Khám phá lịch sử, văn hóa, con người và cảnh đẹp Việt Nam trên ứng dụng du lịch Travelviet
Tải ứng dụng Travelviet
Lầu bà Cố Hỷ Ba Động, còn được gọi với các tên ngắn gọn hơn là Lầu bà Ba Động và tên chính thức là Lầu bà Cố Hỷ Thượng động nương nương, tọa lạc tại ấp Ba Động, xã Trường Long Hòa, thị xã Duyên Hải, cách thành phố Trà Vinh 51 km về hướng đông nam và cách thị xã Duyên Hải 12 km về hướng đông bắc.
Thờ bà Cố Hỷ là một tín ngưỡng dân gian truyền thống của ngư dân người Việt. Tín ngưỡng này phát triển mạnh tại vùng Bình Thuận, Nam Trung bộ, được ngư dân mang theo như một hành trang văn hóa tâm linh trên đường di cư vào Nam nhiều thế kỷ trước. Do vậy, tục thờ bà Cố Hỷ được xem như một “chứng nhận” về nguồn gốc của cư dân địa phương trên bước đường Nam tiến. Mặt khác, trong giai đoạn tiền khởi nghĩa cho đến hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, Lầu bà Cố Hỷ Ba Động và cộng đồng cư dân theo tín ngưỡng này có những đóng góp quan trọng cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc.
Trên cơ sở đó, Lầu bà Cố Hỷ Ba Động được Ủy ban nhân dân tỉnh Trà Vinh xếp hạng di tích lịch sử – văn hóa cấp tỉnh năm 2015.
Trong tín ngưỡng thờ Mẫu của cư dân người Việt Trung bộ và Nam bộ, bà Cố Hỷ là một dạng nữ thần đặc biệt, vừa là phúc thần lại vừa là ác thần. Tương truyền, khi xưa ở một làng ven biển Quảng Nam có cô gái mồ côi xinh đẹp sống với người cha nuôi hiền lành. Miệng đời độc ác đồn đại cô gái ấy gian dâm với chính cha mình nên bị làng bắt bỏ vào rọ dìm xuống biển. Xác cô gái trôi giạt vào vùng Cà Ná, được người dân địa phương đưa vào mai táng và lập miếu thờ trên một ngọn đồi. Mang nỗi oan ức khôn tan, hồn cô gái linh thiêng hóa rồng bay khắp biển cả, sông hồ cứu giúp người hiền lành không may lâm vào cảnh gió to sóng dữ nhưng cũng sẵn sàng ra tay tàn độc trừng trị những kẻ gian xảo hại người. Người đi biển Bình Thuận nhiều lần được bà linh ứng nên lập nhiều miếu thờ trên những động cát cao ven biển với tôn danh Bà Cố Hỷ. Những câu thề, câu rũa “Bà Cố Hỷ móc mắt”, “Bà Cố Hỷ vặn họng”… đã in sâu vào tâm thức và điều chỉnh hành vi nhiều thế hệ ngư dân làm lành lánh dữ, cư xử thuận hòa với thiên nhiên, với cộng đồng thôn xóm.
Trong thời gian phò chúa Nguyễn Ánh, tướng Lê Văn Duyệt từng dừng chân trước ngôi miếu hoang Cà Ná, khấn nguyện bà phò trợ cho đoàn quân. Sau ngày chiến thắng, vua Gia Long ban sắc phong với mỹ tự “Thượng động Cố Hỷ tiên phi” hay “Thượng động Cố Hỷ nương nương”. Từ đó, tục thờ bà Cố Hỷ trở thành tín ngưỡng dân gian phổ biến của giới ngư dân Nam Trung bộ, nhất là vùng biển có ba động cát lớn thuộc tỉnh Bình Thuận.
Trên đường di dân vào Nam, giai đoạn thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX, một bộ phận ngư dân Bình Thuận đã dừng chân lập thành xóm ấp tại vùng ven biển Trà Vinh đã mang theo tín ngưỡng thờ bà Cố Hỷ, với nét đặc thù là chọn nơi động cát cao hoặc xây lầu cao để tôn thờ. Vùng ven biển Trà Vinh từng có nhiều cơ sở tín ngưỡng thờ bà Cố Hỷ mà tiêu biểu nhất là Lầu bà Bến Cát (nay còn địa danh Vàm Lầu, thuộc xã Mỹ Long Bắc, huyện Cầu Ngang), Động bà (nay chuyển hóa thành chùa Giác Linh tự thờ Phật, cũng thuộc xã Mỹ Long Bắc, Cầu Ngang) và Lầu bà Ba Động. Đến cuối thế kỷ XX, trên địa bàn tỉnh Trà Vinh chỉ còn tồn tại duy nhất Lầu bà Ba Động là cơ sở tín ngưỡng thờ Bà Cố Hỷ được xây dựng khang trang có ban quản trị kèm theo lễ hội truyền thống được tổ chức khá quy củ hàng năm.
Lầu bà Cố Hỷ Ba Động được hình thành gắn với quá trình khai hoang lập làng của người dân Trường Long Hòa. Ban đầu cơ sở tín ngưỡng này chỉ đơn sơ với bộ khung gỗ tạp, lợp lá dừa nước. Đến đầu thế kỷ XX dân làng chung tay xây dựng lại bằng gỗ căm xe, mái ngói. Trong kháng chiến chống Mỹ, Lầu bà bị máy bay ném bom là hư hại và đến năm 2008 được xây dựng lại khang trang như hiện nay.
