Khám phá lịch sử, văn hóa, con người và cảnh đẹp Việt Nam trên ứng dụng du lịch Travelviet
Tải ứng dụng Travelviet
Tỉnh Vĩnh Phúc là điểm du lịch được nhiều người biết đến với cảnh quan tuyệt đẹp. Sự hình vĩ của thiên nhiên, nét hoang vu núi rừng kết hợp khí hậu mát mẻ chắc chắn sẽ khiến bạn thích thú. Vậy, đến Vĩnh Phúc nên khám phá gì? Chơi gì? Ở đâu? Hãy cùng 63S Travel tìm hiểm danh sách 22+ điểm du lịch tại Vĩnh Phúc ngay trong bài viết dưới đây thôi nào.
Với hệ thống sông núi hùng vĩ cùng những di tích lịch sử, Vĩnh Phúc đang trở thành địa điểm check-in mới của giới trẻ. Dưới đây là top các điểm du lịch tại Vĩnh Phúc nổi tiếng cho bạn khám phá.
Nằm trên độ cao hơn 1000m so với mực nước biển, vườn quốc gia Tam Đảo là thị trấn nổi tiếng nhất của Vĩnh Phúc. Với khí hậu mát mẻ quanh năm, mùa xuân hệ thực vật phong phú, mùa hè se se sương mù, Tam Đảo mang đến trải nghiệm du lịch đặc sắc.
Vườn quốc gia Tam Đảo - Khám phá nét đẹp hoang sơ, kì bí
Du khách có thể chinh phục những không gian tuyệt đẹp như Quảng trường Tam Đảo, Nhà thờ đá, Thác Bạc… cùng thưởng thức ẩm thực đặc sản. Ngắm toàn cảnh và sống ảo tại các quán cà phê cũng là một trải nghiệm khó quên cho du khách ghé thăm nơi đây.
Với nét duyên dáng của vùng núi, Tam Đảo đang trở thành điểm nghỉ dưỡng lý tưởng giữa chốn hiên ngang. Thời điểm thích hợp nhất khi đến tham quan là vào tháng 3 và tháng 4, khi lượng mưa ở mức thấp nhất.
Nằm giữa thiên nhiên hùng vĩ của núi Tam Đảo, lại có một cầu tre nứa bắc qua suối mây là nơi chiêm ngưỡng đám mây trôi lững lờ. Du khách như lạc hạ giữa trời xanh, từ trên cao ngắm cả một vùng núi xum xuê của Tam Đảo.
Cầu Mây Tam Đảo, thiên đường sống ảo được giới trẻ săn đón
Sáng sớm và hoàng hôn là thời điểm vàng để các blogger "sống ảo" với bức hình đẹp nhất tại đây. Cầu mây Tam Đảo cũng trở thành "studio ngoài trời" lãng mạn cho nhiều cặp tình nhân dừng chân ghi lại kỷ niệm.
Nằm giữa khung cảnh thiên nhiên hoang sơ, núi rừng hùng vĩ Tam Đảo, Đập Xạ Hương có vẻ đẹp tự nhiên hiếm có. Hồ nước nhân tạo bên dưới đập với diện tích 83ha, nước trong xanh như gương, phản chiếu bóng núi rừng.
Khám phá hồ Xạ Hương - "nàng thơ" ngủ quên giữa núi rừng Tam Đảo
Không khí trong lành cùng tiếng chim hót véo von tạo nên bản hợp xướng tuyệt vời của thiên nhiên. Đây là điểm đến lý tưởng cho những ai yêu thiên nhiên, muốn tắm suối, tham gia các hoạt động teambuilding hay cắm trại dã ngoại.
Nằm giữa thảm thực vật xanh tốt, Đầm Vạc là một vùng đất đầy kỳ thú nổi tiếng của Vĩnh Phúc. Vẻ đẹp ấn tượng của nơi đây được tạo nên bởi hệ sinh thái đa dạng. Đặc biệt là loài chim vạc, bồ nông tung cánh.
Đầm Vạc trở thành miền đất mê hoặc khách du lịch bởi vẻ đẹp thanh bình của thiên nhiên. Khám phá đầm Vạc, du khách có cơ hội câu cá hay nghỉ dưỡng với ẩm thực hải sản tươi ngon địa phương.
Đã có hơn 300 năm tuổi đời, chùa Hà Tiên trở thành biểu tượng tâm linh của người dân Vĩnh Phúc. Không chỉ cầu mong quốc thái dân an, người đến chùa còn tìm lại sự bình yên trong tâm hồn mình.
Chùa Hà Tiên – Ngôi chùa cầu duyên nổi tiếng ở Vĩnh Phúc
Trong chùa có Giếng Ngọc với nguồn nước trong mát là một phép màu luôn được lưu truyền giữa cộng đồng. Mỗi khi đến chùa, mọi người đều xin một ít nước giếng mang về nhà thắp hương cầu may.
Với lịch sử hơn 300 năm hình thành và phát triển, làng gốm Hương Canh (Vĩnh Phúc) đã trở thành một điểm du lịch hấp dẫn. Nơi đây nổi tiếng với những sản phẩm gốm sành thủ công có chất lượng, đa dạng mẫu mã. Điểm tạo nên sự khác biệt của gốm Hương Canh không chỉ có chất lượng gốm mà còn ở màu sắc và âm thanh. Do cấu tạo chất đất xanh nên gốm sành khi nung già gõ phát ra tiếng "lanh canh" giống như chạm vào kim loại.
Làng gốm Hương Canh – Mộc mạc gốm sành Vĩnh Phúc
Đặc biệt, dùng loại gốm Hương Canh khi dùng pha trà sẽ giữ được hương thơm và độ nóng rất lâu. Nếu dùng để đựng rượu sẽ khiến rượu thơm ngon hơn. Mặc dù gặp nhiều khó khăn, những nghệ nhân làng vẫn dùng hết tâm huyết để phát triển và giữ gìn nghề truyền thống. Khám phá Làng gốm Hương Canh, du khách có dịp tìm hiểu bản sắc văn hóa - nghệ thuật của quê hương.
Nằm trong những chuyến du lịch Vĩnh Phúc, làng hoa Mê Linh là điểm đến thu hút du khách. Với vô vàn sắc hoa rực rỡ quanh năm như hoa hồng, hoa phong lan, hoa cúc... làng hoa khiến lòng người phải mê mải.
Chiêm ngưỡng vẻ đẹp tuyệt vời của làng hoa Mê Linh Vĩnh Phúc
Không chỉ cung cấp hoa tươi cho Hà Nội, làng hoa Mê Linh đang trở thành thương hiệu hoa hàng đầu. Đến với những rặng hoa mênh mông, du khách như lạc vào thiên đường hoa đủ sắc.
Ẩn mình giữa hàng rừng cổ thụ xanh ngút, núi Sáng mang một vẻ đẹp trầm mặc, nổi bật. Được tạo hóa ban tặng, nơi đây như viên ngọc quý của đất Vĩnh Phúc với cảnh quan hùng vĩ.
Dòng suối trong mát cổ kính tuôn róc rách và hàng cổ thụ trăm năm tuổi mỗi ngày vươn tỏa bóng mát. Khám phá núi Sáng, du khách như lạc vào truyện cổ tích thiên nhiên với những kỉ niệm đáng nhớ. Đây là điểm du lịch Vĩnh Phúc phù hợp cho hoạt động khám phá, dã ngoại, núi Sáng thu hút đông đảo mọi người lui tới trải nghiệm thiên nhiên.
Nằm trong quần thể Tam Đảo hùng vĩ, Hồ Bản Long ẩn mình giữa những ngọn núi trùng điệp. Mặt hồ rộng 20ha, nước trong xanh quê mộng, khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp. Hồ Bản Long là sự lựa chọn hàng đầu cho những hoạt động dã ngoại, cắm trại cùng đồng đội.
Đây là một hồ nước ngọt nhân tạo, được xây dựng với mục đích phục vụ tưới tiêu, cấp nước sinh hoạt và du lịch. Khám phá hồ, du khách hòa mình giữa tiếng chim hót và làn nước mát dịu, tận hưởng kỳ nghỉ thư giãn.
Tháp Bình Sơn (Tam Sơn, Vĩnh Phúc) là một kiệt tác kiến trúc được xây dựng từ thời nhà Trần và được lưu giữ đến tận ngày nay. Điểm độc đáo của tháp Bình Sơn khiến du khách ấn tượng đó là được xây dựng mà không cần đến vôi vữa. Đây chắc chắn làm nơi cho bạn check in lý tưởng trong chuyến du lịch Vĩnh Phúc sắp tới.
Bảo tháp Bình Sơn Vĩnh Phúc – Công trình đặc biệt sống mãi với thời giana
Tháp Bình Sơn tên chữ là tháp chùa Vĩnh Khánh, còn gọi là chùa Then. Tháp có 15 tầng nhưng hiện chỉ còn 11 tầng được xây từ thời Lý Trần. Với lối kiến trúc độc đáo, tháp Bình Sơn trở thành một địa danh văn hóa, mang ý nghĩa giáo dịch truyền thống, lòng yêu nước tự hào của dân tộc.
Làng cổ Đường Lâm vẫn gìn giữ nét đẹp xưa của một làng quê miền Bắc với hình ảnh Cây đa nghìn năm, bến nước tấp nập, sân chùa đình yên bình… Với những giá trị lịch sử - văn hóa độc đáo ấy, năm 2006 làng được Nhà nước công nhận di tích.
