Khám phá lịch sử, văn hóa, con người và cảnh đẹp Việt Nam trên ứng dụng du lịch Travelviet
Tải ứng dụng Travelviet
Hành trình khám phá Mũi Hàm Rồng, Phú Quốc đưa bạn vào một thế giới thiên nhiên hoang sơ tuyệt đẹp, với những bãi biển cát trắng mịn, rặng san hô rực rỡ và rừng nguyên sinh xanh mướt. Hãy nghe Nguyễn Thế Dương (Quảng Ninh) một travel blogger nổi tiếng bật mí .
Mình vừa có một chuyến đi đáng nhớ đến Mũi Hàm Rồng ở Phú Quốc, một trong những điểm đến tuyệt vời nhất trên hòn đảo này. Chuyến đi bắt đầu từ sáng sớm, khi mình rời khách sạn và đón những tia nắng đầu tiên của ngày mới. Đường đi đến Mũi Hàm Rồng thật sự là một trải nghiệm đầy thú vị, với cảnh quan thiên nhiên hoang sơ và những con đường uốn lượn quanh co.
Nguồn ảnh: Sưu tầm
Khi đến Mũi Hàm Rồng, điều đầu tiên mình cảm nhận được là không khí trong lành và mùi thơm của biển cả. Bãi biển ở đây thật đẹp với cát trắng mịn và làn nước trong xanh. Mình dành vài phút để ngắm nhìn khung cảnh yên bình, nghe tiếng sóng vỗ bờ và cảm nhận gió biển mát rượi. Cảm giác như tất cả mệt mỏi và lo toan của cuộc sống thường nhật đều tan biến trước vẻ đẹp thiên nhiên này. Mình đứng lặng yên, hít thở sâu và cảm nhận từng khoảnh khắc tuyệt diệu.
Sau đó, mình quyết định thử sức với hoạt động lặn biển để khám phá đáy đại dương. Đây là lần đầu tiên mình tham gia lặn biển, và cảm giác khi đắm mình vào làn nước xanh ngắt, nhìn ngắm những rặng san hô đa sắc và đàn cá bơi lội quanh mình thật sự khó quên. Mình có cơ hội ngắm nhìn vẻ đẹp huyền bí của đáy biển, những sinh vật biển đầy màu sắc và cả những khoảnh khắc yên bình dưới làn nước. Mình không khỏi ngạc nhiên trước sự đa dạng và phong phú của thế giới dưới lòng đại dương, một thế giới mà mình chỉ có thể nhìn thấy qua màn hình TV trước đây.
Tiếp tục hành trình, mình đi sâu vào khu rừng nguyên sinh quanh Mũi Hàm Rồng. Con đường mòn dẫn lối qua những tán cây rậm rạp, những loài cây cổ thụ cao vút và âm thanh của những loài chim rừng hót vang. Mình cảm thấy như mình đang lạc vào một thế giới hoàn toàn khác, nơi mà thiên nhiên vẫn giữ được nét hoang sơ và tươi đẹp. Mỗi bước đi trên con đường mòn, mình lại phát hiện ra những loài cây, hoa lá độc đáo và những con vật nhỏ bé đang sinh sống trong khu rừng này. Mình cảm thấy như mình đang trở thành một phần của thiên nhiên, hòa mình vào sự sống động và tươi mới của rừng nguyên sinh.
Nguồn ảnh: Sưu tầm
Sau một ngày dài khám phá, mình dừng chân tại một quán ăn ven biển để thưởng thức ẩm thực địa phương. Hải sản tươi sống, được chế biến một cách đơn giản nhưng giữ được hương vị tự nhiên, khiến bữa ăn trở nên đặc biệt. Mình thử qua nhiều món ngon như gỏi cá trích, cua hấp bia, và món lẩu hải sản đậm đà. Mỗi món ăn đều mang đến một trải nghiệm ẩm thực mới mẻ, từ hương vị tươi ngon của hải sản đến cách chế biến khéo léo của người dân địa phương. Bữa ăn không chỉ đơn thuần là việc thưởng thức ẩm thực, mà còn là dịp để mình hiểu thêm về văn hóa và con người nơi đây.
Một điều mình rất thích khi đến Mũi Hàm Rồng là sự yên tĩnh và tĩnh lặng của nơi này. Khác với những bãi biển đông đúc du khách khác, Mũi Hàm Rồng mang đến một không gian yên bình, nơi mình có thể ngồi lặng yên ngắm biển mà không bị làm phiền bởi tiếng ồn ào. Mình đã dành nhiều giờ ngồi trên bãi cát trắng, đọc sách và ngắm nhìn sóng biển vỗ về bờ. Cảm giác thật thư thái và dễ chịu, như thể mình đang tìm lại chính mình trong sự yên tĩnh và tĩnh lặng của biển cả.
Nguồn ảnh: Sưu tầm
Chuyến đi đến Mũi Hàm Rồng kết thúc khi mặt trời bắt đầu lặn xuống biển, tạo nên một khung cảnh hoàng hôn tuyệt đẹp. Mình ngồi trên bãi biển, ngắm nhìn những tia nắng cuối cùng của ngày dần tắt, và cảm thấy lòng mình tràn đầy sự bình yên và hạnh phúc. Hoàng hôn ở Mũi Hàm Rồng thật sự là một cảnh tượng không thể quên, với những dải màu cam, hồng và tím hòa quyện trên bầu trời, phản chiếu xuống mặt biển lấp lánh. Mình đã chụp rất nhiều bức ảnh để ghi lại khoảnh khắc tuyệt đẹp này và sẽ luôn nhớ về nó mỗi khi nhìn lại.
Mũi Hàm Rồng không chỉ là một điểm đến du lịch tuyệt vời, mà còn là nơi giúp mình kết nối lại với thiên nhiên, tìm lại sự thư thái trong tâm hồn sau những ngày làm việc căng thẳng. Mỗi giây phút tại đây đều mang đến cho mình những trải nghiệm mới mẻ và đáng nhớ. Nếu bạn có dịp đến Phú Quốc, đừng bỏ lỡ cơ hội khám phá nơi này nhé! Mình tin rằng Mũi Hàm Rồng sẽ mang lại cho bạn những kỷ niệm đẹp và những khoảnh khắc khó quên, giống như những gì mình đã trải qua.