Lầu bà Cố Hỷ Ba Động được xây dựng trên khuôn viên rộng 3.000 m2. Kiến trúc chính là ngôi lầu thờ Bà nối liền với vỏ ca dùng để thực hiện nghi thức múa bóng rỗi cũng như chuẩn bị lễ vật dâng cúng. Phía trước sân là một ngôi miếu nhỏ thờ Đại càn nguyên soái hay Nam Hải Đại càn tướng quân tức linh vị cá voi. Phía sau là nhà trù, tức nhà bếp và phía trái là dãy nhà dùng để đãi đằng khách thập phương về dự lễ Vía bà.
Lầu bà là kiến trúc một trệt, một lầu. Tầng trệt thờ bà Chúa Xứ, là một dạng thức thờ mẫu phổ biến ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, được xem là nữ thần cai quản xứ sở cả trên đất liền lẫn ngoài biển khơi. Án thờ bà Chúa Xứ đặt ở chính giữa. Bên trái là áng thờ hai cậu “Tài” và “Quí” theo cách phát âm của người Phúc Kiến, mà thực chất là hai cậu “Đại” và “Tiểu”, tương truyền là hai con và cũng là hai người theo hầu bà Chúa Xứ. Bên phải là án thờ Nam Hải Quốc gia tức linh vị cá voi, sinh vật linh thiêng mà tương truyền là được Phật bà Quán Thế âm giao nhiệm vụ tuần tra trên biển, cứu người gặp nạn.
Tầng lầu là một gian thờ được xây khá kín có hành lang bao bọc bên ngoài. Giữa gian thờ là án thờ cốt tượng bà Cố Hỷ cùng cốt tượng bà Thủy, bà Hỏa hai bên. Điều đặc biệt ở Lầu bà Ba Động là tuy bà Cố Hỷ là dạng thức tín ngưỡng thờ mẫu có thần phả rõ ràng, một thời phổ biến từ Nam Trung bộ tới Đồng bằng sông Cửu Long nhưng các thế hệ cư dân Trường Long Hòa lại đồng nhất hình tượng vị nữ thần này với nhân vật lịch sử Triệu Thị Trinh (tức Bà Triệu), một nữ tướng lừng danh đầu Công nguyên có công đánh giặc cứu nước. Tương truyền, khi các bậc bô lão gieo quẽ xin phép lập Lầu bà, bỗng có một hộp gỗ sơn đỏ từ đâu bị gió bão trôi giạt vào. Người dân dùng thuyền đưa ra khơi nhưng không lâu, chiếc hộp vẫn giạt trở vào. Các bậc bô lão cung kính đón lên, mở ra mới biết đó là hai sắc phong Thần cho hai anh em Triệu Minh Công (tức Triệu Quốc Đạt) và Triệu Thị Trinh. Các vị bô lão hiểu rằng làng mình đã vinh dự được Thần chọn ngự nên lập đình thờ sắc Ông và đưa sắc Bà vào Lầu cùng phối tự với bà Cố Hỷ.
Hiện tượng đồng nhất thánh mẫu với nhân vật lịch sử đã thể hiện tinh thần yêu nước, cội nguồn dân tộc của người dân Trường Long Hòa qua nhiều thăng trầm lịch sử.
Trường Long Hòa là vùng đất giàu truyền thống yêu nước, đấu tranh cách mạng và là căn cứ vững chắc của Tỉnh ủy cũng như các cơ quan, đơn vị vũ trang cách mạng tỉnh Trà Vinh trong suốt hai cuộc kháng chiến. Trong thành tích chung ấy, có phần đóng góp quan trọng của cơ sở tín ngưỡng Lầu bà, ban quản trị và cộng đồng cư dân theo tín ngưỡng này.
Trong giai đoạn tiền khởi nghĩa, Lầu bà là nơi hội họp của Chi bộ Đảng và của tổ chức Thanh niên Tiền phong Trường Long Hòa, chuẩn bị các mặt tiến hành khởi nghĩa giành chính quyền tại địa phương vào tháng 8/1945. Không lâu sau đó, thực dân Pháp lăm le xâm chiến Trà Vinh bằng đường biển thì ngôi Lầu bà là nơi trú quân của lực lượng Cộng hòa vệ binh tỉnh cùng quần chúng nhân dân lập phòng tuyến ven biển cản bước quân thù.
Sau khi xâm chiếm Trà Vinh, thực dân Pháp lập quận Ba Động, lấy khu vực Ba Động làm quận lỵ. Quân dân Duyên Hải đã lấy Lầu bà làm điểm tựa tiến công, đuổi chạy dinh quận vào tháng 02/1947. Đến năm 1951, Lầu bà cũng là điểm xuất quân để quân dân ta đánh chìm đoàn tàu thập ác, tiêu diệt hơn 200 tên địch.