Ngắm vẻ trầm mặc tựa tranh vẽ của làng cổ Đường Lâm
Đây trở thành điểm đến thu hút ngày một đông đảo du khách, nhờ những nét văn hóa quê nhà được lưu giữ nguyên vẹn. Khám phá làng cổ Đường Lâm, du khách có dịp tìm hiểu truyền thống lâu đời, văn hóa địa phương từ ngày nhỏ.
Tọa lạc ngọn núi Tích Sơn xinh đẹp, chùa Tích Sơn sở hữu cảnh quan núi non hữu tình, rừng xanh bốn mùa. Là di tích lịch sử quốc gia, tuổi đời hàng trăm năm, chùa gìn giữ dáng dấp kiến trúc cổ kính.
Chùa Tích Sơn hay còn được gọi là Ngũ Phúc Tự, là chùa của 5 làng Tích Sơn cổ bao gồm làng Khâu, làng Đậu, làng Hạ, làng Tiếc, làng Sậu. Chùa được mẹ thiên nhiên ưu ái ban tặng khí hậu trong lành cùng cảnh quan đẹp. Vì vậy, chùa đón đông đảo Phật tử và du khách mỗi năm.
Sở hữu kiến trúc xưa cũ và nhiều công trình gồm Chánh điện, nhà Tổ, tam quan, gác chuông… Đặc biệt, Chánh điện được xây theo dáng chữ Đinh, chạm trổ tinh xảo, lấy cột gỗ làm trụ. Ngoài ra, chùa còn lưu giữ nhiều hiện vật, pho tượng có giá trị lịch sử như tượng Phật A Di Đà ngự tòa sen cao 1m.
Nằm bên dòng sông Lô thơ mộng, Vườn cò Hải Lựu trải dài 15ha, trong đó có 7ha là nơi chim, cò làm tổ. Khám phá thiên nhiên, du khách chiêm ngắm đời sống loài chim, thỏa sức dã ngoại ngắm cảnh.
Vườn cò Hải Lựu - khu du lịch sinh thái độc đáo ở Vĩnh Phúc
Vườn cò tạo bản sắc riêng cho Sông Lô với môi trường xanh - sạch - đẹp, thu hút du khách trải nghiệm. Nơi đây trở thành điểm nghỉ dưỡng lý tưởng, gia tăng giá trị du lịch sinh thái cho quê hương.
Nằm cách trung tâm Vĩnh Yên 20km, Làng rắn Vĩnh Sơn là một làng nghề truyền thống chuyên nuôi và chế biến rắn. Khám phá làng, du khách thấy rắn được nuôi trong các chuồng kiên cố, chăm sóc bài bản.
Tại làng rắn, du khách có thể biết cách nuôi, phân loại rắn. Đặc biệt, du khách còn có thể thưởng thức các món ăn đặc sắc được chế biến từ rắn.
Là một trong ba Thiền viện lớn nhất Việt Nam, Trúc Lâm Tây Thiên tọa lạc giữa những rừng thông xanh bạt ngàn cùng cánh đồng mênh mông bao la. Địa điểm du lịch Vĩnh Phúc thu hút đông đảo du khách ghé đến cầu bình an và may mắn cho gia đình.
Thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên – Thắng cảnh Phật pháp ở Tam Đảo
Nếu có sức khỏe, bạn có thể chinh phục con đường 4km lên Thiền viện bằng chân để tận hưởng cảm nhận trọn vẹn. Hoặc chọn đi trên cáp treo ngắm toàn cảnh thiên nhiên hùng vĩ từ trên cao.
Hay còn gọi là thác Tiên Ba đổ từ núi Mỏ Quạ thuộc dãy Tam Đảo. Nằm cách Hà Nội 70km, Thác Ba Ao là điểm check-in lý tưởng trong những chuyến du lịch cuối tuần. Đây là nơi hội tụ 3 yếu tố thác nước, hồ nước và rừng cây tươi tốt.
Ba Ao đổ với độ cao 50m, ẩn mình giữa khung cảnh hoang sơ thuộc dãy núi Tam Đảo hùng vĩ. Không khí mát mẻ, trong lành từ dòng nước suối chảy xuống mang đến sự thư thái tuyệt đối cho du khách.
Điểm đặc biệt của Ba Ao là hợp nhất cảnh thác nước trùng điệp, rừng cây xanh mướt bao quanh và hồ nước trải dài. Cùng với đó là bãi cỏ mềm mại, mát mẻ ngay chân núi, nơi du khách thoải mái nghỉ ngơi chiêm ngưỡng thiên nhiên.
Nằm tại trung tâm Tam Đảo, Nhà thờ đá tỏa sức hấp dẫn du khách nhờ lối kiến trúc Gothic cổ kính. Nổi bật với Tháp chuông cao ngất trời, hàng cột hoa văn nhẹ nhàng kết hợp vòm cửa tạo dáng đẹp mắt. Nếu bạn là người yêu thích nét đẹp cổ xưa thì không thể bỏ qua địa điểm du lịch hấp dẫn này tại Vĩnh Phúc.
Nhà thờ đá Tam Đảo – Một trong bốn nhà thờ đá nổi tiếng của Việt Nam
Là một trong bốn nhà thờ đá nổi tiếng nước ta, nhà thờ đá Tam Đảo được xây dựng từ 1906 theo phong cách thiết kế còn lưu giữ đậm nét văn hóa. Nội thất giản dị nhưng đầy ý nghĩa, đã trở thành địa điểm hành hương quen thuộc.
Cách Hà Nội 25km, Đồi 79 là khu sinh thái theo cấu trúc hoang sơ nhưng có nhiều điều thú vị cho bạn trải nghiệm. Bước vào bên trong, du khách sẽ bị chinh phục bởi rừng cây xanh bạt ngàn, bên dưới là hồ nước trong veo. Trên cao là đài tưởng niệm Bác Hồ san sát cây bạch đàn, khí hậu mát dịu.
Chuyến du lịch sinh thái và tâm linh ở Đồi 79 Mùa Xuân
Không gian được trang hoàng đa dạng, thu hút mọi lứa tuổi chụp ảnh lưu niệm. Nếu có dịp ghé Vĩnh Phúc, bạn nên dành thời gian cho việc check in điểm du lịch đồi 79 này nhé.
Là công trình mang tầm quan trọng đầu mối giao thông, kết nối các di tích lịch sử, văn hóa trên địa bàn Vĩnh Yên, Quảng trường Hồ Chí Minh tạo nên một không gian xanh giữa lòng thành phố sôi động. Quảng trường trở thành điểm đến thư giãn lý tưởng cho người dân sau giờ làm việc căng thẳng.
Nơi đây diễn ra nhiều hoạt động văn hóa, nghệ thuật phong phú, từ triển lãm ảnh, nghệ thuật đường phố đến các lễ hội quan trọng trong năm. Đặc biệt, mỗi dịp cuối tuần, quảng trường trở thành điểm hẹn của các bạn trẻ, gia đình thực hiện nhiều hoạt động vui chơi, giải trí như: Ca hát, nhảy múa, thể thao... góp phần tạo nên không khí sôi động vui vẻ cho thành phố.
Nằm ngay trung tâm TP Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc, Đầm Rưng nổi tiếng với mặt nước xanh trong và rộng lớn quanh năm. Giữa đầm nổi lên một hòn đảo tự nhiên với những bãi cỏ xanh mướt, cây cối um tùm.
Đầm Rưng Vĩnh Phúc - Địa điểm thơ mộng cho cô nàng mộng mơ
Mùa hè, đầm Rưng trở thành điểm hẹn lý tưởng cho du khách tham quan. Không khí mát mẻ phủ kín khu vực, những làn gió nhẹ thổi qua làm dịu mát cơ thể, du khách có thể tận hưởng cảm giác thư thái giữa thiên nhiên trong lành bao quanh.
Ngoài ra, đây còn là nơi lý tưởng cho hoạt động thể thao ngoài trời như chèo thuyền, câu cá... giúp việc khám phá vùng đất mới trở nên thú vị và ý nghĩa hơn. Với vẻ đẹp tự nhiên đặc trưng, Đầm Rưng đã trở thành điểm đến hấp dẫn những du khách yêu thiên nhiên.
Nằm dưới chân dãy Tam Đảo hùng vĩ, Hồ Thanh Lanh nổi tiếng với mặt nước xanh trong và view núi rừng hữu tình. Nơi đây từng là nơi Quận Hẻo Nguyễn Danh Phương dựng đại đồn chống Trịnh – Lê gần 10 năm, để lại dấu ấn lịch sử.
Ngày nay, du khách đến đây không chỉ chiêm ngưỡng cảnh quan hồ rừng như cùng mây bay thoáng, nước xanh bao quát, mà còn đến tham quan di tích như: Đấu đong quân, Vực tắm voi, Bãi bằng thí cháo… nơi lưu giữ kỷ niệm về một thời oanh liệt của dân tộc.
Bên cạnh đó, Thanh Lanh còn là điểm vui chơi lý tưởng cho du khách với nhiều hoạt động thể thao, giải trí. Không gian êm đềm, trong lành mang đến sự thư thái tuyệt đối. Vẻ đẹp kết hợp giá trị lịch sử đặc sắc khiến Thanh Lanh trở thành một địa danh du lịch nổi tiếng tại Vĩnh Phúc.
Nằm giữa vùng thảo nguyên đồi Tam Đảo hùng vĩ, Hồ Đại Lải là món quà tuyệt đẹp mà tạo hóa ban tặng cho người dân Vĩnh Phúc và du khách tham quan. Với diện tích hơn 2.000ha, hồ được bao bọc bởi những dãy núi đồi xanh mướt quanh năm.