Nếu như trước đây đa số du khách biết đến Châu Đốc vì có Miếu Bà Chúa Xứ là điểm hành hương linh thiêng, thì ngày nay, Châu Đốc còn được biết đến với nhiều điều tuyệt vời khác. Từ trung tâm thành phố Châu Đốc, ngược dòng sông Hậu, du khách sẽ thấy làng nổi cá bè Châu Đốc – một trong những điểm du lịch Châu Đốc rất đặc biệt. Nằm về phía Tây trung tâm thành phố Châu Đốc khoảng 3km đường sông theo hướng đầu nguồn châu thổ sông Cửu Long huyện An Phú. Những căn nhà nổi cùng các bè cá nép gần nhau tạo thành “làng”, kéo dài khoảng vài km. Nếu về hướng huyện Châu Phú, làng nổi có vẻ xôm tụ hơn, kéo dài hơn. Đông đúc nhất là những nhà nổi quy tụ ở khúc sông thuộc huyện Tân Châu, làng trải dài đến gần 10km. Làng bè nổi trên sông Châu Đốc là làng bè nuôi cá nước ngọt được hình thành từ những năm 60 của thế kỷ trước. Lúc đầu nơi đây chỉ có vài bè nổi nuôi cá theo kiểu tự nhiên, không cần cho ăn vì nguồn nước tốt. Tuy nhiên, từ những năm 70 trở đi, do nguồn lợi kinh tế đem lại cao, số lượng bè cá đã tăng lên đáng kể và dần trở thành điểm kinh tế trọng điểm của An Giang. Điểm nhấn là trong khoảng 1990 đến năm 2005, các vùng Châu Phú, Phú Tân, Chợ Mới, Vĩnh Ngươn có trên 2.000 bè cá với sản lượng trung bình thu hoạch hàng năm trên 20.000 tấn/ năm. Đa phần cá nuôi tại các bè nổi của các vùng đều là các giống cá da trơn như cá tra, cá ba sa chủ yếu phục vụ xuất khẩu sang thị trường Tây Âu và Bắc Mỹ. Vài năm trở lại đây, do biến đổi khí hậu nên sông Mekong cạn dần. Cộng thêm đó là nguồn nước ngày càng ô nhiễm dẫn đến việc cá nuôi tại các nhà bè bị thất thu, một số hộ trắng tay, phá sản. Chính vì vậy mà số lượng bè cá ngày càng giảm và ít dần. Giờ đây, khi các ba sa, cá tra không còn được thị trường ưa chuộng thì người dân chuyển sang nuôi đủ các loại cá thịt như: cá bông, cá he, cá mè dinh, cá mú,cá chim…Nhờ giá cả các loại cá thịt ngày càng tăng lên nên những người nuôi cá bè ở Châu Đốc ăn nên làm ra, mang lại hiệu quả kinh tế cao giúp nhiều gia đình có cuộc sống khá giả. Vì là điểm du lịch trên sông nên việc di chuyển hoàn toàn phải sử dụng bằng tàu hoặc thuyền. Do vậy mà muốn đến làng bè nổi trên sông Châu Đốc bắt buộc bạn phải đến ngã ba Châu Đốc (cách khách sạn Victoria khoảng 500m) hoặc tại bến đò Châu Giang nằm bên kia thị xã Châu Đốc để thuê thuyền. Giá thuê thuyền tại mỗi điểm sẽ có nhiều mức khác nhau, tùy theo chuyến đi của bạn đến những điểm nào và đi bao nhiều người. Tuy nhiên một điều mà bạn có thể an tâm là giá tương đối rẻ và hợp lý. Bên cạnh việc thuê thuyền tại bến thuyền, nếu bạn muốn nhanh và không lo bị chặt chém giá cả. Bạn có thể nhờ nhân viên lễ tân tại khách sạn thuê dùm hoặc mua tour du lịch An Giang trọn gói để chuyến đi được thoải mái mà không lo điều gì. Đến đây bạn sẽ được hòa mình vào không gian của những ngôi nhà nổi đang đung đưa theo dòng thượng nguồn Châu thổ của Cửu Long và hai nhánh sông Tiền sông Hậu. Kiến trúc của những “ngôi nhà” ở làng nổi cũng rất độc đáo. Những ngôi nhà gỗ được sơn nhạt, trần lợp simili hoa văn với đầy đủ tiện nghi, có đáy sâu 5m được cấu tạo bằng gỗ sao, chung quanh bọc lưới inox để nuôi cá ba sa và một số loại cá khác. Phương tiện chính đi lại của người dân là bằng ghe, thuyền. Bạn sẽ được người dân giới thiệu về quy trình nuôi cá trên sông, kể những câu chuyện thăng trầm và lí do vì sao họ bám trụ với nghề đến bay giờ. Tự mình trải nghiệm cho cá ăn, mồi được thả xuống bè, cả một đàn cá phóng lên tranh giành thức ăn trông thật hào hứng, hàng ngàn con cá ba sa đồng cỡ hạng, khoẻ mạnh, quẫy nước tranh ăn làm văng lên tung toé ướt sũng cả mặt sàn. Ngoài những trải nghiệm và tìm hiểu thức tế về nghề nuôi cá bằng bè nổi trên sông. Tại đây bạn còn được hòa mình vào cuộc sống văn hóa miền sông nước đã nổi tiếng bao đời nay. Một cuộc sống không chỉ ăn, chở ở, trên sông mà còn là nơi sinh hoạt đa điều liên quan đến cuộc sống cư trú và sinh tồn. Đây chính là điều làm nên tính đặc sắc có một không hai của người dân miền Tây Nam Bộ. Ngồi trên bè, ngắm những khóm lục bình trôi, cảm nhận luồng gió mang hơi nước mát lạnh từ ngoài sông thổi vào xua tan những căng thẳng mệt mỏi của cuộc sống hàng ngày. Khung cảnh trên dòng sông bình lặng và thơ mộng hơn khi trời vừa sẫm tối. Lúc này các hoạt động buôn bán trên làng bè không còn rộn ràng, những gia đình quây quần bên nhau sau một ngày lao động hăng say. Làng bè nổi trên sông Bassac bắt đầu lên đèn. Ánh sáng từ các nhà bè phản chiếu xuống nước trông giống như thành phố về đêm nổi trên sông, khung cảnh thật lung linh huyền ảo. Nếu đến với Châu Đốc mà không một lần đến với làng nổi thì quả là một điều thiếu sót. Bạn có thể kết hợp tham quan Chợ nổi, làng Chăm Châu Phong và làng Chăm Châu Giang gần đó. Hai làng Chăm hồi giáo nổi tiếng tại An Giang khi sở hữu cho mình nhiều nét văn hóa giao hòa đặc biệt. Tại đây, bạn sẽ được tìm hiểu cuộc sống trong phong tục, tập quán của người Chăm theo đạo hồi. Cùng với đó là tham quan, tìm hiểu thánh đường hồi giáo … và nghề dệt thổ truyền thống đã lưu truyền bao đời nay.
An Giang 3484 lượt xem
Tháng 11 đến tháng 4