Sau ngày Đồng khởi tháng 9/1960, cuộc kháng chiến chống Mỹ của quân dân Trà Vinh ngày càng phát triển. Lầu bà trở thành cơ sở quan trọng trong hệ thống căn cứ Tỉnh ủy Trà Vinh tại Trường Long Hòa. Chính nơi đây được Tỉnh đội chọn mở nhiều lớp đào tạo cán bộ quân sự cho các đơn vị vũ trang tỉnh, huyện đến cấp xã. Tiêu biểu là lớp cán bộ quân chính, lớp đào tạo chiến sĩ đặc công… Nhiều học viên trưởng thành từ đây trở thành cán bộ lãnh đạo, chỉ huy tài năng hoặc Anh hùng lực lượng vũ trang. Sau khi bị máy bay Mỹ ném bom làm hư hỏng, ban quản trị Lầu bà đã hiến số cột bằng gỗ căm xe để ngành Quân giới tỉnh chế tạo báng súng, góp phần trang bị cho lực lượng vũ trang.
Trong giai đoạn 1963 – 1966, Trường Long Hòa là một trong hai bến tiếp nhận vũ khí quan trọng của tỉnh Trà Vinh từ đoàn tàu không số của đường Hồ Chí Minh trên biển. Lầu bà trở thành nơi trung chuyển, tạm thời cất giấu số vũ khí, trang thiết bị quân sự trước khi vận chuyển đến các đơn vị chủ lực quân khu và Hậu cần Tỉnh đội các tỉnh khu vực Đồng bằng sông Cửu Long.
Dưới sự vận động của Chi bộ địa phương, nhiều thanh niên nam nữ trong cộng đồng cư dân theo tín ngưỡng thờ bà Cố Hỷ Ba Động đã thoát ly gia đình, tham gia kháng chiến, giải phóng quê hương, góp phần vào sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Tín ngưỡng thờ Mẫu luôn gắn liền với lễ hội Vía bà. Vía bà Cố Hỷ tại Lầu bà Ba Động mỗi năm có hai lệ xuân thu nhị kỳ, 15 – 16 tháng Giêng và 15 – 16 tháng Bảy âm lịch, trong đó ngày Vía chính là 15 và 16 tháng Giêng. Do Lầu ba Ba Động là cơ sở thờ bà Cố Hỷ hiếm hoi còn tồn tại khang trang, ban quản trị duy trì chặt chẽ nên ngày Vía bà không chỉ là ngày hội của người dân địa phương mà thu hút hàng ngàn người dân ven biển thuộc các tỉnh từ Tiền Giang, Bến Tre tới Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau về dự. Các nghi thức chính của ngày hội Vía bà Ba Động như sau:
– Ngày Rằm tháng Giêng: Lễ Túc yết (lúc 6 giờ sáng, những người có trách nhiệm tề tựu để rà soát các bước chuẩn bị); Mộc dục (lúc 7 giờ sáng, lau rửa và thay áo mão cốt tượng Thánh Mẫu); Nghinh ông (lúc 9 giờ, đoàn người gồm các bậc bô lão trong làng mang lư hương, trống, lộng, kiệu thỉnh ông về. Ông ở đây được hiểu là nhân vật Triệu Minh Công, tức Triệu Quốc Đạt, anh ruột của nữ tướng Triệu Thị Trinh. Ông còn được hiểu là Đức ông Nam Hải, tức linh vị cá voi); Khai lễ – Chầu mời (lúc 12 giờ trưa, tiếng trồng chiên vang dậy báo hiệu Thánh Mẫu về ngự tại lầu, chứng giám cho mọi hoạt động tế lễ của dân làng); Tế Tiền vãng (lúc 16 giờ, nghi lễ dâng cúng các bậc tiên hiền, hậu hiền có công khai đất lập làng); Múa bóng rỗi – địa nàng (lúc 19 giờ kéo dài đến tận khuya, các bóng cô, bóng cậu múa hát dâng các phẩm vật dâng cúng Thánh Mẫu và cũng là nghệ thuật diễn xướng dân gian phục vụ nhu cầu thưởng lãm của dân làng); Chánh tế (lúc 23 – 24 giờ, là lễ tế chính với đầy đủ thức ăn, phẩm vật dâng cúng và bài Chúc văn ca ngợi công đức Thánh Mẫu, cầu mong Thánh Mẫu gia ân độ trì dân chúng, nhất là những người lênh đên trên biển).
– Ngày Mười sáu tháng Giêng: Lễ Tống ôn (lúc 10 giờ, pháp sư bắt ấn xua đuổi ám khí, tà ma, dịch bệnh); Tiễn ông (lúc 12 giờ, đoàn người khăn áo chỉnh tề đưa linh vị ông trở về chỗ cũ).
Trong suốt hai ngày, song song với việc thực hiện các lễ thức, ban quản trị Lầu bà tiến hành đãi khách thập phương, tạo không khí vui vẻ, đoàn kết.