Vẻ đẹp thuần khiết của hồ Đại Lải mê mẩn mọi du khách
Khí hậu mát mẻ và những làn gió nhẹ luôn làm cho Hồ Đại Lải trở nên thơ mộng hơn bao giờ hết. Nơi đây là điểm hẹn lý tưởng cho những hoạt động vui chơi, thể thao như đạp vịt, câu cá, check-in đảo chim... cũng như tham quan Khu du lịch Flamingo Đại Lải ấn tượng.
Cuối tuần, du khách còn được thưởng thức những màn trình diễn ca nhạc đặc sắc tại "Đêm nhạc Soul of Forest". Với không gian thiên nhiên kỳ thú cùng dịch vụ du lịch chuyên nghiệp, Hồ Đại Lải là điểm đến thú vị cho mọi du khách tham quan Vĩnh Phúc.
Với khung cảnh thiên nhiên ấn tượng, nhiều công trình kiến trúc độc đáo, làng nghề truyền thống, điểm nghỉ dưỡng lý tưởng… Vĩnh Phúc chính là điểm đến tuyệt vời cho bạn tha hồ khám phá, check in. Mong rằng, với gợi ý danh sách 22+ điểm du lịch tại Vĩnh Phúc kể trên đã giúp bạn lên kế hoạch cho chuyến đi một cách thuận tiện hơn. Chúc bạn có chuyến di thật thú vị nhé!
Phú Thọ 6056 lượt xem
Ngày cập nhật : 06/05/2024
Đền Hùng là nơi thờ cúng 18 đời vua Hùng Vương và tôn thất của nhà vua, những người đã có công dựng nước, được xem là Tổ tiên của dân tộc Việt Nam. Xưa kia vùng đất này là kinh đô của nước Văn Lang, được bao bọc bởi hai dòng sông và những dãy núi non trùng điệp. Chính địa thế đó đã khiến nơi đây có nhiều sông ngòi, ao hồ, núi đồi và phù sa màu mỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho con người định canh định cư, đồng thời cũng dễ dàng phòng thủ, hoặc rút lui trong trường hợp xảy ra xung đột. Theo các tài liệu khoa học, quần thể Đền Hùng bắt đầu được xây dựng trên núi Hùng từ thời vua Đinh Tiên Hoàng (năm 968 – 979). Sau đó, đến khoảng thế kỷ XV, dưới thời Hậu Lê, toàn bộ khu di tích được xây dựng hoàn chỉnh theo quy mô như hiện nay. Đền Hùng có tổng diện tích 845 ha với 4 ngôi đền, 1 ngôi chùa, 1 lăng cùng nhiều hạng mục kiến trúc khác, phân bố từ chân núi lên đến đỉnh núi, hài hòa với tổng thể cảnh quan hùng vĩ. Qua thời gian, nhiều di tích trong quần thể Đền Hùng đã được tôn tạo và xây dựng bổ sung nhưng vẫn giữ được nét cổ kính, nghiêm trang. Suốt hàng ngàn năm qua, Đền Hùng Phú Thọ là biểu tượng linh nghiêm, tôn kính, gắn liền với đời sống văn hóa tín ngưỡng của dân tộc. Lễ Giỗ tổ Hùng Vương được tổ chức vào mùng 10 tháng 3 Âm lịch hàng năm đã đi vào tiềm thức mỗi người Việt Nam với câu ca dao “Dù ai đi ngược về xuôi – Nhớ ngày Giỗ Tổ mồng mười tháng ba”. Hàng năm đến ngày này, hàng triệu người Việt Nam thuộc các thế hệ “con Rồng cháu Tiên” lại nô nức về với đất Tổ để dâng hương tại Đền Hùng nhằm bày tỏ lòng thành kính tri ân đến Tổ tiên, nhớ về cội nguồn dân tộc và cầu mong bình an, sức khỏe cùng những điều tốt đẹp. Với giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học đặc biệt, Đền Hùng được xếp hạng là khu di tích quốc gia đặc biệt theo Quyết định số 1272/QĐ-TTg, ngày 12/8/2009 của Thủ tướng Chính phủ. Có thể nói, Đền Hùng là nơi hội tụ những giá trị văn hóa tâm linh sâu sắc của cộng đồng dân tộc Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử. Điều này thể hiện hết sức cụ thể, sinh động thông qua tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương và lễ hội Đền Hùng. Lễ hội Đền Hùng là lễ hội lớn ở Việt Nam mang tầm vóc quốc gia, thu hút sự quan tâm của tất cả những người Việt Nam chảy trong mình dòng máu “con Rồng cháu Tiên”, dù đang sống trong nước hay ở nước ngoài. Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương từ năm 2012 chính thức được UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại nhờ những giá trị độc đáo và riêng biệt. Đây là dấu mốc quan trọng và vinh dự to lớn không chỉ với người dân đất Tổ mà còn với cả dân tộc.
Phú Thọ 5602 lượt xem
Tháng 2 đến tháng 4
Từ xa xưa, thờ Mẫu đã trở thành nét đẹp tiêu biểu trong văn hóa của người Việt. Nhiều nhà sử học cho rằng, mỹ tục này xuất phát từ mảnh đất Hiền Lương (huyện Hạ Hòa, tỉnh Phú Thọ), nơi có đền thờ Tổ Mẫu Âu Cơ. Dưới tán lá sum suê của cây đa cổ thụ, không biết bao nhiêu thế hệ con cháu Lạc Hồng đã từng dâng hương tỏ lòng thành kính với mẹ Âu Cơ và kể cho nhau nghe truyền thuyết về người mẹ vĩ đại của dân tộc. Tục truyền rằng, ngày nàng Âu Cơ chào đời ở động Lăng Xương (nay thuộc huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ) có mây lành che chở, hương thơm tỏa ngát khắp không gian. Lớn lên, nàng xinh đẹp, thông minh hơn người, chăm đọc chữ, giỏi đàn sáo, lại tinh thông âm luật. Sau khi kết duyên với Lạc Long Quân – con trai của Kinh Dương Vương, nàng Âu Cơ sinh hạ một bọc trứng, nở thành một trăm người con. Một ngày, thấy các con đã lớn khôn, Lạc Long Quân nói với mẹ Âu Cơ: “Ta là giống Rồng, nàng là giống Tiên, tuy khí âm dương hợp lại mà thành trăm con, nhưng chung hợp thật khó vì dòng giống bất đồng”. Nói xong, Lạc Long Quân dẫn 50 con xuống biển. Mẹ Âu Cơ đưa 50 con lên non, đi đến đâu cũng thu phục nhân tâm, khai phá rừng hoang. Một ngày, đi qua Hiền Lương, nơi có núi cao, đồng rộng, sông dài, Mẹ liền cho khai hoang, dạy dân cấy lúa, trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải. Khi trang ấp đã tươi đẹp, Mẹ vội vã đi đến vùng đất mới. Sau này, mẹ Âu Cơ trở về Hiền Lương, gắn bó suốt phần đời còn lại với nơi này. Ngày 25 tháng chạp năm Nhâm Thân, mẹ Âu Cơ bay về trời, để lại dưới gốc đa dải yếm lụa. Ở đó, nhân dân đã dựng lên ngôi miếu thờ phụng, đời đời tưởng nhớ Quốc Mẫu. Đền thờ Tổ Mẫu Âu Cơ chính thức được xây dựng dưới triều vua Lê Thánh Tông (1442 – 1497). Thần tích của đền ghi lại rằng, ngôi đền nằm ẩn dưới gốc đa cổ thụ, mặt quay về hướng chính nam, bên tả có giếng Loan, bên hữu có giếng Phượng, phía trước có núi Giác đẹp như một án thư, sau lưng sông Hồng uốn khúc như rồng thiêng bao bọc. Trải qua hơn năm thế kỷ, đền Mẫu xuống cấp nghiêm trọng. Năm 1998, Đảng bộ và nhân dân Hiền Lương tiến hành trùng tu ngôi đền. Ngôi đền không rộng lớn, đồ sộ nhưng lại được đánh giá cao về mặt nghệ thuật. Khách tham quan có thể tìm thấy ở đây nhiều di vật như tượng Tổ Mẫu Âu Cơ, tượng Đức Ông Đột Ngột Cao Sơn hay các bức chạm tinh tế trên cửa võng, xà ngang, diềm chung quanh cửa thượng cung. Hiện nay, đền chính có bố cục theo kiểu chữ Đinh với ba gian hậu cung và năm gian đại bái. Đền thờ Mẫu Âu Cơ kết hợp với chùa Linh Phúc tạo thành một quần thể di tích có sức hút đặc biệt với du khách thập phương. Bà Nguyễn Thị Tuyết Mai, Trưởng Ban Quản lý Khu di tích Đền Mẫu Âu Cơ cho biết: “Được sự đồng ý của chính quyền, chúng tôi đang nhanh chóng khôi phục đình thờ Đức Ông Đột Ngột Cao Sơn (người con thứ hai của Mẫu) nằm cách đền Mẫu 500m về phía đông để đáp ứng nhu cầu tham quan, tín ngưỡng của nhân dân”.