Huyện Tri Tôn, An Giang với cảnh quan thiên nhiên tuyệt đẹp, hoang sơ cùng những di tích văn hóa, lịch sử cách mạng hào hùng đã thu hút rất nhiều du khách đến đây khám phá, tìm cho mình phút giây thư giãn và lưu lại những bức ảnh ấn tượng. Du lịch An Giang, nếu bạn muốn tìm một nơi để cắm trại qua đêm trên núi ở Tri Tôn thì Cô Tô là một lựa chọn tuyệt vời. Núi Cô Tô là một nơi ngắm hoàng hôn lý tưởng, từ đây bạn có thể phóng tầm mắt bao quát toàn cảnh huyện Tri Tôn hay một vùng đất giáp biên giới Campuchia của An Giang, với nhiều núi đồi, đồng lúa cũng như những mảnh ruộng của người Khmer sinh sống tại đây. Núi Cô Tô gọi tắt là núi Tô, còn có tên gọi khác là Phụng Hoàng sơn, tên Khmer là Phnom-Ktô, nằm trong dãy Thất Sơn, thuộc xã Cô Tô, Huyện Tri Tôn (An Giang). Núi Cô Tô có chiều cao 614m, dài 5.800m và rộng 3.700m, nơi đây được tạo hóa ban tặng hàng trăm hệ thống hang động ngầm rộng lớn và vững chắc, đây cũng chính là điểm thu hút hàng ngàn lượt du khách đến tham quan mỗi năm. Đến với Cô Tô, du khách sẽ được lắng nghe câu truyện truyền thuyết lý thú được người dân lưu truyền hàng trăm năm qua, rằng các nàng tiên nữ thường hạ phàm xuống vùng núi Thất Sơn những đêm trăng sáng để dạo chơi và vui đùa. Một hôm các nàng chơi trò ném đá và sáng hôm sau nơi ấy xuất hiện một ngọn núi nhỏ, đá chồng chất lên nhau với muôn hình thù hấp dẫn, đó chính là Cô Tô ngày nay. Một giả định khác không gắn với truyền thuyết là do núi có hình dáng giống như cái tô lật úp, nên gọi là núi Tô. Nằm giữa những cánh đồng bao la, bát ngát, ngọn núi Cô Tô khoác trên mình vẻ đẹp hoang sơ, kỳ vĩ say đắm lòng người. Những ngôi nhà được xây dựng trên các vách đá dựng đứng, từng rặng cây đung đưa theo gió như cơn sóng biển đang gợn từng cơn, đem lại khí hậu mát mẻ quanh năm. Khi đặt chân đến nơi bạn còn không khỏi ngỡ ngàng trước khung cảnh bao la rộng lớn và núi non hùng vĩ trước mặt. Núi Cô Tô không có một địa chỉ chính xác trên bản đồ như những chung cư hay hàng quán. Tuy nhiên, bạn đừng lo rằng không tìm được, xét về kích cỡ khổng lồ của chúng thì nhìn từ xa thôi cũng đủ để thấy rồi. Để dễ dàng hơn, bắt đầu từ hướng Long Xuyên khách có thể đi theo đường tỉnh lộ 943 xuôi về thị trấn Núi Sập. Từ đây hỏi đường đến núi Cô Tô sẽ rất dễ dàng. Hoặc bạn cũng có thể đi con đường khác. Rất nhiều hướng đều dẫn tới núi, tuy nhiên với tỉnh lộ 943 thì khách sẽ được tận hưởng nhiều trải nghiệm thú vị hơn. Có nhiều cách để bạn leo tới đỉnh núi, bằng cách đi bộ leo núi, xe ôm, hay xe máy tự túc. Đội xe ôm tự quản của núi Cô Tô có bảng giá niêm yết rõ ràng trong đó mức tiền được tính theo điểm đến cao dần theo độ cao của núi. Nếu bạn chọn phương thức là xe máy thì chỉ trong vòng vài tiếng đồng hồ bạn sẽ đi hết tất cả các điểm lễ bái và ngắm cảnh. Đối với những ai yêu thích khám phá và thử thách có thể đi bộ men theo những bậc thang, ngôi chùa, các bụi cây và những hàng cây cổ thụ, vừa đi vừa cảm thụ khí trời thiên nhiên. Leo núi Cô Tô đơn giản không phải đi qua nhiều địa hình với lối mòn hóc hiểm. Đi bộ, bạn phải mất trọn vẹn 1 ngày mới có thể thăm được núi Cô Tô, chiều lên đi nhanh cũng phải gần hai tiếng, còn đi chậm phải mất đến 3 tiếng. Bạn cần chuẩn bị đôi giày leo núi chuyên dụng. Ở khu vực “Sân Tiên” gần điện Năm Căn có biểu tượng chữ “TRI TÔN” tuyệt đẹp, trở thành điểm check-in gây sốt trong suốt thời gian qua. Được các bạn trẻ ví là “cánh cửa thiên đường”. Mỗi chữ cái cao 7m, nằm trên bệ đỡ cao từ 1,5 – 2m, có lắp đặt hệ thống đèn chiếu sáng bằng năng lượng mặt trời, hàng rào xung quanh để bảo vệ du khách. Nhìn từ chân núi Cô Tô, có thể thấy và chụp hình rõ chữ “TRI TÔN”, xem như lời chào mời của huyện đối với du khách. Còn từ vị trí chữ “TRI TÔN” trên núi, có thể quan sát được toàn cảnh đẹp bên dưới, những cánh đồng lúa vàng, làng xóm và cảnh sông nước hữu tình, bạn sẽ có cảm giác như đang ôm trọn cả thế giới vào lòng mình. Sân Tiên là nơi còn lưu giữ dấu chân khổng lồ in hằn trên đá. Núi Cô Tô có một dấu chân của bàn chân phải, còn núi Cấm còn lưu giữ dấu chân của bàn chân trái. Để nhìn thấy được dấu chân này bạn đi qua ban thờ trên Sân Tiên ra phía mép đá ngoài cùng. Ở sát mép đá có những bậc xuống nhỏ được tạc sẵn. Cô Tô được nhiều du khách chọn là nơi hành hương bởi trên núi có rất nhiều ngôi chùa và miếu thờ, du khách sẽ được phục vụ ăn uống, ngủ nghỉ và tìm hiểu về đời sống chay tịnh nơi đây. Từ điện Năm Căn đi lên khoảng trên trăm bậc đá sẽ gặp miếu Bà Cố rồi tiếp đến Vồ Hội người dân gọi là Dồ Hội. Dồ Hội Lớn và Dồ Hội Nhỏ là hai tảng đá cực lớn của núi Cô Tô mà từ dưới chân núi trên đường đi vào hồ Soài So bạn đã nhìn thấy nó. Để ra sân đá đó, bạn sẽ phải đi qua một ngôi nhà được làm ở phía trước. Dồ Hội là nơi thờ Phật và những vong linh đã mất. Vì vậy trên những bệ đá có hình kim tự tháp nổi bật giữa trời đất bạn sẽ nhìn thấy những câu thư pháp ngắn gọn để tưởng nhớ những người đã đi qua thế giới này về với thế giới khác. Dồ Hội có tầm nhìn cực rộng và thoáng, toàn bộ cánh đồng Tà Pạ sẽ trải ra trước mắt bạn với những tán cây rất đặc trưng khắp mọi nơi tạo thành một nét riêng biệt khác hoàn toàn với những vùng lúa khác của Việt Nam. Từ đây, bạn cũng nhìn thấy núi Cấm và cả núi Tà Pạ đối diện kế bên. Nếu ngắm hoàng hôn thì đến Vồ Hội lớn, ngắm bình minh thì đến Vồ Hội nhỏ, hai nơi cách nhau tầm 50 mét thôi. Vồ Hội lớn là nơi hành hương, cúng bái nên ít góc chụp ảnh hơn. Còn Vồ Hội nhỏ vắng vẻ hơn, bạn tha hồ chụp ảnh. Nếu muốn tìm một nơi để cắm trại qua đêm trên núi ở Tri Tôn thì Cô Tô là một lựa chọn tuyệt vời. Buổi sáng, bạn có thể dậy sớm ngắm bình minh và cảnh vật xung quanh. Buổi tối, từ đỉnh núi Tô, bạn sẽ quan sát được toàn bộ Tri Tôn nhỏ bé ở dưới, với những ánh sáng lập lòe hòa vào những làn sương nhẹ rất tuyệt. Ghé thăm núi Cô Tô bạn sẽ cảm nhận được sự bình yên và thanh thản trong tâm hồn. Xuống đến chân núi, bạn hãy ngồi thư giãn bên hồ Soài So thơ mộng, đây là một hồ nước ngọt nhân tạo do người ta đắp đập chận dòng chảy của suối Vàng, suối Bạc, phục vụ tưới tiêu cho hàng ngàn héc ta đất quanh khu vực núi Cô Tô trong mùa khô hạn. Hồ Soài So cũng là một thắng cảnh nổi tiếng của vùng Bảy Núi bởi yếu tố “sơn” và “thủy” tạo nên “non nước Cô Tô” hữu tình làm say lòng bao lữ khách.