Vĩnh Long 2871 lượt xem
Ngày cập nhật : 30/10/2023
Khu du lịch Lan Vương là một địa điểm tham quan và vui chơi giải trí vô cùng thú vị tại Bến Tre. Khu du lịch Lan Vương nằm tại tỉnh lộ 887, thuộc địa phận ấp 2, xã Phú Nhuận, cách thành phố Bến Tre khoảng 5km. Từ những mảnh ruộng hoang sơ đã được thiết kế tạo thành Khu Văn Hóa – Thể Thao – Du Lịch sông nước miệt vườn thu hút đông đảo du khách gần xa. Du lịch Bến Tre, đến với Lan Vương bạn không chỉ được thưởng thức những đặc sản của Bến Tre mà còn được tận hưởng không khí trong lành không ồn áo khói bụi, hòa mình vào thiên nhiên xanh mát với vườn cây, trái ngọt, hoa kiểng, xuồng chèo rất quyến rũ, nên thơ. Các trò chơi giải trí tại khu du lịch Lan Vương đều mang đậm chất dân dã đặc trưng của vùng miền Tây sông nước: Câu cá và giăng lưới bắt cá, bơi thuyền, tát mương bắt cá, lội ruộng bắt cua, bắt ốc. Không gian rộng lớn thoáng đãng của một vùng quê xứ dừa chắc chắn sẽ làm du khách xao xuyến. Ngoài ra bạn còn được tham quan vườn bưởi da xanh trỉu quả, trại nuôi heo rừng lai, trang trại nuôi dê… Đến với Lan Vương bạn tha hồ thưởng thức các loại trái cây như: mận An Phước, xoài Đài Loan, mít tứ quý, chùm ruột, khế… Ngoài ra, du khách có thể mua sắm các đồ thủ công mỹ nghệ hay thưởng thức các món ăn đặc trưng của vùng Nam Bộ tại nhà hàng trong khu du lịch. Không chỉ là một điểm vui chơi giải trí mà khu du lịch Lan Vương còn là địa điểm dã ngoại, cắm trại của rất nhiều hộ gia đình cũng như các nhóm. Ẩm thực tại Khu du lịch Lan Vương cũng khá là đặc biệt, không phải là những món cao lương mỹ vị mà chỉ là những món ăn vùng quê giản dị, mộc mạc. Những món ăn này đều được làm từ nguyên liệu do chính du khách tham gia vào hoạt động câu cá hay bắt cá mà tìm được và nhiều món ăn đặc trưng Nam bộ như: Cá lóc nướng trui, tôm luộc nước dừa, gà thả vườn…tại các chòi lá và nhà dài được lợp bằng lá dừa nước gần gủi với thiên nhiên lại không kém phần sang trọng.
Vĩnh Long 3144 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Khu du lịch Làng Bè Bến Tre nằm cách Thành phố Hồ Chí Minh không xa lắm, chỉ khoảng 75km nên rất phù hợp cho những chuyến đi ngắn ngày. Tọa lạc ở số 81B/6B ấp An Thới, xã An Khánh, huyện Châu Thành, khu du lịch Làng Bè được xem là một trong những địa điểm vui chơi, nghỉ dưỡng vô cùng hút khách, đặc biệt là vào dịp hè hay cuối tuần. Sở dĩ có tên gọi là Làng Bè vì khu du lịch sinh thái nức tiếng này gắn bó mật thiết với nghề nuôi cá bè của người dân bản địa. Nơi đây chắc chắn sẽ là điểm dừng chân lý tưởng với khung cảnh miệt vườn, sông nước hữu tình đặc trưng miền Tây, nhiều hoạt động giải trí thú vị cùng vô vàn món ăn ngon đang chờ đợi bạn thưởng thức. Khu du lịch Làng Bè có khí hậu mát mẻ, dễ chịu quanh năm nên bạn có thể đến đây vào bất kỳ thời điểm nào. Tuy vậy, theo kinh nghiệm khám phá xứ dừa của nhiều bạn trẻ thì khoảng thời gian thích hợp nhất vẫn là mùa hè (từ tháng 6 đến tháng 8). Bởi vì đây là lúc thời tiết khô thoáng, nắng đẹp, hầu như không mưa, cực kỳ thuận lợi để bạn di chuyển, thăm thú sông nước cũng như trải nghiệm nhiều hoạt động ngoài trời khác. Hơn thế nữa, thời điểm này là mùa thu hoạch trái cây ở miền Tây nên bạn còn có thể thưởng thức vô vàn loại hoa quả nổi tiếng như măng cụt, sầu riêng, mít, bưởi, chôm chôm… trong các miệt vườn tại khu du lịch Làng Bè. Vì khu du lịch Làng Bè nằm khá gần Thành phố Hồ Chí Minh nên bạn có thể di chuyển đến đây bằng xe khách hoặc xe máy đều được. Nếu đi xe khách thì bạn nên lựa chọn các nhà xe chạy tuyến bến xe Miền Tây đi Bến Tre có chất lượng và độ uy tín cao như Thành Bưởi, Phương Trang, Minh Tâm… Tuy nhiên, vì đường đến khu du lịch cũng khá đơn giản nên bạn có thể đi bằng xe máy để tiện lợi và chủ động hơn. Khởi hành từ trung tâm Thành phố Hồ Chí Minh, bạn di chuyển về miền Tây theo đường Quốc lộ 1A - Tỉnh Long An -Tỉnh Tiền Giang - Cầu Rạch Miễu - Địa