Phú Thọ 3645 lượt xem
Tháng 2 đến tháng 5
Cách Đền Mẫu Âu Cơ 8km, điểm du lịch Ao Giời - Suối Tiên nằm trên núi Nả thuộc xã Quân Khê, huyện Hạ Hoà. Đây là điểm du lịch với vẻ đẹp hoang sơ, có không khí trong lành, mát mẻ, thích hợp với những du khách ưa khám phá. Theo truyền thuyết, sáng ngày 7 tháng giêng, Mẹ Âu Cơ đã đi về hướng Tây lên núi Nỏ, sau này gọi là núi Nả gặp một khe đá, Mẹ đi ngược theo triền đá gặp một bầy tiên nữ đem xiêm váy xuống cho Mẹ thay và đón Mẹ về trời theo lệnh của Ngọc Hoàng. Dòng nước Mẹ tắm chảy xuống chân núi, tạo thành một con suối, người đời sau gọi là Ao Giời- Suối tiên và ai được tắm ở Ao Giời - Suối Tiên trong 3 năm sẽ có làn da trắng mịn như ngọc, khuôn mặt sáng đẹp như trăng rằm. Đường tới Ao Giời - Suối Tiên hai bên có rất nhiều đỉnh núi lớn, nhỏ trong đó núi Nả cao vượt lên so với những ngọn núi xung quanh. Du khách tới thăm quan có thể đi theo 2 ngả chính để đi thăm Ao Giời, Giếng Bụt, Vực Xanh, Động Tiên, động Không đáy, Thác Bàn cờ, Cánh Tiên. Suối Tiên bắt nguồn từ trên núi Nả, chảy qua các khe đá như dải lụa trắng bạc, vắt ngang sườn núi, nổi bật giữa màu xanh mượt mà của núi rừng xen lẫn màu xanh của mây trời, tạo nên khung cảnh vừa thơ mộng vừa gần gũi. Nước chảy từ trên núi Nả qua nhiều tầng thác xuống dòng suối trong vắt. Lòng suối dày kín lớp sỏi đá và cát vàng làm cho nước suối được thanh lọc tinh khiết, trong vắt, lấp lánh ánh mặt trời phản chiếu. Đầu nguồn của con suối có Giếng Tiên, từ đáy giếng, dòng nước phun lên mát lạnh, ngọt ngào tạo thành Suối Tiên. Suối Tiên quanh co chảy qua nhiều tầng, bậc tạo nên nhiều thác nước thẳng đứng. Suốt chiều dài con suối có rất nhiều thác nước, một số thác cao 20m, ngày đêm tung bọt trắng xóa, trong đó có thác Bàn Cờ, Cánh Tiên là những thác đẹp nhất. Hai bên suối được phủ một màu xanh dày đặc của các loài cây nhiệt đới, chen chúc nhau tầng tầng, lớp lớp. Khung cảnh hoang sơ, không khí trong lành tạo nên hệ động thực vật phong phú ở Ao Giời, Suối Tiên. Dưới chân các thác nước cao là những phiến đá khổng lồ, trải qua thời gian dài bị xói mòn, đã thành những chiếc ao nhỏ mà đáy ao là cả một phiến đá, làm nên vẻ đẹp riêng có ở nơi đây. Ao Giời - Suối Tiên còn nguyên dạng hoang sơ, có tiềm năng du lịch dồi dào, có thể phát triển các loại hình leo núi, cắm trại, nghỉ dưỡng và nghiên cứu khoa học bởi hệ thực vật ở đây rất đa dạng và phong phú. Hiện nay, đường vào điểm du kịch này đã được trải nhựa, thuận tiện cho du khách có những trải nghiệm thú vị tại nơi đây.
Phú Thọ 3827 lượt xem
Tháng 3 đến tháng 11
Theo kinh nghiệm du lịch vườn quốc gia Xuân Sơn, đi du lịch ở đây vào thời gian nào cũng hợp lý bởi mỗi mùa có mỗi vẻ đẹp khác nhau. Vào mùa khô, con đường dễ đi, có thể hạn chế được nhiều rủi ro hơn, phong cảnh tươi mát hơn và thuận lợi cho việc đi chơi hơn. Nhưng vào mùa mưa, mặc dù đường vào vườn quốc gia Xuân Sơn có thể hơi khó đi nhưng du khách sẽ được chiêm ngưỡng dòng thác chảy rì rào, kì vĩ và mạnh mẽ hiếm hoi. Tùy vào nhu cầu sử dụng của mỗi người mà lượng đồ dùng mang theo có thể nhiều ít khác nhau. Vì ở gần điểm du lịch này không có nhiều quán tạp hóa hay nơi cung cấp dịch vụ tiêu dùng nên du khách phải chủ động mang theo áo quần, vật dụng cá nhân, đồ ăn(bánh kẹo, mì tôm, sữa…), giày dép..vv… Nếu cẩn thận hơn hãy mang theo sạc pin dự phòng của điện thoại hoặc máy ảnh. Khi đến Vường quốc gia Xuân Sơn, Đầu tiên, chúng ta phải kể đến: Hang Na, Hang Lạng, Hang Lun, hang Thiên Nga, hang Thổ Thần với nhiều cảnh đẹp hoang dã, mát mẻ, gần gũi với con người nhưng không kém phần kì ảo, huyền bí. Tiếp đó là thăm các bản làng ở vườn quốc gia Xuân Sơn để tìm hiểu văn hóa, cuộc sống nguyên sơ, dung dị, những tập tục độc đáo của người dân nơi đây. Cùng họ trải nghiệm những công việc hằng ngày như đan lát đồ dùng, dệt thổ cẩm hay ủ men nấu rượu, đánh bắt cá ở những con suối gần bản..vv…đảm bảo những hoạt động này sẽ không kém phần hấp dẫn, thú vị. Sau đó, bạn hãy dạo quanh chợ một vòng, trong chợ bày bán nhiều mặt hàng của người dân tộc để bạn có thể tha hồ lựa chọn những đồ vật ý nghĩa làm quà cho bạn bè, người thân hoặc sử dụng vào nhu cầu của mình. Nếu đi về trong ngày thì bạn có thể chủ động ăn uống, tự mang theo đồ ăn nhanh. Nếu không, bạn phải di chuyển đến thị trấn Tân Sơn hoặc TP Việt Trì để thưởng thức những món ăn ngon ở Phú Thọ. Một số món ăn có thể gợi ý đó là: Thịt chua Phú Thọ, thịt chó Phú Thọ, canh rau sắn hầm chân giò…vv…. Giá cả ở các quán ăn hay nhà hàng ở Phú Thọ đều rất bình dân, tuyệt đối không có tình trạng chặt chém để thu lợi.
Phú Thọ 3481 lượt xem
Tháng 3 đến tháng 8
Đồi chè Long Cốc hay ốc đảo chè Long Cốc là một địa điểm du lịch nằm ở xã Long Cốc, huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ. Cách Hà Nội chừng 125 km, Long Cốc là tập hợp của hàng trăm quả đồi bát úp nằm nối tiếp nhau. Diện tích đồi chè lên đến 677 ha, phần diện tích chè có thể thu hoạch là 610 ha. Là điểm tham quan, du lịch mới của tỉnh Phú Thọ, nơi đây thu hút du khách bằng quang cảnh nên thơ, đẹp như tranh vẽ. Không chỉ được ngắm nhìn những đồi chè xanh mướt trải dài, uốn lượn, du khách đến Long Cốc còn có cơ hội tìm hiểu về những giống chè chất lượng cao như LDP1, LDP2, PH1, PH8… Ngoài ra, đây cũng là dịp tuyệt vời để bạn thưởng thức các loại chè Shan Tuyết và chè Bát Tiên đặc sản. Với thắng cảnh trời ban và khí hậu ôn hoà, Long Cốc là điểm đến mà bạn có thể ghé thăm vào bất kỳ thời điểm nào trong năm. Thời điểm lý tưởng nhất để đi du lịch đồi chè Long Cốc là từ tháng 3 – tháng 12 hàng năm. Lúc này, chè lên xanh mát phủ kín cả ngọn đồi, tạo thành những tấm thảm xanh đầy sức sống. Từ tháng 12 trở đi là thời gian “ngủ đông” của chè, đồi chè trở nên đa dạng đường nét và hình khối, kích thích trí tưởng tượng của người nhìn. Nếu muốn có những bức ảnh đẹp, du khách nên đến đây vào buổi sáng sớm, đẹp nhất khoảng đầu hè. Bấy giờ, toàn bộ không gian sẽ chìm trong màn sương mờ ảo, len lỏi chút nắng nhẹ đầu ngày. Trong không khí ấy, vạn vật xung quanh bỗng nhiên đẹp và bình yên đến lạ. Được mệnh danh là “Vịnh Hạ Long của vùng trung du”, Long Cốc là một trong những đồi chè đẹp nhất ở Việt Nam. Sở hữu vô vàn tiềm năng để phát triển du lịch, nơi đây không thiếu những trải nghiệm thú vị chờ bạn khám phá. Đồi chè bát úp Long Cốc có tổng diện tích hơn 600 ha, đặc trưng bởi cảnh quan xanh mướt, đẹp như tranh vẽ. Các quả đồi nhấp nhô, chạy dài nối tiếp nhau đến tận chân trời, hệt như những chiếc bát khổng lồ úp ngược. Điểm xuyết trên bức tranh thiên nhiên hùng vĩ ấy là hình ảnh của những công nhân hái chè, lưng đeo gùi tre, đầu đội nón lá, đẹp đến nao lòng. Đẹp nhất ở đồi chè Long Cốc Phú Thọ là đồi chè Đội 3 và Đội 5. Đây là 2 đồi chè nằm ở vị trí cao nhất trong hệ thống đồi ở Long Cốc. Từ đây, bạn có thể phóng tầm mắt ra xa, ngắm nhìn toàn bộ cảnh quan đồi chè tươi tốt. Mỗi đợt giao mùa từ thu sang đông, sương mù lại bao phủ dày đặc khắp ngọn đồi, tạo thành khung cảnh nên thơ, huyền hoặc. Đến lúc lập đông, mây trời ùa về hoà quyện cùng sương che kín lối đi, ấn tượng vô cùng. Sắc xanh trải dài của ốc đảo chè Long Cốc là background check – in siêu xinh dành cho các tín đồ “sống ảo”. Bình minh là thời điểm lý tưởng nhất để bạn chụp hình đồi chè. Lúc này, đồi chè còn ngủ vùi dưới màn sương, sương sớm đọng lại trên lá, tạo nên một cảnh sắc như mơ như thực, đẹp tựa chốn bồng lai tiên cảnh. Một trong những trải nghiệm thú vị nhất khi đến với thủ phủ chè xanh Long Cốc là thưởng thức các món ăn đặc sản nơi đây. Ghé thăm mảnh đất này, du khách nhất định phải thử qua list món ăn sau: Thịt chua Thanh Sơn, Bánh tai, Trám om cá, Xáo chuối,... và nhiều món ngon khác.
