vị… đây là những hiện vật có giá trị đang được nhân dân trong làng bảo quản rất cẩn trọng để ghi nhớ công lao của các bậc tiền nhân. Đền và chùa Khả Lương xã Ninh Thắng là một ngôi đền, chùa cổ, có cảnh quan đẹp, cây cối toả bóng xanh mát quanh năm, đây còn là một kiến trúc thời Nguyễn mang phong cách truyền thống của dân tộc. Xuất phát từ những giá trị của di tích, UBND tỉnh Ninh Bình xếp hạng di tích Đền và chùa Khả Lương là Di tích lịch sử văn hóa cấp Tỉnh. Nguồn: Ban quản lý Quần thể danh thắng Tràng An
Ninh Bình 3669 lượt xem