phận tỉnh Bến Tre - Cầu Cá Chuối - Khu du lịch Làng Bè . Còn nếu bạn đi theo lộ trình xuất phát từ dưới chân cầu Rạch Miễu thì sẽ rẽ vào cung đường hướng về khu du lịch Cồn Phụng, tiếp tục di chuyển đến khi gặp tấm biển chỉ dẫn thì rẽ phải qua cầu Cá Chuối. Từ đây bạn chỉ cần chạy thẳng thêm một đoạn ngắn là sẽ đến được khu du lịch Làng Bè. Vừa đặt chân đến khu du lịch Làng Bè, bạn sẽ ngay lập tức sẽ ngỡ ngàng trước khung cảnh thiên nhiên quá đỗi nên thơ, hữu tình nhưng lại mang một nét gần gũi, thân quen đến lạ. Khu du lịch sinh thái này tọa lạc ngay bên cạnh bờ sông và được đầu tư thiết kế trông như một làng quê miền Nam Bộ thu nhỏ với phong cảnh thiên nhiên hết sức bình dị, mộc mạc đậm chất xứ dừa Bến Tre. Dạo quanh khu du lịch, bạn chắc chắn sẽ phải lòng những con đường làng dung dị, căn nhà tranh mái lá bên mép nước, những trảng cỏ xanh rì cùng hàng dừa nước vi vu trong gió mang lại cảm giác thư thái, dễ chịu. Hơn thế nữa, khu du lịch Làng Bè còn sở hữu bầu không khí trong lành, thoáng đãng, tách biệt hẳn với khói bụi, ồn ào chốn đô thị nên rất phù hợp để bạn tận hưởng một kỳ nghỉ tuyệt vời giữa chốn làng quê yên bình hiếm có. Vì nơi đây nằm gần quần thể cù lao tứ linh Long, Lân, Quy, Phụng trứ danh nên trên đường vãn cảnh, bạn cũng thể kết hợp thăm thú các điểm đến này. Một trong những hoạt động sôi nổi và được ưa chuộng nhất ở khu du lịch Làng Bè chính là tham gia các trò chơi dân gian. Tại đây có cả một danh sách trò chơi đa dạng cho bạn thỏa sức khám phá như đi cầu lắc, đu dây đơn, đu dây nhóm, chạy xe qua cầu khỉ, tát mương bắt cá, làm trái nổ bằng đất sét, chèo xuồng, quấn kèn lá dừa… Những trò chơi này đảm bảo sẽ mang đến cho bạn cảm giác như được sống lại một thời tuổi thơ tinh nghịch, đáng yêu và khó quên của mình. Tuy không rộng lớn và trù phú như vườn trái cây Cái Mơn hay Vĩnh Kim nhưng trong khu du lịch Làng Bè cũng có một khu vườn hoa quả khá sum suê, tươi tốt. Nếu đến đây du lịch vào đúng mùa trái chín (khoảng tháng 6 đến tháng 8 hằng năm) thì bạn không chỉ có thể tham quan, ngắm cảnh vườn mà còn được hái ăn đủ loại trái cây ngon ngọt, thơm phức. Còn nếu muốn mua về thì bạn hãy liên hệ với nhân viên của khu du lịch để cân ký và tính tiền. Là xứ sở của cây dừa và nhiều sản vật miền sông nước trứ danh, khu du lịch Làng Bè chắc chắn sẽ mang đến cho bạn những món ngon ấn tượng. Thật vậy, tại đây phục vụ đủ các món đặc sản nức tiếng của ẩm thực Bến Tre như gỏi củ hủ dừa, gà nướng muối ớt, cá tai tượng chiên xù, lẩu tôm càng, đuông dừa, cơm dừa… Một lưu ý nho nhỏ là nếu đi theo nhóm đông người thì bạn hãy nhớ đặt bàn và gọi món trước nhé. Bởi vì như vậy sẽ giúp các nhân viên chuẩn bị món ăn một cách chu đáo nhất và ngay khi nhóm bạn vui chơi, tham quan xong là sẽ được dùng bữa ngay chứ không cần chờ lâu.
Vĩnh Long 2947 lượt xem
Từ tháng 6 đến tháng 8
Những con sông trĩu nặng phù sa với những vườn cây xanh trĩu quả đã là thương hiệu của các tỉnh miền Tây. Một trong những tỉnh ở miền Tây Nam Bộ phát triển loại hình du lịch sinh thái hái trái cây tại vườn đó chính là Bến Tre. Ghé thăm vườn trái cây Cái Mơn, huyện Chợ Lách bạn sẽ thực sự ngỡ ngàng về sự xanh tươi và trù phú mà thiên nhiên đã ưu ái ban tặng riêng cho vùng đất này. Miệt vườn trái cây Cái Mơn – Chợ Lách được mệnh danh là “vương quốc trái cây, cây giống và hoa kiểng” của tỉnh Bến Tre. Vùng đất này hấp dẫn khách du lịch bởi vẻ đẹp của một vùng quê thuần chất Nam Bộ và những con đường làng thơ mộng uốn quanh những thảm vườn xanh mát, bạt ngàn hoa trái… Muốn tìm đến vườn cây ăn trái Cái Mơn, hãy hỏi đường đến xã Vĩnh Thành, huyện Chợ Lách, Bến Tre. Từ trung tâm thành phố Bến Tre, qua cầu Hàm Luông, hướng theo quốc lộ 60, đi khoảng 4 cây số đến ngã tư Tân Thành Bình – Mỏ Cày Bắc. Sau đó tiếp tục rẽ phải, đi theo đường tỉnh 882 nối với quốc lộ 57 khoảng 10 km nữa là tới. Theo những người lớn tuổi trong