An Giang 3743 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Chợ Tịnh Biên là khu chợ nằm tiếp giáp giữa Việt Nam và Campuchia. Chợ không chỉ là nơi mua sắm quen thuộc của người dân địa phương mà còn là điểm dừng chân lý tưởng của rất nhiều khách du lịch An Giang. Do, hàng hóa dồi dào, vừa có sản phẩm nội địa, vừa có hàng tiêu dùng đến từ Campuchia, Thái Lan… giá cả lại rất bình dân. Đặc biệt, tiểu thương ở đây niềm nở, vui vẻ nên việc mua sắm rất thoải mái luôn tạo ấn tượng tốt đẹp trong lòng du khách. Muốn đi chợ Tinh Biên, nếu xuất phát từ thành phố Long Xuyên, du khách có thể đi theo Quốc lộ 91, chạy khoảng 60km sẽ đến thành phố Châu Đốc. Tiếp tục xuất phát từ Châu Đốc, du khách chạy thêm 30 phút nữa thì đến thị trấn Nhà Bàng. Sau đó, du khách rẽ về đường Xuân Tô khoảng 10km sẽ đến chợ Tịnh Biên. Toàn khu chợ bao gồm các sạp bán liền kề nhau bày bán đa dạng các mặt hàng nội địa và ngoại nhập với mức giá tương đối rẻ như khăn, chăn mền, áo quần, mỹ phẩm,… Các loại đồng hồ cao cấp ngoại nhập, đa dạng kiểu dáng cũng được bày bán rất nhiều. Nổi bật ở khu thực phẩm là các loại khô mắm thơm ngon, đẹp mắt được rất nhiều các du khách mê mẩn như mắm cá linh, khô cá tra phồng, khô cá sửu, mắm thái, mắm sặc, mắm trê, mắm lóc,…tất cả đều có hương vị đặc trưng hấp dẫn với giá chỉ vài chục ngàn đồng. Chợ Tịnh Biên luôn tấp nập người mua kẻ bán vì nơi đây được xem là chợ đầu mối lớn cho toàn khu vực đồng bằng sông Cửu Long, với nguồn hàng dồi dào, đa dạng và giá rẻ. Nhưng đông nhất là vào dịp lễ hội Bà Chúa Xứ, cảnh tượng khu chợ trở nên kín người, mọi người phải chen lấn mới vào được bên trong mua hàng. Một đặc điểm cũng không kém phần thu hút tại Tịnh Biên là khu chợ duy nhất tại miền Tây chuyên bán các loại côn trùng, bao gồm cả các loài cực độc, rất nhiều các khách hàng săn mồi đã tìm đến đây để mua hàng. Các loại côn trùng được bày bán rất phổ biến và bắt khách như mối chúa, tắc kè, bọ cạp, rết, rắn mối, bìm bịp, nhện,… Đặc biệt thỉnh thoảng có nhiều loại rắn độc khá hiếm như rắn hổ, rắn đuôi chuông,… Côn trùng ở đây được bán dưới nhiều hình thức: tươi sống, ngâm rượu, chế biến thành món ăn như chiên giòn hay nướng muối ớt…khiến chợ biên giới Tịnh Biên trở thành khu chợ côn trùng nổi tiếng nhất cả nước. Sau khi mua sắm thả ga, ngay trong khu chợ du khách có thể ghé chân vào các hàng đồ ăn vặt, hàng nước, hàng chè để thưởng thức các món ăn đặc sắc và đậm đà như bún mắm, bún khô, bún riêu, bánh bò thốt nốt, bánh da lợn, bánh bao,…chè, đặc biệt là đừng quên uống 1 ly nước thốt nốt tươi ngon mát lạnh. Đừng quên mua các đặc sản An Giang về làm quà như mắm, đường thốt nốt, quả mây gai, me thái… Đến với Tịnh Biên, ngoài việc sở hữu những món hàng phong phú, chất lượng và những thực phẩm độc đáo, bạn còn có cơ hôi hiểu thêm về cuộc sống và sinh hoạt của người dân vùng biên giới. Chợ Tịnh Biên không những là địa chỉ mua sắm của du khách khi đến với An Giang, mà còn là nơi để trao đổi hàng hóa của người dân giữa 2 nước, góp phần thắt chặt tình hữu nghị, thúc đẩy phát triển kinh tế giữa Việt Nam và Campuchia.
An Giang 3385 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Du khách có thể tới với Búng vào bất cứ thời điểm trong năm, tuy nhiên theo kinh nghiệm của những người đi rồi cho biết du lịch vào mùa nước nổi là đẹp nhất(từ tháng 7 đến tháng 10 âm lịch). Vào mùa nước nổi, Búng Bình Thiên như khoác lên mình một chiếc áo mới đầy sức sống. Lý do là diện tích mặt nước của hồ sẽ tăng gấp nhiều lần so với các tháng khác trong năm. Bạn sẽ có giác mặt hồ như rộng hơn và có thể thoải mái khám phá hệ động thực vật dưới nước. Do đây là hồ nước cho nên phương tiện chủ yếu để tham quan đó là đi bằng thuyền. Thông thường, mỗi thuyền sẽ chở khoảng 4-10 du khách đi tham quan với mức giá giao động từ 150.000 – 300.000 VND một người. Theo như những người chèo thuyền cho biết, do búng có độ dài khoảng 500m cho nên đi một vòng sẽ mất một khoảng thời gian là 40 phút. Đến với Búng Bình Thiên, du khách sẽ được trải nghiệm những cảm giác mới lạ khi đên trên lòng búng bình yên, khám phá nhà bè, lồng nuôi cá và chiêm ngưỡng cảnh sắc thiên nhiên xanh mát. Đặc biệt, tại một góc khuất của búng thì du khách sẽ được ngắm nhìn những bông hoa sen hồng tươi đang đua nhau khoe sắc. Các đó không xa, xuôi theo dòng nước sẽ đưa du khách tới với khoảng trời vàng rực của loài hoa nhút. Màu vàng của hoa hòa quyện cùng với màu đỏ của phù sa, xanh của hàng cây ven bờ khiến bạn nghĩ tới câu “Tôi đã thấy hoa vàng trên cỏ xanh”. Bên cạnh hoạt động ngắm cảnh và chụp ảnh ra thì du khách còn được giăng lưới bắt cá linh, hái bông điên điển,… Trong đó, hoạt động tìm hiểu về cuộc sống của người Chăm sinh sống quanh búng lại được rất nhiều người tham gia. Với những nét sinh hoạt văn hóa rất riêng và đặc sắc của người Chăm sẽ mang đến cho chuyến đi nhiều trải nghiệm về mảnh đất An Giang. Vào dịp lễ 2 tháng 9 hàng năm, du khách tới Búng Bình Thiên sẽ được tham dự vào lễ hội Liên hoan Văn hóa mùa nước nổi. Ban ngày thì diễn ra rất nhiều trò chơi như đua thuyền, bơi lội, chống xuồng đua, nơm cá,… Về đêm, ở trên mặt hồ sẽ diễn ra hoạt động văn nghệ tại một sân khấu nổi mang đậm chất dân gian. Không chỉ thu hút du khách bằng nét vẻ đẹp bình dị, mộc mạc của một vùng quê yên tĩnh, Búng Bình Thiên còn níu giữ thực khách ở lại bằng những món ăn dân dã. Một trong những đặc sản tại Búng Bình Thiên mà bạn nên thưởng thức khi tới đây đó là món cá đồng. Còn nếu như bạn đang chỗ người Chăm thì cà ri và lạp xưởng bò là ngon nhất. Ngoài ra vào mùa nước nổi, du khách còn được thưởng thức các món ăn khác như bông súng bóp gỏi, chuột đồng chiên sả ớt, cá linh non kho tiêu, lẩu cá linh bông điên điển, lẩu mắm bông điên điển, gỏi hoa súng, chả cá linh,…