Phú Thọ 3739 lượt xem
Từ tháng 3 đến tháng 12
Được Mẹ thiên nhiên ưu ái, Khoáng nóng Thanh Thủy sở hữu mạch nước ngầm với nhiệt độ dao động từ 45 đến 60 độ C quanh năm. Trong những năm gần đây, Khoáng nóng Thanh Thủy là địa điểm du lịch Phú Thọ thu hút sự chú ý của đông đảo mọi người, đặc biệt các bạn quan tâm về vấn đề sức khỏe. Là nguồn suối nước nóng đầu tiên tại khu vực miền Bắc có giàu hàm lượng Radon có khả năng tăng cường hệ miễn dịch, không quá ngạc nhiên khi đây là địa điểm tham quan có lượng lớn người ghé đến mỗi năm. Đặc biệt, ngày nay, trong khuôn viên khu du lịch còn được thiết kế thêm nhiều khu vực, tiện nghi giải trí như bể bơi, nhà hàng để mọi người có thêm nhiều lựa chọn. Dòng nước khoáng nóng Thanh Thủy là kết quả của quá trình kiến tạo địa chất. Nhiệt độ của nước luôn nóng từ 45 đến 60 độ C ấm áp quanh năm, kể cả vào những ngày mùa mưa. Những dưỡng chất trong nước có công dụng làm đẹp, điều trị các bệnh về da, tốt cho tim mạch cũng như tăng khả năng miễn dịch. Đến đây, bạn có thể thư thái ngâm mình trong làn nước khoáng nóng Thanh Thủy để lưu thông khí huyết, giải tỏa căng thẳng sau những tháng ngày bộn bề công việc. Trong khuôn viên khu du lịch có cả phòng xông hơi, khu vực tắm bùn, tắm sục và bể bơi để mọi người thỏa thích lựa chọn. Bên cạnh tắm suối khoáng nóng Thanh Thủy, thì khi đến đây, bạn còn có cơ hội thưởng thức hàng loạt đặc sản của vùng đất tổ Phú Thọ. Nhà hàng của khu du lịch được thiết kế theo phong cách nhà sàn, nằm ngay bên hồ nước nên luôn mát mẻ, thoáng đãng. Thực đơn của nhà hàng rất đa dạng, chủ yếu là những món đặc sản địa phương, như cá ngạnh sông Đà, cá lăng, cá chép, lợn rừng, gà đồi và dê núi, v.v. Các món ăn được nêm nếm chuẩn vị địa phương, lại được chế biến từ nguyên liệu tươi ngon, hứa hẹn mang đến cho bạn giây phút thưởng thức ẩm thực đáng nhớ. Nhằm đem đến những giây phút thư giãn đáng nhớ cho mọi người, thì khu du lịch khoáng nóng Thanh Thủy còn bố trí sân tennis, phòng karaoke, câu cá, xe đạp và đốt lửa trại. Chắc chắn rằng chuyến đi về với vùng đất tổ Phú Thọ của bạn sẽ thêm phần đáng nhớ, đặc sắc hơn bao giờ hết.
Phú Thọ 3842 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Đền Bắc Cung (tên gọi nôm là đền Thính) thuộc xã Tam Hồng, huyện Yên Lạc là một trong bốn cung đền lớn ở quanh vùng núi Ba Vì và châu thổ sông Hồng thờ đức thánh Tản Viên. Các đền: Tây cung, Nam cung, Đông cung ở bên kia sông Hồng thuộc địa phận Sơn Tây, đây là bốn cung đền được nhân dân xây dựng và bảo tồn tương đối cẩn thận. Đền tọa lạc giữa cánh đồng màu mỡ trên khu đất rộng 10.000m2 tựa mình bên những con kênh uốn lượn, bao quanh là làng mạc trù phú, dân cư đông đúc. Hai bên tả mạc, hữu mạc đứng uy nghi và trầm mặc bao lấy khu sân gạch rộng lớn, trông lên một công trình kiến trúc độc đáo. Đền Thính được khởi dựng cách đây 20 thế kỷ trên nền một ngôi miếu nhỏ thờ đức thánh Tản, nơi trước đó ông đã cho quân nghỉ lại trong một lần vi hành giúp dân khai điền trị thủy. Thần phả truyền lại rằng: Đức thánh Tản (tục vẫn gọi là Sơn Tinh) húy là Nguyễn Tuấn, sinh ngày 15 tháng Giêng năm Đinh Hợi tại động Lăng Xương, xã Trung Nghĩa, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ. Người mồ côi cha từ nhỏ, ở với mẹ và hai anh em họ là Nhuyễn Hiển, Nguyễn Sùng. Hàng ngày, ba anh em vượt sông Đà, sang vùng núi Ba Vì phát rẫy làm nương, tìm kế sinh nhai. Nơi đây, Nguyễn Tuấn đã gặp bà chúa Thượng ngàn, được bà nhận làm con nuôi và ban cho chiếc gậy đầu tử đầu sinh cùng nhiều phép thuật để cứu nhân độ thế. Sau khi chiến thắng Thủy tinh và cưới được công chúa Ngọc Hoa, Người đã từ chối ngôi báu mà Vua Hùng muốn trao, cùng hai em du ngoạn khắp nơi, giúp dân khai điền, trị thủy và được nhân dân nơi nơi tôn kính. Khi đi ngang qua vùng Tam Hồng, Người đã cho quân nghỉ chân, dạy dân trồng lúa, đánh cá…Sau khi ông đi, dân làng kéo tới nơi Đức Thánh nghỉ chân và thấy ở đó còn sót lại một số gói thính nên sau này, đền có tên gọi là đền Thính. Cũng có sự tích lại kể rằng: khi cho quân nghỉ lại nơi đây, đức Thánh Tản đã dậy dân làm thịt Thính nên dân gian mới gọi tên đền như vậy. Từ một ngôi miếu nhỏ, đến đời vua Lý Thần Tông (1072-1128) miếu được xây lại thành đền lớn. Đây là nơi vua đến cầu thọ. Đời Vua Minh Mạng (1820-1840) đền lại được tu sửa nhiều lần. Đến đời vua Thành Thái, Tri huyện Yên Lạc cử bần tăng Thanh Ất trùng tu lại đền, công trình kéo dài đến đời Khải Định thứ 6 mới xong (1900-1921). Trải qua bao thăng trầm, đền tiếp tục được nhân dân địa phương gìn giữ và bảo tồn. Ngày 21/1/1992 đền được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là di tích lịch sử văn hoá. Hàng năm, lễ hội đền Thính được mở từ ngày mùng 6 tháng Giêng đến hết ngày 20 tháng Giêng âm lịch. Lễ hội gồm phần lễ tế, rước kiệu của các làng trong và ngoài xã cùng rất nhiều trò chơi dân gian sẽ được tổ chức. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Vĩnh Phúc
Phú Thọ 5176 lượt xem
Chùa Báo Ân, tên chữ đầy đủ trong thư tịch cổ là Báo Ân Thiền Tự hay Tự Già Báo Ân, tên dân gian thường gọi là chùa Cấm, trước thuộc xã Tháp Miếu, tổng Bạch Trữ, huyện Yên Lãng, tỉnh Phúc Yên, nay thuộc phường Trưng Nhị, thành phố Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc. Chùa được xây dựng vào thế kỷ XII thời vua Lý Cao Tông (1176-1210). Đây là một trong số ít ngôi chùa có niên đại khởi dựng từ thời Lý đến ngày nay. Chùa làm trên một quả đồi cao, cây cối xum xuê, bốn bề lộng gió, phong cảnh đẹp, tĩnh tại, đậm chất u tịch chốn thiền tôn. Xưa khu vực này gọi là núi Tiêu Dao, tục gọi là rừng Cấm có lẽ do vậy mà chùa nổi tiếng với tên gọi chùa Cấm. Theo văn bia, ngọc phả thì chùa đã có từ lâu, đến thế kỷ XII, thái tử con vua Lý Cao Tông đã cúng hơn trăm mẫu ruộng, hai nghìn quan tiền để tu bổ chùa, còn công đức 700 quan tiền để làm tiệc cúng dàng. Giao cho võ tướng họ Nguyễn trực tiếp chỉ đạo, vận động quyên góp công đức tu sửa chùa. Kết quả là chùa được trùng tu xong với “bảy gian san sát vừa xây, cột sơn hoa thắm, màu ngọc tươi chiếu rọi, cung cao điện báu, ánh nhật nguyệt chói ngời sáng láng, tượng phật huy hoàng, tòa sen đĩnh đạc, chuông to gác phượng, khánh quý khám rồng, vẻ lộng lẫy uy nghi rõ rệt…”. Võ tướng họ Nguyễn còn công đức một nghìn quan tiền để mua hơn một trăm mẫu ruộng cúng cho chùa làm ruộng oản. Đến thế kỷ XIV đời vua Trần Anh Tông, chùa Báo Ân lại được công chúa Hưng Nương cấp nhiều tiền của tu bổ, tôn tạo. Để ghi nhớ công đức của ngài, như nhiều ngôi chùa khác trong vùng, nhân dân đã lập điện thờ Hưng Nương công chúa ở trong chùa. Trải qua những biến cố thăng trầm của thời gian cả nghìn năm lịch sử, đến nay chùa Báo Ân vẫn còn tại khuôn