làng trái cây Cái Mơn kể lại, tên gọi này đã có từ rất lâu đời, trước tên xã Vĩnh Thành. Từ “Cái” trong Cái Mơn có nghĩa là con rạch lớn. Cái có nghĩa là “sông con” (đây là tiếng cổ của dân tộc Phù Nam). Người miền Nam hễ những gì to, lớn cũng được xem là Cái ví dụ như đường cái, nhà cái…“Mơn” là từ đọc chệch của từ “Mun” (tiếng Khmer có nghĩa là mật ong). Nhà văn Sơn Nam, một người chuyên viết về văn hóa Nam Bộ cho rằng, ngày xưa, hai bên bờ con rạch ở vùng đất Cái Mơn này có rất nhiều mật ong vì đây là xứ trồng cây trái xum xuê, quanh năm hoa trái đầy cành nên thu hút ong về làm tổ, hút mật. Vì thế tên Cái Mơn bắt nguồn từ ý nghĩa như vậy. Các vườn cây trái Cái Mơn được bao bọc giữa bốn bề sông nước của dòng Cổ Chiên và Hàm Luông nên quanh năm khí hậu ôn hòa, cây lá xum xuê, tươi tốt. Nơi đây trở thành miệt vườn trù phú với các loại trái cây ngon nổi tiếng khắp vùng đồng bằng sông Cửu Long như chôm chôm, bưởi, xoài, nhãn, mận…và đặc sản sầu riêng Cái Mơn cơm vàng hạt lép. Du khách có thể ghé miệt vườn Cái Mơn bất cứ dịp nào trong năm mùa nào quả nấy. Hằng năm, tỉnh Bến Tre tổ chức lễ hội trái cây ngon – an toàn Chợ Lách vào mùa hè, thường vào dịp tết Đoan Ngọ (5/5 âm lịch), đây cũng là thời điểm lý tưởng để khách du lịch yêu thích trái cây tìm về tham quan, thưởng thức. Đến miệt vườn Cái Mơn – Chợ Lách, bạn sẽ bị hấp dẫn và lôi cuốn ánh nhìn ngay từ lúc bước chân vào vườn. Những chùm trái xum xuê, oằn cành dường như muốn “lấn chiếm” cả không gian của những chiếc lá. Những vườn sầu riêng sai trái, những vườn chôm chôm chín đỏ trĩu cành, những vườn dâu trĩu quả lủng lẳng từng chùm, rồi bòn bon, măng cụt, cam, quýt, xoài, bưởi, nhãn… Thật không sai khi nói nơi đây là vương quốc, là vựa trái cây lớn nhất của Bến Tre nói riêng, miền Tây Nam Bộ nói chung. Thế mới thấy thiên nhiên quá ưu ái cho vùng đất Cái Mơn – Chợ Lách, thế mới biết người nông dân vùng đất này kiên nhẫn và tài giỏi như thế nào mới có thể chăm sóc và tạo nên những vườn cây ăn trái xum xuê, oằn cành như vậy. Không chỉ được đi dạo trong vườn, du khách còn được thưởng thức trái cây ngay tại chỗ và tùy chọn mua về làm quà cho người thân nữa. Đặc biệt, theo chân nhà vườn các bạn còn được giới thiệu và hướng dẫn cách chăm sóc từng loại cây trái để có được những mùa quả năng suất và chất lượng nhất. Một điều rất thú vị khi du lịch Miền Tây, đến tham quan vườn trái cây Cái Mơn, những du khách muốn ở lại, có thể nghỉ lại homestay (ở nhà dân). Đây có thể nói là những trải nghiệm thú vị mà bất cứ du khách nào. Du lịch vườn trái cây Cái Mơn, du khách còn được thử qua nhiều đặc sản địa phương đậm chất Nam Bộ như bánh xèo nhân hến hoặc ốc gạo, tép dặm,… Hay là lắng nghe những giai điệu đờn ca tài tử du dương, ngọt ngào và sâu lắng. Trải nghiệm một cuộc sống bình dị, dân dã khi tham gia vào các hoạt động sản xuất, sinh hoạt cùng những người dân vùng quê sông nước. Không chỉ có những vườn trái cây trĩu quả thì, Cái Mơn còn được biết đến là xứ sở của nhiều loại hoa kiểng như vạn thọ, cúc đại đóa, hoa giấy, thược dược, cẩm chướng, cúc mâm xôi,… Mỗi năm, tại làng hoa Cái Mơn cung cấp cho thị trường cả nước hàng trăm giống hoa kiểng, cây kiểng quý các loại. Cái Mơn là vùng đất “địa linh nhân kiệt”, sản sinh nhiều người tài cho đất nước, trong đó có danh nhân Trương Vĩnh Ký, một trong những nhà bác học nổi tiếng thế giới vào thế kỷ 19, nay vẫn còn nhà bia tưởng niệm đón khách thăm viếng. Phía đối diện là Nhà thờ Cái Mơn, một trong những nhà thờ cổ xưa và lớn nhất Nam bộ, được xây dựng vào năm 1872; tháp chuông 09 tầng, cao 56,52m với 06 chuông đồng được đúc tại Pháp có tổng trọng lượng lên đến 4.000 kg… là điểm tham quan không thể bỏ qua. Rất nhiều du khách đến Cái Mơn đều có chung nhận xét đây là vùng “đất lành chim đậu” và thật khó quên Cái Mơn bởi ở đó có những con người rất hiếu khách, chân chất, đôn hậu đến lạ thường.