An Giang 3256 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Mùa nước nổi, từ tháng 9 đến tháng 11 hàng năm, được coi là thời điểm đẹp nhất để trải nghiệm vẻ đẹp rừng tràm. Nước đổ về khiến rừng cây xanh tốt, kết hợp cùng những lớp bèo phủ xanh mặt nước, tạo nên khung cảnh đẹp. Mùa nước nổi cũng tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của các loài cá tôm và là điểm đến hấp dẫn cho nhiều loài chim. Hãy dành một ngày ở rừng tràm Trà Sư để tận hưởng hết các không gian trong rừng, ăn bữa trưa với các món đặc sản miền Tây. Để thuận tiện di chuyển, du khách nên nghỉ đêm ở thành phố Châu Đốc, khởi hành đi rừng tràm vào buổi sáng, ở lại đến chiều. Rừng tràm Trà Sư nằm cách thành phố Châu Đốc khoảng 30 km, thời gian di chuyển 30 đến 40 phút bằng ôtô hoặc xe máy, đường đi thuận tiện. Thời điểm tốt nhất trong ngày để khám phá rừng tràm là vào sáng sớm hoặc hoàng hôn. Khoảng 15-17h, các loại chim, cò tụ tập về rừng nhiều, tạo nên cảnh thiên nhiên đẹp. Vé tham quan bao gồm toàn bộ khu rừng tràm và thưởng ngoạn cầu tre dài nhất Việt Nam: 100.000 đồng một người. Đây là vé bắt buộc vào rừng, miễn phí với trẻ em dưới 1m3 và người trên 70 tuổi. Vé dịch vụ tàu (xuồng máy): 50.000 đồng một người Vé dịch vụ xuồng chèo (3-4 người một xuồng): 50.000 đồng một người Các tour và nhóm đối tác sẽ có mức giá ưu đãi riêng, liên hệ trước với khu du lịch. Cầu tre xuyên rừng tràm Trà Sư được Tổ chức Kỷ lục Việt Nam công nhận dài nhất Việt Nam, với tổng chiều dài 10 km và kinh phí xây dựng trên 10 tỷ đồng. Tuy nhiên, cầu mới hoàn thành giai đoạn 1 và đưa vào hoạt động đầu năm 2020 với chiều dài gần 4 km. Đoạn cầu đã khánh thành sử dụng trên 500.000 cây tre các loại và kinh phí xây dựng hơn 5 tỷ đồng. Giai đoạn 2 với chiều dài khoảng 6 km đang được triển khai xây dựng. Dọc tuyến cầu tre được chia thành 5 nhánh có thiết kế chòi nghỉ tại mỗi nhánh. Càng đi vào sâu, khung cảnh hai bên cầu càng đẹp, không gian yên tĩnh và mát mẻ. Cầu dẫn vào bến xuồng máy, nơi du khách có thể lên xuống để thay đổi lộ trình. Ngoài ra, bạn có thể Tham quan rừng bằng thuyền máy hoặc xuồng. Từ bến, du khách có thể lựa chọn xuồng máy (tắc ráng) hay thuyền ba lá. Thuyền máy sẽ đi tốc độ cao, xa hơn. Du khách sẽ trải qua một cuộc hành trình vượt qua những con rạch, chạy thẳng vào lòng rừng tràm. Dọc đường đi, có thể quan sát người dân địa phương thu hoạch mật ong hoa tràm từ các thùng nuôi được đặt trong rừng. Đây là một cơ hội để thư giãn, tận hưởng cảnh đẹp, và cuộc sống của người dân nơi đây. Tham quan rừng tràm bằng thuyền máy hay xuồng ba lá cũng đều là cơ hội cho du khách chụp được những bức ảnh đẹp giữa không gian xanh, bèo phủ kín mặt nước. Nếu may mắn đi vào ngày có nắng, những tia nắng xuyên qua tán cây chiếu xuống sẽ khiến không gian huyền ảo. Nếu muốn quan sát bao quát hơn về rừng tràm, du khách nên ghé lầu vọng cảnh và sử dụng kính viễn vọng. Với tầm nhìn 25 km, du khách có thể ngắm toàn bộ rừng tràm, những chú chim đang bay lượn, hay làm tổ trên các tán cây. Từ đây, cũng có thể nhìn được ngôi làng của người Khmer sinh sống cách đó vài km. Ngay gần lối vào, từ bên khu vực phòng vé chính, cách một con kênh Trà Sư, du khách có thể nhìn thấy những ngôi nhà của chim bồ câu. Nơi đây có khoảng 400 con chim được nuôi thả trong rừng nên được gọi là "Thành phố Bồ Câu". Khung cảnh sân chim khá lãng mạn, du khách có thể chụp ảnh check in, chụp ảnh cưới, cho chim ăn và nhiều hoạt động khác. Lưu ý khi đến Rừng Tràm Trà Sư, đầu tiên Mùa nước nổi cũng là mùa mưa, nên du khách lưu ý mang theo áo mưa hay ô đề phòng những cơn mưa bất chợt. Thứ hai, Sử dụng kem chống nắng, các sản phẩm chống côn trùng, nước uống, đồ ăn nhẹ khi đi vào rừng. Cuối cùng, Tuân thủ theo quy định để đảm bảo an toàn khi đi xuồng tham quan.
An Giang 3268 lượt xem
Từ tháng 9 đến tháng 11
1. Đôi nét về Cù Lao Giêng. Cù lao Giêng có chiều dài khoảng 12km và chiều rộng khoảng 7km. Địa danh này còn có nhiều tên gọi khác nhau như Cù lao Đầu Nước, Dinh Châu hay Diên, Riêng, Den, Ven… Người Khmer thường gọi là Koh Teng. Tên gọi “Cù lao Giêng” mang nhiều ý nghĩa khác nhau. Có nhiều tài liệu giải thích, dọc sông Cửu Long có nhiều cồn bãi, nhiều cù lao, trong đó cù lao Giêng là nơi được hình thành đầu tiên nên gọi là “giêng” (ý nói đến tháng giêng là tháng đầu tiên của năm). Tuy nhiên, cách lý giải trên chưa được thuyết phục. Theo người dân thì tên gọi “cù lao Giêng” xuất phát từ chữ “Giêng” do chữ “Doanh” (hay “Dinh”, nghĩa là nơi đóng quân) đọc trại (lái) ra. 2. Đường đi Cù Lao Giêng. Cù Lao Giêng cách trung tâm TP Long Xuyên khoảng 25 km, cách TP Châu Đốc khoảng 60km. Muốn đến đây, từ Long Xuyên đi phà An Hoà để qua Chợ Mới. Đi thẳng đến cuối đường quẹo trái, đi thẳng tới hướng cầu Mỹ Luông – Tấn Mỹ. 3. Các điểm thăm quan ở Cù Lao Giêng. Nằm biệt lập giữa bốn bề sông nước, du khách không khỏi ngạc nhiên và đầy thú vị bởi vùng đất nhỏ bé này ẩn chứa cả một quần thể di tích nhiều tôn giáo khác nhau. Du lịch Cù Lao Giêng, bạn còn được hòa mình vào không khí trong lành, tươi mát của “vương quốc xoài”, thưởng thức các món ăn vùng sông nước Miền Tây…Xin giới thiệu đến du khách các điểm tham quan không thể bỏ qua tại Cù Lao Giêng: - Nhà thời Cù Lao Giêng; - Tu viện Chúa Quan Phòng; - Tu viện Phanxico; - Nhà thờ Rạch Sâu; - Chùa Bà Lê (Phước Hội Tự); - Thành Hoa Tự (còn gọi là chùa Ông Đạo Nằm); - Chùa Bà Vú; - Chùa Phước Thành; - Di tích Cột Dây Thép; - Lăng Ba Quan Thượng Đẳng; - Phủ thờ Nguyễn Tộc; 4. Khách sạn, homestay Cù Lao Giêng Chợ Mới. Đến Cù Lao Giêng bạn nên ở lại để cảm nhận cuộc sống bình dị thường ngày của người dân xứ cù lao. Bạn có thể nghỉ lại tại các nhà trọ, nhà nghỉ, khách sạn…trên địa bàn. Đặc biệt có các cơ sở dịch vụ có đủ điều kiện tiếp khách quốc tế như: Happy homestay An Giang ở xã Bình Phước Xuân, khách sạn 1 sao Thanh Bình (thị trấn Mỹ Luông) và khách sạn Lê Ngọc (xã Tấn Mỹ), Út Hùm Homestay… Với loại hình homestay du khách sẽ được cùng gia chủ trải nghiệm câu cá, gói bánh tét, làm đậu hủ, làm nhang… thực sự thú vị. 5. Đặc sản Cù Lao Giêng Đến đây, du khách sẽ được thưởng thức các món ăn dân dã miệt vườn, trong đó có món cá bông lau, xôi phồng, dưa xoài, dưa cóc, rượu chanh chuối… Món ngon nổi tiếng nhất phải kể đến đó là dưa xoài. Xoài non chừng bằng ngón chân cái, gọt vỏ, xẻ đôi, hoặc xẻ tư, bỏ hột rồi cho vô nước ngâm. Sau đó, người ta rửa sạch, ngâm muối rồi đem xả một lần nữa khi ướp nước đường thắng cùng ớt đâm. Sau đó cho xoài đã ướp gia vị vào bọc ni lông, cột chặt miệng, đặt trong thùng xốp, dằn nước đá. Để có những miếng dưa xoài ngon là bí quyết ướp gia vị đúng liều lượng