viên cũ nhưng đã có nhiều thay đổi. Các tòa kiến trúc cổ như: tiền đường, thiêu hương, thượng điện, nhà tổ, điện thờ công chúa Hưng Nương và điện thờ mẫu do xuống cấp nên đã dỡ bỏ. Hiện nay chùa đã được tôn tạo, xây dựng lại với quy mô lớn, kiến trúc bằng bê tông cốt thép, mái lợp ngói mũi. Trong chùa còn lưu giữ được những di vật, cổ vật có giá trị như: tượng pháp, khám thờ, chuông đồng, bia đá. Trong đó, tiêu biểu nhất là bia đá “Báo Ân thiền tự bi ký” (bài ký bia chùa Báo Ân). Cho đến nay, theo các số liệu rà soát, khảo sát, thống kê, đây là văn bia triều Lý duy nhất còn lại trên địa bàn tỉnh. Văn bia được khắc vào tháng Chạp năm Trị Bình Long Ứng (1209) và được khắc lại về sau, có lẽ là vào cuối thế kỷ XVIII, đặt tại chùa Báo Ân. Bia được nhiều nhà nghiên cứu đề cập đến và công bố trong Thơ văn Lý Trần (Nxb KHXH, H.1977) và Văn bia thời Lý (Nxb ĐHQGHN, H.2010). Đây là tấm bia mang niên đại cổ nhất Vĩnh Phúc và là một trong 18 tấm bia thời Lý còn lại đến nay ở nước ta. Bia cao 1,4m, rộng 0,85m, dày 0,14m, đặt trên lưng rùa đá mai trơn, đầu nhô lên, chân bốn móng choãi ra bốn phía. Bia khắc cả hai mặt với 50 dòng gồm 1498 chữ Hán - Nôm, nét chữ sắc sảo theo lối chữ trân thời Lý, rất đẹp. Nội dung bài ký do Ngụy Tư Hiền soạn với lối văn biền ngẫu, đăng đối, súc tích, Cuối bài ký là một bài minh viết theo lối kệ nhà phật. Nội dung văn bia miêu tả cảnh chùa Báo Ân ở thế kỷ XII hết sức lộng lẫy, huy hoàng, ghi lại công đức tu sửa chùa của thái tử Sâm con vua Lý Cao Tông và võ tướng họ Nguyễn cùng phật tử, nhân dân nơi đây. Theo Nguyễn Hữu Mùi (Nghiên cứu Văn bia Vĩnh Phúc, 2013), mặc dù văn bia còn đậm sự khoa trương, nhưng đã hiện lên rõ ràng hình ảnh của một ngôi chùa thời Lý: chùa chỉ do một người bỏ công đức trùng tu, quy mô chùa bề thế, trong chùa có tượng phật, đài sen, ngoài chùa có chuông, có khánh; chùa sở hữu nhiều ruộng đất và có Hội Thiền Thích Giáo (một dạng hội phật tử, ban hộ tự) để quản lý chốn thiền môn. Căn cứ vào văn bia này có thể thấy, việc xây dựng, trùng tu chùa chiền diễn ra trên đất Vĩnh Phúc đã có từ thời Lý. Việc xây dựng, trùng tu chùa chiền được triều đình khuyến khích chứ không cấm cản và giao cho tầng lớp quan lại, quý tộc đứng ra chủ trì, tổ chức. Việc xây dựng, trùng tu chùa chiền còn được xem như một sự kiện trọng đại trong đời sống tinh thần của nhân dân, thu hút cả vùng, thậm chí cả nước cùng tham gia công đức. Điều đó chứng tỏ trong sự phát triển cực thịnh của Phật giáo thời Lý, địa bàn Vĩnh Phúc cũng là một trung tâm thịnh hành của tôn giáo này. Điều đặc biệt là trong số gần 1500 chữ trên bia, có xen lẫn những chữ Nôm, những chữ Nôm này để ghi tên người và tên đất. Có nhận định cho rằng, đây là một trong những chứng tích chữ Nôm xưa nhất được tìm thấy ở Việt Nam. Trước văn bia này, dấu vết một vài chữ Nôm chỉ mới được tìm thấy ở hai nơi: trên quả chuông chùa Vân Bản, Hải Phòng (năm 1076), trong bài bi ký ở chùa xã Hương Nộn, huyện Tam Nông tỉnh Phú Thọ (năm 1173). Chùa Báo Ân được xếp hạng di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh năm 1995. Trong giai đoạn 2021 - 2025, tỉnh Vĩnh Phúc có dự kiến xây dựng hồ sơ khoa học để đề nghị công nhận Bảo vật quốc gia đối với bia chùa Báo Ân và nâng cấp xếp hạng di tích cấp quốc gia đối với di tích chùa Báo Ân, đây là những hoạt động nhằm tăng cường hơn nữa công tác quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị di sản. Nguồn: Chùa Báo Ân Vĩnh Phúc
Phú Thọ 4658 lượt xem
Tháp Bình Sơn (Tháp Then, Tháp chùa Then, Tháp chùa Vĩnh Khánh) thuộc thị trấn Tam Sơn, huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc; là một kiến trúc Phật giáo mang dấu ấn của một giai đoạn khá dài (khoảng từ thế kỷ XIV tới XVI). Tháp Bình Sơn - Chùa Vĩnh Khánh toạ lạc trên một gò đất cao và rộng rãi, diện tích khu vực khoanh vùng bảo vệ là 17.200m2, bao gồm: Tháp Bình Sơn, tòa Tam bảo cũ, Tam bảo mới, giếng mực, nhà khách, hồ sen, cổng, các công trình phụ trợ. 1. Tháp Bình Sơn Tháp hiện nay cao 16,5 mét, (chỉ còn 11 tầng và 1 tầng bệ vì phần chóp của tháp đã bị vỡ), được cấu tạo với bình đồ hình vuông nhỏ dần về ngọn, với cạnh của tầng dưới cùng là 4,45 mét, cạnh của tầng thứ 11 là 1,55 mét. Toàn bộ ngôi tháp được xây bằng gạch nung không tráng men. Từ bệ tháp đến hết tầng 2, có chiều cao dưới 6 mét hoa văn hoàn chỉnh nhất. Ở hai tầng này có họa tiết trang trí kỹ lưỡng với hàng hoa cúc, cánh sen, lá đề, hoa mặt nhẵn, rồng chạm nổi, cùng mô típ "sư tử hí cầu"… Từ tầng thứ ba trở lên, trang trí vẫn còn, nhưng càng lên cao, chiều ngang mặt tháp càng bị thu hẹp, thì trang trí cũng giảm dần. 2. Toà Tam bảo cũ: được đại trùng tu năm 1976, dạng chữ Đinh, có diện tích 131,5 m2, bao gồm Tiền đường 5 gian , Hậu cung 3 gian . Đặc biệt công trình có 2 cột đồng trụ phía trước, đua ra 6m, tạo như tay ngai. Hệ thống tượng thờ tại đây chủ yếu được làm bằng đất phủ sơn, niên đại cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, một vài tượng có niên đại thế kỷ XX. 3. Tam bảo mới: được xây dựng năm 2012, trên nền nhà tam bảo cũ, hình thức kiến trúc mang phong cách thiền viện. 4. Giếng Mực: tương truyền vị trí này xưa kia là đế của một ngôi tháp cổ màu xanh, khi tháp cổ này biến mất để lại một hố sâu hình giếng tròn. 5. Nhà khách: mới được xây dựng năm 2012, diện tích 283,5m2 có mặt bằng chữ nhất, kiến trúc đao mái, phù hợp với kiến trúc cổ truyền thống. 6. Hồ sen: nằm ở vườn trước tháp Bình Sơn, hiện đang trồng sen 7. Cổng vào khu di tích: gồm 4 cột trụ xây gạch, gắn 2 cánh cổng sắt ở lối chính giữa, hai lối bên rào tạm bằng cây, tre mang tính chất là cổng bảo vệ. 8. Một số trang trí của Tháp Bình Sơn Sư tử hý cầu: một trong những đồ án gây thắc mắc cho các nhà nghiên cứu là "sư tử hý cầu”, vì nó khác xa những con "sấu đớp ngọc" đội toà sen ở các bệ Phật thời Lý. Rồng: có sừng, uốn trong “ổ”, đầu quay vào giữa vòng tròn, thân không cuộn khúc mà lượn thành hình sin, do đó không "thắt túi", chân đạp ra ngoài, hoặc vắt qua thân để đạp ra ngoài, sống lưng hình “răng cưa” một chân trước đưa lên nắm "tóc"... Một số chi tiết vừa nêu phảng phất bóng dáng những con rồng cuối Trần, nhưng các chi tiết khác lại không cho phép quy con rồng trên tháp Bình Sơn vào một kiểu thức nhất định nào cả. Điều quan trọng hơn là rồng Bình Sơn thường đưa chân trước lên nắm tóc, trong một tư thế ngộ nghĩnh, rất nghịch ngợm, do đó khá "dân gian": trong trường hợp này, nó đã mang phong cách của mô - típ rồng vuốt râu thời hậu Lê. Lá đề: là một loại hình tương đối phổ biến, với những hoạ tiết hàm nhiều ý nghĩa. "Lá đề” Bình Sơn thuộc nhiều kiểu thức, nhưng kiểu nào cũng đơn giản, không thực trau chuốt như "lá