Vĩnh Long 3076 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Nếu có dịp về thăm xứ dừa Bến Tre, bạn đừng quên đến Vàm Hồ là sân chim lớn nhất của tỉnh Bến Tre để khám phá thiên nhiên kỳ thú, lắng nghe và nhìn tận mắt ngắm nhìn những đàn chim bay lượn trên bầu trời. Sân chim Vàm Hồ nằm bên hữu ngạn sông Ba Lai thuộc địa phận các xã Mỹ Hòa, Tân Mỹ và Tân Xuân, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre, có diện tích trên 67ha. Từ trung tâm tỉnh Bến Tre có nhiều con đường dẫn đến Khu du lịch sinh thái Sân chim Vàm Hồ đậm dấu ấn rừng ngập mặn. Trong đó tuyến đường thuận tiện nhất: qua Giồng Trôm đến Tân Xuân, huyện Ba Tri, lộ trình khoảng 30 cây số. Thời điểm mà khách du lịch Bến Tre ghé đến tham quan đông nhất là vào khoảng tháng 10 đến tháng 4, chim bắt đầu tụ tập về đây sinh sản, có thể thấy rõ trên các ngọn đước, bần, mắm nặng trĩu những tổ chim. Đến tháng 8 chúng lại bay đi nơi khác. Tập quán này được giữ nguyên hàng chục năm qua. Sân chim Vàm Hồ là khu vực hệ sinh thái đặc sắc, tiêu biểu cho rừng ngập mặn ven biển của đồng bằng sông Cửu Long, có giá trị sinh học cao và tiềm năng phát triển về du lịch sinh thái. Du lịch Bến Tre, đến Sân Chim Vàm Hồ, quý khách sẽ được trải nghiệm đi xuồng len lỏi vào những cánh rừng già xanh mát và rộn rã tiếng chim. Tham quan khu căn cứ kháng chiến, đi qua những chiếc cầu tre lắt lẻo, ngả lưng trên chiếc võng đung đưa dưới tán lá rừng, hít thở không khí trong lành của dòng sông Ba Lai. Hiếm thấy nơi đâu lại hoang sơ, đẹp chân chất, nhiều chim muôn, thủy sản như ở đây. Hiện nơi đây đang sở hữu trên 120 loài chim quý hiếm như: cò, vạc, cồng cộc, diệc xám, quắm trắng, le le… cùng nhiều loại thú hoang như trăn, rắn, sóc, chồn, dơi, kỳ đà… Vàm Hồ là vùng đất ngập mặn, độ cao trung bình 1,25 mét so với mực nước biển nên an toàn với triều cường hàng năm. Thảm thực vật Vàm Hồ có dừa nước, chà là, đước, mắm… ở tầng cao, rất lý tưởng cho các loài chim cư trú; còn ở tầng thấp gồm các loại cây chiếm ưu thế như đước đôi, bụp tra, ô rô, cóc kèn, rau muống biển, lau sậy… rất thuận tiện cho cò, vạc làm tổ sinh sản. Bên trong vườn chim là hệ thống kênh rạch chằng chịt như mạng nhện nên tôm, cá rất nhiều, chủ yếu là cá bống kèo, cua, tôm đất… là nguồn thức ăn phong phú cho các loài chim, cò ở đây. Đến thăm Nông trại du lịch – Sân Chim Vàm Hồ, du khách còn được thăm khu căn cứ kháng chiến xưa từng nuôi giấu bao đoàn quân cách mạng trong lòng đất; được tham gia một số trò chơi dân dã như: đi cầu khỉ, đi dây qua hồ, đạp xích lô mi ni, trò chơi đánh đu xưa… Nơi đây cũng phát triển khu vực trồng nhiều loại trái cây nhiệt đới cho trái quanh năm, để du khách thưởng thức các loại trái cây như bưởi, mít, đu đủ, mãn cầu xiêm,…được trồng hữu cơ không phân thuốc hóa học, do chính tay bạn hái xuống. Sau khi ngắm thiên nhiên đầy chim muông thú vị, khách có thể dừng chân tại nhà hàng, thưởng thức các món ăn ngon do chính những người dân khéo léo nơi đây chế biến: lẩu bần, cá kho nồi đất, bánh xèo, mắm tếp thịt ba chỉ, các loại bánh dân gian… Thú vị nhất là vào buổi chiều, khi mặt trời sắp lặn du khách sẽ được nghe bản “giao hưởng” thú vị của hàng ngàn con chim đủ loại từ các nơi bay về ríu rít bên nhau sau một ngày bay đi kiếm ăn khắp bốn phương và cả tiếng kêu của đàn vạc chuẩn bị vỗ cánh đi kiếm ăn vào ban đêm. Sân chim Vàm Hồ là một tài sản quý mà thiên nhiên đã ban tặng cho tỉnh Bến Tre. Ðến đây, du khách sẽ tận hưởng được không khí trong lành, cũng như được khám phá nhiều điều thú vị của rừng ngập mặn, được dịp tìm hiểu đời sống của các muông thú, đồng thời du khách còn tìm thấy ở đây vùng sinh thái nông nghiệp đặc trưng nền văn minh lúa nước nơi có lắm sông rạch, miệt vườn.