nhưng không sử dụng phèn chua hoặc hàn the để tạo độ giòn. Bốc miếng dưa có màu vàng nghệ đưa lên miệng cắn, dưa giòn trong răng nghe thấy “đã”, nhai nhẹ: vị mặn ngọt chua cay của nó thấm nhanh trong miệng. Muốn mặn, ngọt và cay “nặng” hơn thì chấm dưa vào dĩa muối ớt. Ngoài ra bạn đừng quên mua dưa xoài hay xoài tươi về làm quà cho người thân và bạn bè. Hiện trên địa bàn có 500 ha xoài sạch, an toàn theo tiêu chuẩn VietGAP. Bạn có thể mua sắm tại các cửa hàng trái cây ở chợ Tấn Mỹ, các vườn xoài, cơ sở sản xuất dưa xoài Hương Giang, dưa xoài Trường Giang… Đứng trên cầu Mỹ Luông – Tấn Mỹ nhìn bao quát dãy đất cù lao xanh mượt trong làn gió sông Tiền đang ầm ập tràn về quả là điều thú vị và nghe lòng thư thái, lãng mạn vô ngần. Xa xa tiếng chuông ngân trong trẻo với bao thanh âm huyền bí từ các nhà thờ làm du khách phải xao lòng. Cù lao Giêng xứng đáng là một đồng bằng sông Cửu Long thu nhỏ, đại diện cho nền văn minh sông nước miệt vườn. Nguồn: thamhiemmekong.com
An Giang 4504 lượt xem
Từ tháng 9 đến tháng 11
Di tích Cột dây thép ở ấp Long Thuận, xã Long Điền A, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. Cột dây thép được thực dân Pháp xây dựng từ cuối thế kỷ 19, làm hệ thống thông tin liên lạc nối giữa 2 xã Long Điền và Tấn Mỹ, được bố trí nằm sát bên một nhánh sông Tiền. Thân cột được làm từ 4 cột trụ thép, gắn kết vào nhau tạo thành hình tháp, chóp vuông, với tổng chiều cao hiện nay hơn 30m, rất vững chắc. Mỗi chân bằng thép hình chữ (L) nối kết không đều, cách nhau khoảng 1,5m. Cột có bệ đá bao xung quanh, nằm ở vị trí giữa cổng chính vào khu di tích. Khu di tích có diện tích khoảng 3.000m2. Ngoài khuôn viên rộng lớn dành tổ chức kỷ niệm hay các sự kiện, bên trong còn có nhà truyền thống, lưu giữ những đồ vật, hình ảnh một thời của lãnh đạo và nhân dân địa phương. Ngày 3/2/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời trên cơ sở thống nhất 3 tổ chức Đảng ở nước ta, dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc (Hồ Chí Minh). Đảng ra đời như ánh hào quang soi sáng con đường cho cách mạng Việt Nam, vận động thu hút đông đảo quần chúng nhân dân giác ngộ và đi theo con đường cách mạng của Đảng. Tại An Giang, tỉnh đã chọn Chợ Mới làm điểm phát triển tổ chức. Từ đây, chi bộ Đảng đầu tiên cũng được thành lập tại xã Long Điền vào tháng 4/1930. Lúc đầu gồm 3 đồng chí: Lưu Kim Phong, Bùi Trung Phẩm và Đoàn Thanh Thủy. Nhằm phát triển mạnh cơ sở, các đồng chí đã đi sâu vào vận động quần chúng nhân dân, thợ thủ công. Để qua mắt bọn tay sai và thực dân, lợi dụng phong trào bóng đá ở sân vận động Mỹ Long (xã Long Điền), các đồng chí đã bí mật truyền tay nhau để tuyên truyền Đảng Cộng sản sâu rộng. Chúc mừng sự kiện hình thành chi bộ Đảng đầu tiên của tỉnh An Giang, một lá cờ Đảng đã được treo trên đỉnh Cột dây thép, nhưng sớm bị thực dân Pháp lấy xuống. Mấy hôm sau, lá cờ Đảng thứ 2 được treo lên trong đêm khuya. Sáng hôm sau lá cờ đỏ “búa liềm” phất phơ tung bay như “Ánh hào quang trên dòng sông Tiền”, khiến kẻ thù vừa phẫn nộ và lo sợ, còn nhân dân vô cùng phấn khích. Từ đây, Cột dây thép chính là địa điểm mà Đảng ta đã tập hợp quần chúng nhân dân 2 lần biểu tình. Nhiều chi bộ Đảng cũng được thành lập và lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành nhiều thắng lợi. Khu di tích hiện còn lưu giữ một số đồ vật trong nhà truyền thống. Với những dấu mốc son trong phong trào đấu tranh giành độc lập, Cột dây thép trở thành địa danh lịch sử cách mạng tiêu biểu và được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch quyết định công nhận là Di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia ngày 9/1/1990. Nguồn: Báo An Giang online
An Giang 4951 lượt xem
Đình thần Nguyễn Trung Trực hay Đền thờ Nguyễn Trung Trực tọa lạc ở phía Tây trung tâm thành phố Rạch Giá, là ngôi đình thờ Nguyễn Trung Trực sớm nhất và lớn nhất trong số chín ngôi đền thờ ông trên địa bàn tỉnh Kiên Giang, hiện nằm ở số 14 đường Nguyễn Công Trứ, phường Vĩnh Thanh, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang. Nguyễn Trung Trực tên thật là Nguyễn Văn Lịch, sinh năm 1838, tại Bình Nhật, huyện Cửu An, phủ Tân An (nay thuộc xã Bình Đức, huyện Bến Lức, tỉnh Long An). Lớn lên trong hoàn cảnh đất nước bị thực dân Pháp xâm lược, ông tham gia và lãnh đạo nghĩa quân chống Pháp. Ông bị thực dân Pháp bắt và bị chúng xử chém tại Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang, khi ông mới 30 tuổi. Ngày 10/12/1861, Nguyễn Trung Trực cùng nghĩa quân lập nên chiến công vang dội, đốt cháy tàu Espérance của giặc Pháp trên vàm Nhật Tảo, tiêu diệt nhiều tên địch. Sau chiến công Nhật Tảo, Nguyễn Trung Trực được triều đình phong tặng chức quản cơ, đây là bậc võ quan được xếp vào hàng chánh tứ phẩm. Cuối tháng 6/1867, thực dân Pháp chiếm Vĩnh Long, tiếp đó là các tỉnh An Giang và Hà Tiên. Lúc này, Nguyễn Trung Trực cùng một số nghĩa quân về Hòn Chông xây dựng căn cứ, chuẩn bị lực lượng tiếp tục tấn công địch. Sau những chiến công vang dội của Nguyễn Trung Trực, giặc Pháp và tay sai điên cuồng truy tìm ông, chúng treo giải thưởng cao cho ai bắt hoặc giết được ông. Độc ác hơn, chúng bắt giữ mẹ ông hòng gây áp lực, buộc ông đầu hàng; đồng thời chúng tăng cường lực lượng trấn áp nghĩa quân. Không khuất phục kẻ thù xâm lược, Nguyễn Trung Trực và nghĩa quân đã rút ra đảo Phú Quốc để bảo toàn lực lượng, xây dựng căn cứ tiếp tục chống Pháp. Ngày 19/9/1868, giặc Pháp đưa hơn 100 lính Mã tà ra Phú Quốc, tấn công Hàm Ninh; sau đó chúng tăng cường thêm viện binh tấn công Dương Đông. Chúng bao vây, khủng bố, khống chế gắt gao nhân dân trên đảo hòng cô lập và triệt hạ nghĩa quân. Trước cảnh đồng bào bị đàn áp, khảo tra, vũ khí của nghĩa quân cạn kiệt, thế giặc lại mạnh, Nguyễn Trung Trực đã quyết định hy sinh bản thân mình để bảo toàn lực lượng cho nghĩa quân và tính mạng cho đồng bào. Cảm phục và tôn kính người anh hùng của dân tộc, sau khi Nguyễn Trung Trực bị kẻ thù hành hình, đồng bào đã lập bài vị bí mật thờ ông tại Lăng Cá Ông. Ban đầu, nơi đây chỉ là một ngôi đền nhỏ bằng gỗ, mái lợp lá; sau nhiều lần sửa chữa, Đền thờ Nguyễn Trung Trực ngày càng khang trang hơn. Năm 1987, di tích Đình và Lăng mộ Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực đã được Bộ Văn hóa cấp bằng công nhận Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia. Đình Nguyễn Trung Trực nằm bên bờ sông Kiên hướng ra biển, phía trước có cột cổng lớn ghi tên tự ngôi. Hiện nay, không chỉ ở thành phố Rạch Giá, mà nhiều nơi trong tỉnh Kiên Giang cũng có hàng chục ngôi đền thờ Nguyễn Trung Trực, như đền thờ ở huyện Hòn Đất, đền thờ ở huyện Châu Thành, đền thờ ở huyện Kiên Lương, đền thờ ở huyện Phú Quốc… Một số tỉnh như Long An, An Giang, Cà Mau, Bình Định… đều có đền thờ Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực. Hằng năm, vào ngày 26, 27, 28 tháng 8 âm lịch hàng năm, nhân dân trong tỉnh và các địa phương trong cả nước lại hội tụ về thành phố Rạch Giá để tưởng nhớ Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực. Nguồn: Cổng thông tin điện tử Sở Văn hóa và Thể thao Kiên Giang