đề" thời Lý. Hoa cúc dây: đã có từ thời Lý dưới dạng uốn thành khung tròn, lòng khung chứa gọn các đồ án trang trí khác. Thời Trần kế thừa bố cục ô tròn đó. Đấu ba chạc (con sơn): một điểm đáng quan tâm là đấu này đã thấy xuất hiện từ thời Lý (Tháp Chương Sơn, Nam Định) chúng càng phổ biến hơn ở dưới thời Mạc (Đình Tây Đằng, Ba Vì, Hà Nội). Tháp Bình Sơn có nhiều nét độc đáo cả về kiến trúc nghệ thuật, mỹ thuật, kỹ thuật xây dựng. Tháp Bình Sơn không những có giá trị về kiến trúc nghệ thuật, mà còn có giá trị mỹ thuật cao được gọi là “Hòn ngọc báu của kho tàng dân tộc”, trên các hòn gạch có rất nhiều loại hoa văn trang trí, chỗ hình tròn, chỗ lượn vòng tròn, chỗ sâu, nông, chỗ đậm… chứng tỏ bàn tay người thợ vô cùng điêu luyện. Tháp Bình Sơn là một công trình có kiến trúc độc đáo, theo đánh giá của người Pháp đây là một cây tháp đẹp nhất xứ Bắc Kỳ. Hiện nay, Lễ hội tại Khu di tích Tháp Bình Sơn - Chùa Vĩnh Khánh được địa phương tổ chức vào ngày 15 tháng Giêng hàng năm, gọi là “Lễ hội chùa tháp”, bao gồm những nghi thức: rước kiệu, lễ cầu nguyện cho mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an và những chương trình văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao, trò chơi dân gian (cờ tướng, cờ người, chọi gà...) Tháp Bình Sơn (huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc) được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng là di tích quốc gia đặc biệt ngày 23/12/2015 . Nguồn: Cục di sản văn hoá
Phú Thọ 4056 lượt xem
Đền thờ Trần Nguyên Hãn, còn gọi là đền Tả Tướng hay đền Thượng là một công trình kiến trúc nghệ thuật được xây dựng vào thời Hậu Lê cách đây trên 200 năm. Di tích này gắn liền với thân thế và sự nghiệp của anh hùng dân tộc Trần Nguyên Hãn. Ông vốn xuất thân dòng dõi vương tộc nhà Trần và là một vị tướng tài đức song toàn, có công lớn giúp Lê Lợi đánh tan quân xâm lược nhà Minh, giành thắng lợi trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Đền ở thôn Đa Cai, xã Sơn Đông, Huyện Lập Thạch. Đền thờ Trần Nguyên Hãn Tả Tướng Quốc, phò Lê Lợi diệt giặc Minh giải phóng đất nước thế kỷ XV. Đền được xây dựng trên một thế đất bằng phẳng, rộng cao, tương truyền chính là nơi đặt Phủ đệ cũ của Trần Nguyên Hãn. Đền được cấu trúc theo kiểu chữ “Đinh”, xung quanh có tường bao bọc tạo thành khuôn viên chữ “điền” vuông vắn. Các công trình xây dựng gồm 3 phần: Cổng đền, nhà tiền tế, hậu cung. Từ khi xây dựng đến nay, đền đã được tu sửa nhiều lần và xây dựng thêm, chủ yếu vào đời Nguyễn. Nghệ thuật kiến trúc mang phong cách thời Nguyễn: Đục trơn bào nhẵn, trang trí đơn giản. Liên quan tới di tích tương truyền còn có 2 vật cổ: Thanh Gươm và phiến đá mài gươm. Chuyện kể rằng: Trong thời kỳ giặc Minh thống trị nước ta, Trần Nguyên Hãn mới bước vào tuổi thanh xuân. Vì cha mẹ lên khai hoang lập trại ở địa đầu trang Sơn Đông, nên ngày ngày Trần Nguyên Hãn vẫn đi cày, đi cuốc. Trong một lần đi cày ở nương Gò Rạch, Trần Nguyên Hãn cày lên một thanh sắt dài như gươm. Đêm đêm ông đem gươm ra mài ở một hòn đá lớn bên bờ ao Son, vì vậy hòn đá đó có tên là đá mài gươm, hòn đá có một vết lõm trông tựa như vết chém tương truyền đó là vết chém thử gươm của Trần Nguyên Hãn. Thanh gươm được Trần Nguyên Hãn mang bên người, tình cờ Trần Nguyên Hãn được một ông chủ bè ở cửa sông Phú Hậu tặng một thanh gỗ hình chuôi gươm vớt ở dưới lòng sông, khi cắm lưỡi gươm vào thì vừa khít, thanh gươm từ đó công hiệu. Thanh gươm huyền thoại ấy đã gắn liền với những chiến tích lẫy lừng của vị công thần khai quốc thứ nhất triều Lê. Tương truyền, về sau Tôn Thất Thuyết đã mượn thanh gươm ấy đem đi Cần Vương chống Pháp. Còn phiến đá, sau một thời gian dài bị phù sa sông Lô lấp, ngày 12/1/1998 nhân dân thôn Đa Cai tìm thấy ở độ sâu 2m nghiêng về phía ao sen, chiều dài khoảng 2,49m, chiều rộng khoảng 1,6m, bề dày khoảng 0,4m và nặng khoảng 2 tấn. Phiến đá cổ tích này được chính quyền và nhân dân xã Sơn Đông trục vớt lên, chuyển về đặt trong khuôn viên đền thờ Tả Tướng Quốc để mọi người cùng chiêm ngưỡng dấu tích còn lại của người anh hùng thủa trước. Năm 1984, Bộ Văn hóa xếp hạng di tích lịch sử đền thờ Tả Tướng quốc Trần Nguyên Hãn là Di tích quốc gia. Hằng năm, vào những dịp kỷ niệm ngày sinh và ngày mất của ông, nhất là vào dịp đầu Xuân, nhân dân trong vùng và khắp nơi trong cả nước thường về đây dâng hương tưởng nhớ công lao của người Anh hùng dân tộc. Nguồn: Báo điện tử Vĩnh Phúc
Phú Thọ 4004 lượt xem
Chùa Hoa Dương ở xã Tuân Lộ, tổng Tuân Lộ, huyện Bạch Hạc, phủ Tam Đới, trấn Sơn Tây. Nay là thôn Thượng, xã Tuân Chính, huyện Vĩnh Tường. Chùa được xây dựng vào năm Chính Hoà thứ nhất (Canh Thân 1680), đời vua Lê Hy Tông Duy Hiệp. Chùa Hoa Dương được xây dựng thời Hậu Lê, năm 1680, còn lại cho đến ngày nay là một di tích có kiến trúc khá đồ sộ, nguy nga, mặt bằng hình chữ “công” gồm 3 toà chính: Tiền đường (7 gian), thượng điện (4 gian) và nhà tổ (5 gian), tổng diện tích 262m2 cùng 2 nhà hành lang gồm 20 gian với diện tích 196m2, phía trước sân còn cây Bồ Đề cổ thụ trăm năm tuổi và các loài cây: Đại, Ngâu, Lan, Sấu tạo nên không khí thâm nghiêm, u tịch nơi cửa thiền. Về kiến trúc: Kết cấu bộ vì theo kiểu thức “chồng rường giá chiêng”, hệ thống cột chịu lực đều bằng gỗ lim to, chu vi cột 1,5m và đều được kê trên chân đá tảng vuông, to mỗi chiều 75cm để chống mối và chống ẩm. Về mỹ thuật: Giá trị nổi bật của chùa Hoa Dương là nghệ thuật điêu khắc, được biểu hiện ở hệ thống tượng tròn và các tác phẩm điêu khắc gỗ (y môn, tranh kệ, hoành phi, câu đối). Đó là các lớp tượng cơ bản, đại diện chung cho hệ thống tượng được bài trí trong một ngôi chùa thờ phật theo phái Đại thừa ở miền Bắc Việt Nam, gồm các lớp: Bộ tượng Tam thế phật, Di Đà tam tôn phật, Thích ca cửu long, tứ Bồ tát, tứ Thiên vương, tượng Đức ông, Thánh hiền, Hộ pháp phật và tượng phật Tổ. Tất cả các pho tượng phật đều được tạo từ gỗ mít già, nguyên lõi, kỹ thuật công phu, tỉ mỉ, nghệ thuật sáng tạo, điêu luyện, thể hiện khả năng tư duy thẩm mỹ nghệ thuật cao và hoà nhuyễn trong nhận thức giá trị tuyệt đối “không” của phật pháp. Giá trị chân, thiện, mỹ của đạo phật bắt nguồn từ những chân lý giản đơn của cuộc sống thường nhật qua hàng nghìn năm tu luyện, bồi dưỡng, lưu truyền đã trở thành một bộ phận cơ bản của tâm hồn Việt Nam, tâm hồn nghệ sỹ khi thổi hồn cho các pho tượng hoặc từ gỗ, đá, hay đất mà trở nên lung linh, huyền ảo nhưng rất thực trước mỗi người khi bước chân vào chùa chiêm bái phật. Các tác phẩm điêu khắc gỗ có: 8 bức y môn (biển hoành) đều chung kích thước (dài 3,0m rộng 0,6m) được chạm nổi, sơn son thếp vàng các đề tài thiên nhiên: Hoa lá, vân mây, cổ thụ, chim muông vô cùng gần gũi, tự nhiên và sống động, chính giữa đục các “đại tự” mang ý nghĩa tụng ca, răn dạy, đan xen giữa phật pháp và triết lý Nho học. 8 bức “tranh Kệ” khắc các bài kệ bằng chữ Hán với nội dung về phong cảnh thiên nhiên và những đề tài liên quan đến việc hoằng dương phật pháp, là những thi ca tuyệt hảo lồng trong tác phẩm điêu khắc tài ba, trên nền của kỹ thuật chạm khắc, trang trí phóng khoáng, bố cục hài hoà, sơn thếp đẹp, xứng đáng là di sản cho muôn đời hậu thế chiêm ngưỡng và ngẫm suy. 8 bộ hoành phi, câu đối sơn son thếp vàng, câu chữ chuẩn chỉnh, ngay ngắn, ý tứ sâu xa, ngữ nghĩa bao trùm, chân tâm, chân thiện. Cùng với các di vật cổ: Chuông đồng, cây hương, bia đá,.đồng thời là những tư liệu văn tự cổ trên đá lưu mãi để muôn đời hậu thế, thập phương du khách, tăng ni phật tử tìm cơ hội đến chiêm bái nơi cảnh thiền ẩn lặng dấu quê. Chùa Hoa Dương có lịch sử trên 300 năm tuổi. Chùa được xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 12/12/1994. Nguồn: Cổng thông tin giao tiếp điện tử Vĩnh Phúc
Phú Thọ 3949 lượt xem
Hương Canh vốn là tên một xã của huyện An Lãng, trấn Sơn Tây đời Hậu Lê, rồi được lấy làm tên tổng thời Nguyễn và tên của thị trấn ngày nay - thị trấn Hương Canh (thuộc huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc). Theo dân gian, Hương Canh còn được gọi là Tam Canh bởi đây là tên chung của ba làng Canh gồm: Hương Canh, Ngọc Canh, Tiên Canh. Địa danh Hương Canh còn có tên nôm cổ là Kẻ Cánh. Tên gọi này bắt nguồn từ giống lúa của địa phương, thứ lúa có hai tia nhọn ở hai bên hạt thóc. Người ta gọi hai tia nhọn ấy là CÁNH và hạt thóc có tên là GIÉ CÁNH được lấy chữ CÁNH làm danh xưng của làng. Ban đầu ở đây mới có một làng Hương Canh, dần dần dân số phát triển mới tách thêm làng lấy tên là Ngọc Canh - nơi có thứ lúa Gié Cánh, hạt gạo đẹp như ngọc. Sau cùng, khi cả hai làng Hương Canh (lúa Cánh thơm), Ngọc Canh (lúa Cánh đẹp) cư dân đông đúc, mới mở rộng sang phía Tây và Tây Bắc thêm một làng nữa và lấy tên là Tiên Canh với nghĩa “lúa Cánh sớm”. Ba ngôi đình của ba làng Hương Canh, Ngọc Canh và Tiên Canh đều được xếp hạng di tích lịch sử văn hóa quốc gia và hiện đang trong quá trình lập hồ sơ đề nghị xếp hạng cấp quốc gia đặc biệt. Các đình tọa lạc tại vị trí cách nhau từ 50m đến 100m, tạo thành quần thể di tích hoành tráng, kề sát quốc lộ 2A, thuận lợi cho tham quan, du lịch và hành hương. Về các nhân thần được thờ, theo truyền tụng của nhân dân địa phương, sau khi đánh bại quân Nam Hán xâm lược, Ngô Quyền lên làm vua, đóng đô ở Cổ Loa (nay thuộc Hà Nội). Đất nước đã độc lập, hòa bình nhưng Ngô Quyền vẫn không quên đề cao cảnh giác, luyện tập binh mã để phòng giặc. Bấy giờ săn bắn cũng là một hình thức tập trận, nên có lần Ngô Quyền đã cử hai con là Ngô Xương Ngập và Ngô Xương Văn cùng vị tướng thân cận Đỗ Cảnh Thạc mang quân đi tập trận dưới hình thức đi săn. Họ đã hành quân qua Hương Canh, đóng doanh trại tại một gò đất giữa đồng, nhân dân gọi là Gò Ngự. Để ghi lại dấu thiêng và tri ân các vị anh hùng nhà Ngô, nhân dân Hương Canh đã lập ở Gò Ngự một ngôi miếu để thờ các vị, theo quan niệm “sinh vi tướng, tử vi thần” (sống là tướng giỏi - chết là thần thiêng). Đến thời Hậu Lê, nhân dân ba làng Hương Canh, Ngọc Canh và Tiên Canh lại xây dựng mỗi làng một ngôi đình, rước thần hiệu về thờ ở đình và hàng năm đều mở hội, tế lễ như hiện nay. 1.Đình Hương Canh Được hình thành sớm nhất nên làng Hương Canh xây dựng đình trước hai làng còn lại. Tuy không to hơn đình Ngọc Canh và đình Tiên Canh, nhưng đình Hương Canh được gia công, thể hiện nhiều hơn về trang trí, chạm trổ. Đình tọa lạc ở phía Nam thị trấn Hương Canh, mặt tiền hướng Tây Nam, nhìn ra hồ Điếm Lang, đấu trường kéo song và sông Cầu Treo. Trải qua thời gian và những biến cố thăng trầm của lịch sử, gần 300 năm nay đình Hương Canh vẫn đứng đó như thách thức với nắng mưa, chống chọi với thiên nhiên về bộ mái đồ sộ, duyên dáng của mình. Mái đình lợp bằng ngói mũi hài, được xếp đặt một cách thứ tự theo kiểu đóng ốc vảy rồng, rất chặt chẽ, phẳng đẹp. Bờ nóc đình được đắp thẳng ke, các đầu đao cong vút. Toàn bộ mái đình trông như một cánh diều khổng lồ đang động đậy, sắp sửa bay lên không trung. 2.Đình Ngọc Canh được kiến tạo vào thời Hậu Lê, trùng tu vào đầu triều Nguyễn. Trên câu đầu thứ nhất ở đình Ngọc Canh có 2 vế chữ chạm nổi: “Gia Long thập nhị niên, tuế tại Quý Dậu, thập nguyệt, nhị thập lục nhật y cựu thượng lương, trùng tu thổ mộc Giáp Tuất niên, ngũ nguyệt, thập ngũ nhật hoàn thành, hòa ninh đại cát”. (Nghĩa là: Năm Gia Long thứ 12 là năm Quý Dậu, ngày 26 tháng 10, dựng cây nóc như cũ. Chữa lại mộc, ngõa năm Giáp Tuất. Ngày 15 tháng 5 hoàn thành, mong hòa thuận tốt lành). Tính theo dương lịch, Quý Dậu là năm 1813 và Giáp Tuất là năm 1814, việc trùng tu kéo dài 7 tháng. Câu đầu thứ hai khắc là: “Minh mệnh nguyên niên, tuế tại Canh Thìn, lục nguyệt, thập nhất nhật, khởi công trang sức kim chu, chí thập nguyệt, thập nhật, hoàn thành đại cát đại vượng” (Nghĩa là: Năm Minh Mệnh thứ nhất là năm Canh Thìn, ngày 11 tháng 6 khởi công, sơn vẽ vàng son, đến ngày 10 tháng 10 hoàn thành, mong tốt lành lợi vượng). Tính theo dương lịch, Canh Thìn là năm 1820, niên hiệu Minh Mệnh thứ nhất. Việc trang trí kéo dài 4 tháng. 3.Đình Tiên Canh được xây dựng sau cùng, song đình Tiên Canh có quy mô lớn hơn hai đình Ngọc Canh và Hương Canh. Về niên đại xây dựng, khi dỡ thượng lương nhà hậu xuống để phục chế, nét chữ khắc còn rõ rành rành “Cảnh Hưng tam thập thất niên, tuế thứ Bính Thân, thập nhị nguyệt, nhị thập nhị nhật, hoàng đạo thời, thụ trụ thượng lương đại cát lợi vượng thịnh” (Nghĩa là: Niên hiệu Cảnh Hưng thứ 37, năm Bính Thân, tháng 12, ngày 22, giờ hoàng đạo, dựng cây nóc rất tốt lành, lợi vượng nhiều). Chiếu theo dương lịch, Bính Thân là năm 1776. Như vậy nhà hậu của đình được kiến tạo cách ngày nay (2022) đã 300 năm. Câu đầu hữu biên cũ của đại bái khắc “Kỷ Mùi niên, thập nguyệt Ất Hợi, nhị thập nhật Đinh Mùi, Ất Tỵ thời, thụ trụ thượng lượng đại bái” (Nghĩa là: Năm Kỷ Mùi, tháng 10 Ất Hợi, ngày 20 Đinh Mùi, 10 giờ sáng Ất Tỵ, dựng cây nóc nhà đại bái). Như vậy, tòa đại bái đình Tiên Canh được xây cất vào niên hiệu Cảnh Thịnh thứ 8, triều Tây Sơn Nguyễn Quang Toản - 1799, cách ngày nay (2022) đã 223 năm, làm sau nhà hậu 23 năm. Đây là 3 ngôi đình cổ tiêu biểu của nghệ thuật kiến trúc đình làng Bắc Bộ được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ 17, đầu thế kỷ 18. Di tích kiến trúc nghệ thuật cụm đình Hương Canh được công nhận là di tích quốc gia đặc biệt ngày 29/12/2022 của Thủ tướng Chính phủ. Nguồn: Báo Vĩnh Phúc tổng hợp
Phú Thọ 3934 lượt xem