An Giang 4845 lượt xem
Đình Vĩnh Hoà là một di sản lịch sử văn hoá đã tồn tại gần 300 năm, là ngôi đình cổ nhất của tỉnh Kiên Giang, là nơi sinh hoạt văn hoá thuần tuý của nhân dân vùng Rạch Giá từ lúc con người đến đây khai hoang lập ấp. Đình Vĩnh Hoà thường gọi là đình Vĩnh Huề, tọa lạc tại số 61 đường Nguyễn Hùng Sơn, phường Vĩnh Thanh Vân, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang. Đình được xây dựng từ đầu thế kỷ thứ 18 với tên gọi đầu tiên là miếu Hội Đồng, miếu thờ Thành Hoàng Bổn Cảnh, vị Tôn Thần thời Trung Hưng mà nhân dân cho là rất linh ứng. Năm 1883, ngôi miếu cổ Hội Đồng được xây dựng lại to hơn thành đình. Đình Vĩnh Hòa tự hào được triều đình Huế hai lần phong sắc: thời vua Minh Mạng (1832) và thời vua Bảo Đại (1934). Trong lịch sử chống Pháp xâm lược đầu thế kỷ 19, đình Vĩnh Hoà là điểm khao quân của anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực sau khi hạ đồn Rạch Giá (16/6/1868). Trong thời kỳ tiền khởi nghĩa 1932-1945, đình Vĩnh Hoà là điểm tựa của nhân dân Rạch Giá chống áp bức bóc lột, là một trong những nơi thành lập chi Bộ Đảng Cộng sản Đông Dương đầu tiên của địa phương, là cái nôi hoạt động cách mạng bí mật của chi Bộ Đảng Cộng Sản, là địa chỉ đỏ tiếp nhận và truyền bá chủ nghĩa Mác – Lê Nin vào tỉnh Rạch Giá - Hà Tiên. Trải qua nhiều cuộc biến đổi lịch sử, Đình Vĩnh Hoà cũng đã từng bước được tôn tạo lại. Đình có giá trị lớn trên 2 mặt lịch sử và sinh hoạt văn hoá cổ truyền, là nơi tổ chức hội hè, vui chơi như hát bội, múa lân, múa rồng… là công trình nghệ thuật độc đáo của nhân dân lao động nhằm gìn giữ phong tục, tập quán của người Việt trong thời kỳ phát triển lịch sử văn hoá, đánh dấu bước chân của người Việt đến đây mở mang bờ cõi. Đình Vĩnh Hoà được công nhận là di tích Lịch sử cấp quốc gia ngày 5 tháng 9 năm 1989 Nguồn: Du lịch Kiên Giang
An Giang 4478 lượt xem
Tọa lạc tại Khu phố Sơn Tiến, thị trấn Sóc Sơn huyện Hòn Đất, Chùa Sóc Xoài là ngôi chùa có kiến trúc điển hình của Phật giáo Nam tông Khmer tại tỉnh Kiên Giang. Chùa được công nhận Di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia năm 1989. Được thành lập vào những năm cuối thế kỷ 18 do Hòa thượng Danh Phiêch sáng lập. Trải qua 19 đời trụ trì, chùa Sóc Xoài không chỉ là trung tâm sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng, văn hóa cho chư tăng và đồng bào Khmer mà còn là nơi nuôi chứa cán bộ cách mạng trong cuộc đấu tranh chống Pháp, chống Mỹ cứu nước. Bên cạnh đó, chùa Sóc Xoài vừa là trường học dạy chữ viết, là trung tâm giáo dục cho đồng bào Khmer tại địa phương. Theo Đại đức Danh Hữu Giang, Phó trụ trì chùa Sóc Xoài cho biết, ngôi chùa Sóc Xoài được coi là một địa điểm che chở, quây quần bà con Khmer tại địa phương, là điểm kết nối văn hóa, tình đoàn kết dân tộc, là nhân tố làm đẹp thêm truyền thống dân tộc, tôn giáo của nhân dân Hòn Đất nói riêng và tỉnh kiên Giang nói chung. Theo Đại đức Danh Hữu Giang, Phó trụ trì chùa Sóc Xoài nói: Chùa Sóc Xoài có truyền thống đấu tranh trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước và ngày nay luôn thể hiện vai trò hướng dẫn đồng bào Khmer tu tập theo giáo lý Phật, thực hành văn hóa theo truyền thống dân tộc. Ngoài ra, chùa Sóc Xoài còn tái hiện một số dụng cụ dùng để đánh bắt cá, làm ruộng nương được làm bằng tre như: nôm, sniên, trúm, giỏ đựng cá,… và nhiều vật dụng sinh hoạt như: nọc cấy, gàu sòng, bừa.. đồng bào Khmer xưa. Theo sự phát triển của xã hội thì các công cụ lao động sản xuất cũng như các vật dụng phục vụ đời sống sinh hoạt của đồng bào Khmer xưa không còn phù hợp với thời đại. Các vật dụng này, theo thời gian sẽ dần đi vào quên lãng và hư hỏng nếu không được bảo quản và giữ gìn. Vì thế các vật dụng này được tái tạo lại với mục đích cho con cháu sau này biết đến các hoạt động sản xuất và nét đẹp văn hóa của ông cha từ thời xa xưa. Về trường học, ở chùa Sóc Xoài thì có dạy tiếng Bali, tiếng săncrít và kinh luận giới. Trong đó, có ngôn ngữ Khmer, giới luật của đức Phật. Bên cạnh đó, còn phối hợp để mở lớp trung cấp Luật. Lớp này là để cho Chư tăng và phật tử hiểu được cái cốt lõi là chính sách, là đường lối pháp luật của nhà nước mình để cho nắm rõ, nhất là luật về tôn giáo, khi mình hiểu rõ mình sẽ dễ hoạt động trong cộng đồng mình và trong chùa mình muốn xây dựng hoặc muốn gì đó cũng không vi phạm pháp luật. Bên cạnh việc dạy chữ, đào tạo kiến thức về văn hóa, về pháp luật cho chư tăng, phật tử, chùa Sóc Xoài còn bảo tồn, lưu giữ bản sắc văn hóa dân tộc thông qua việc tổ chức chương trình văn nghệ, thi diễn thời trang. Thông qua các lễ hội được tổ chức đúng truyền thống văn hóa, giúp giới trẻ người Khmer tại địa phương hiểu biết, tôn quý giá trị văn hóa truyền thống, từ đó hiểu đúng ý nghĩa của lễ hội, bảo tồn giá trị văn hóa dân tộc, nâng cao vai trò của người Khmer trong xây dựng cộng đồng, xây dựng và bảo vệ đất nước. Nguồn: Cổng thông tin điện tử Sở Văn hóa và Thể thao Kiên Giang
An Giang 4324 lượt xem
Di Tích Nhà mồ Ba Chúc thuộc thị trấn Ba Chúc, huyện Tri Tôn, An Giang đã được công nhận là di tích lịch sử quốc gia vào ngày 10/7/1980. Nơi đây lưu giữ hài cốt của những người dân vô tội bị sát hại và được xem là một bản cáo trạng về tội ác diệt chủng của Pôn Pốt, muôn đời còn ghi nhớ. Đồng thời khẳng định giá trị nhân văn, tính chính nghĩa và nghĩa vụ quốc tế cao cả của Quân tình nguyện Việt Nam đối với sự nghiệp giải phóng Campuchia khỏi chế độ diệt chủng và tái thiết đất nước. Vào đêm 30-4-1977, cùng lúc với 14 xã biên giới của tỉnh An Giang, Pôn Pốt đã xua quân tấn công, tàn sát đồng bào ta một cách man rợ. Đỉnh cao của tội ác này là cuộc thảm sát 3.157 người dân Ba Chúc từ ngày 18-4 đến 30-4-1978. Qua 12 ngày đêm bị bọn Pôn Pốt chiếm đóng, Ba Chúc bị dìm trong biển máu. Đi đến đâu chúng cũng cướp bóc tài sản, đốt phá nhà cửa các công trình công cộng; tàn sát đồng bào ta không kể già trẻ, nam nữ. Phần lớn nạn nhân bị bắn, chém, chặt đầu. Nhiều phụ nữ bị hãm hiếp, bị đóng cọc vào chỗ kín, trẻ em thì bị đâm lê trước khi giết chết hoặc xé đôi người, nắm hai chân đập đầu vào gốc cây… Chùa Phi Lai là một trong những địa điểm bị phá hủy nặng nề. Nơi đây, bọn Pôn Pốt giết gần 300 người dân vô tội. Dưới bàn thờ của chùa có 43 người lẩn trốn, cũng bị chúng dùng lựu đạn giết chết 40 người. Tại chùa Tam Bửu, quân Pôn Pốt bắt hơn 800 người. Sau thảm sát, Ba Chúc chỉ còn lại là một vùng đất tan hoang với những nỗi đau thương đến tận cùng. Đó là giai đoạn khó khăn nhất của Ba Chúc. Mọi cơ sở vật chất gần như bị san bằng, Ba Chúc chìm trong tang thương và đầy rẫy mùi tử khí. Thảm sát qua đi, hơn 30 phái đoàn ngoại giao, báo chí và Liên Hiệp quốc đã đến nơi để chứng kiến tận mắt tội ác của bọn Pôn Pốt đối với đồng bào Ba Chúc. Nhà mồ đầu tiên được xây dựng ngay sau khi cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam kết thúc vào năm 1979. Khi đó nhà mồ xây dựng khá đơn giản theo hình lục giác với đặc điểm nổi bật là 4 cánh tay cầm 4 thanh kiếm đẫm máu cắm thẳng xuống đất, thể hiện ý chí căm thù của người dân Việt Nam đối với bọn giết người man rợ Pôn Pốt. Năm 2013, nhà mồ được xây dựng lại, là một quần thể công trình rộng khoảng 5ha, gồm nhà mồ, nhà lưu niệm, hội trường và chùa Tam Bửu, Phi Lai. Điểm nhấn công trình Nhà mồ Ba Chúc hiện tại được thiết kế hình hoa sen úp ngược, với 8 cánh hoa sen được sơn màu trắng, nhằm giảm bớt cảnh tang thương chết chóc. Mỗi cánh hoa sen là nơi trưng bày một nhóm hài cốt theo độ tuổi, giới tính khác nhau như: 86 phụ nữ trên 60 tuổi; 155 phụ nữ từ 21 đến 40 tuổi; 88 thiếu nữ từ 16 đến 20 tuổi; 264 trẻ em từ 3 đến 15 tuổi; 23 nam từ 16 đến 20 tuổi… Những vật dụng như cọc, dùi, dao, búa… mà quân Pôn Pốt dùng để hành hạ, giết chóc người dân Ba Chúc, được đặt nằm im ắng trong các lồng kính, nhưng chứa đựng sức mạnh tố cáo tội ác ghê gớm. Ở nơi đây, nhang khói không bao giờ tắt, luôn có người đến thăm viếng, tham quan. Không ít người đã không kìm được nước mắt thương cảm, xót xa cho những con người vô tội. Hàng năm, lễ giỗ tập thể nạn nhân Ba Chúc được tổ chức vào ngày 16/3 (âm lịch). Đây được xem là lễ giỗ tập thể rất lớn tại Việt Nam, thu hút hàng ngàn du khách, tín đồ tôn giáo và thân nhân các nạn nhân tham gia cúng viếng, cầu nguyện. Nguồn: Du Lịch An Giang
An Giang 3937 lượt xem
Khu Di tích lăng Mạc Cửu thuộc quần thể đền thờ và lăng mộ dòng họ Mạc mà khởi đầu là Mạc Cửu, người đã có công khai phá mảnh đất Hà Tiên hơn 300 năm trước. Di tích nằm trên đường Mạc Cửu dưới chân núi Bình San, thuộc phường Bình San, thành phố Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang. Theo sử sách ghi lại, Mạc Cửu là người Quảng Đông, Trung Quốc. Năm 1680, khi đến Hà Tiên, ông đã dừng lại ở đây để xây dựng và phát triển vùng đất này. Đến tháng 8 năm 1708, Mạc Cửu đã dâng vùng đất Hà Tiên cho nhà Nguyễn và được Chúa Nguyễn là Phúc Chu chấp thuận và phong làm “Tổng trấn Hà Tiên”. Mặc dù đã dâng Hà Tiên cho nhà Nguyễn, nhưng Chúa Nguyễn Phúc Chu vẫn cho Mạc Cửu quyền tự chủ tại vùng đất này, duy trì truyền thống cha truyền con nối như một tiểu vương. Trải qua 7 đời nắm quyền, dòng họ Mạc đã biến vùng đất Hà Tiên hoang sơ thành một trong những địa điểm buôn bán sầm uất nhất trong khu vực. Khu di tích lăng Mạc Cửu gồm: đền thờ, lăng Mạc Cửu cùng với 59 lăng mộ lớn nhỏ khác là những người thân tộc và gắn bó với sự nghiệp dòng họ Mạc trên vùng đất Hà Tiên. Lăng và đền thờ Mạc Cửu được xây dựng từ năm 1735 đến năm 1739. Mặt tiền đền quay về hướng Đông, nơi có núi Tô Châu với dòng lưu thủy Đông Hồ, lưng tựa vào vách núi hình vòng cung vững chãi, bên trái là núi Bát Giac; bên phải là Đại Kim Dự. Đền thờ họ Mạc có tên gọi là Trung Nghĩa Từ, dân địa phương quen gọi là miếu Ông Lịnh. Trước đền thờ là 2 ao lớn nở đầy hoa sen mà trước kia Mạc Cửu đã cho đào để lấy nước ngọt cho dân trong vùng dùng trong mùa khô hạn. Lăng được xây dựng theo kiến trúc ba gian với cổng Tam Quan phía trước, hai bên là hai câu đối bằng chữ Hán Nôm do nhà Nguyễn ban tặng: Nằm bên phải đền thờ là nhà tiền hiền thờ những người trước ông Mạc Cửu đã đến Hà Tiên, bên trái là nhà hậu hiền thờ những người đến sau ông. Ngay chánh điện đền có biển thờ với bốn đại tự: “Khai trấn trụ quốc”. Đây là sự ghi nhận công đức của dòng họ Mạc trong công cuộc khai phá, mở mang bờ cõi nước Việt về phía nam. Bên trong chính điện, bàn thờ ở giữa thờ ngai vị của ông Mạc Cửu và các hậu duệ của ông. Bên phải là bàn thờ các quan văn, quan võ dưới thời họ Mạc, bên trái là bàn thờ các phu nhân của dòng họ. Từ đền thờ quay ra, phía tay trái sẽ có bảng chỉ dẫn lên lăng mộ Mạc Cửu cùng dòng họ nhà Mạc. Với hơn 60 ngôi mộ cổ được chia thành 4 khu riêng biệt: khu 1 là lăng mộ các tiểu vương dòng họ Mạc, khu 2 là lăng mộ các phu nhân, khu 3 là lăng mộ các quan và khu 4 là lăng mộ các thành viên khác của dòng họ Mạc. Ngôi mộ lớn nhất của Mạc Cửu được xây dựng theo lối kiến trúc Trung Hoa, hình bán nguyệt khoét sâu vào triền núi, chỗ chôn hài cốt đúc vôi và nước “ô dước” ra dáng con trâu nằm. Hai bên tả hữu là hai vị tướng, quanh mộ xây hai con rồng quấn vào nhau. Bậc thềm cẩn bằng đá xanh Quảng Tây, nhiều tảng đá dài hơn 3m. Phía dưới lăng Mạc Cửu là mộ bà Nguyễn Thị Hiếu Túc, vợ Mạc Thiên Tứ (trái) và mộ Mạc Tử Hoàng (phải) rồi đến mộ Mạc Thiên Tứ (cũng giống như mộ cha nhưng bày trí khiêm nhường hơn). Tuy trải qua gần 300 năm, nhưng đền thờ, lăng mộ dòng họ Mạc vẫn giữ được nguyên vẹn những nét kiến trúc của thời kỳ đầu. Nguồn: Du lịch Kiên Giang
An Giang 3755 lượt xem