Vĩnh Long 3517 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Bến Tre là vùng đất trù phú được thiên nhiên ưu đãi với khí hậu ôn hòa quanh năm cùng hệ thống sông ngòi chằng chịt trĩu nặng phù sa. Với những vườn cây ăn trái sum suê, những vườn dừa bạt ngàn xanh mát, Bến Tre đã thu hút đông đảo du khách đến trải nghiệm loại hình du lịch sinh thái, miệt vườn sông nước mang đậm cái tình của bà con nơi đây. Trong đó Cồn Phụng, là một trong những điểm du lịch Bến Tre nổi tiếng nhất. Cồn Phụng còn được gọi với cái tên cồn Tân Vinh là một cù lao nổi giữa sông Tiền thuộc xã Tân Thạch, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre . Cồn Phụng nằm trong quần thể tứ linh (Long, Lân, Quy, Phụng). Trong đó, cồn Quy và cồn Phụng thuộc địa phận tỉnh Bến Tre, còn cồn Long và cồn Lân là thuộc tỉnh Tiền Giang. Ở một số vùng miền của Việt Nam, thường ở Nam Bộ, người ta dùng khái niệm cồn hoặc cù lao để chỉ bãi giữa, là một dải đất hình thành ở giữa con sông lớn nhờ quá trình bồi đắp phù sa lâu năm. Cồn Phụng lúc đầu chỉ là một cù lao nổi giữa sông Tiền vào những năm 1930 với diện tích khoảng 28 ha, nhưng do lượng phù sa bồi đắp dồi dào mỗi năm mà nay đã lên tới trên 50 ha. Tên Cồn Phụng có từ khi ông Nguyễn Thành Nam đến đây xây dựng chùa Nam Quốc Phật vào hồi đầu thế kỉ XX. Khi công trình này đang xây dựng, những người thợ nhặt được một cái chén cổ có hình con chim Phụng, nên đặt tên là Cồn Phụng. Ngoài ra, sở dĩ nó còn có tên gọi khác là cù lao Đạo Dừa là do ông Nguyễn Thành Nam khi đến đây xây chùa Nam Quốc Phật, đã thành lập nên một giáo phái gọi là Đạo Dừa. Đạo Dừa chủ trương mang lại hòa bình, sống bằng hoa trái. Khoảng cách di chuyển từ TP Hồ Chí Minh đến Bến Tre sẽ mất khoảng 1,5-2 tiếng đồng hồ. Bạn di chuyển qua cầu Rạch Miễu, rẽ trái sẽ có đường ven sông, ở đây có một bến phà chở bạn ra Cồn Phụng. Nếu không bạn có thể đến bến tàu ở Mỹ Tho, rồi tùy vào số người mà thuê tàu thuyền để đi Cồn Phụng. Với phong cảnh sông nước hữu tình, miệt vườn trù phú cùng nhiều hoạt động và dịch vụ hấp dẫn, hằng năm Cồn Phụng đón tiếp hàng nghìn lượt du khách đến khám phá và trải nghiệm. Khi nhắc đến Cồn Phụng – Bến Tre, không thể không nhắc đến công trình kiến trúc Đạo Dừa gắn với giai thoại của giáo chủ Đạo Dừa Nguyễn Thành Nam. Nơi đây có nhiều kiến trúc độc đáo vẫn còn lưu giữ như: sân Chín Rồng, tháp Hòa Bình, phòng truyền thống giới thiệu về đất và người Bến Tre… Trải qua 50 năm xây dựng, khu di tích vẫn giữ nguyên được nét đẹp nguyên bản của nó. Đi sâu bên trong, du khách được bước vào “mê cung dừa”, có cơ hội được hiểu thêm về con người, cuộc sống và văn hóa xứ dừa tại Bảo tàng Dừa, là một ngôi nhà được làm hoàn toàn từ thân cây dừa. Dừa hiện diện trong chiến tranh, kinh tế, văn hóa, ẩm thực… để làm nên dáng đứng Bến Tre. Phải trầm trồ, tấm tắc, thán phục sự tài tình của nghệ nhân. Từ những khúc gỗ dừa vô tri vô giác, các nghệ nhân đã sáng tạo để cho ra đời hàng trăm sản phẩm thủ công mỹ nghệ tinh xảo, bắt mắt và mang đậm giá trị nghệ thuật. Đến đây, du khách sẽ phải “rinh” về một món nào đó làm quà cho người thân để nhớ đến Bến Tre. Du lịch Bến Tre, đến với Cồn Phụng khách tham quan còn được chứng kiến toàn bộ quá trình để làm nên những viên kẹo dừa vô cùng thơm ngon và đậm vị miền Tây Nam Bộ này: Từ khâu pha chế, nấu kẹo, cắt kẹo, đóng gói đều được làm nên từ trái tim và tình yêu của những người dân nơi đây. Và chắc chắn ai đến những xưởng làm kẹo dừa này cũng xách cho mình vài túi quà ngọt ngào đến từ vùng đất Cồn Phụng này rồi! Cồn Phụng như một làng quê miền Tây thu nhỏ của Đồng bằng sông Cửu Long. Du khách có thể khám phá và tìm hiểu nhiều nét độc đáo về văn hoá, tập tục trong đời sống dân dã của người dân xứ dừa Bến Tre. Nhiều gia đình vẫn giữ nếp sống chủ yếu bằng nghề nuôi ong lấy mật từ hoa nhãn và một số loài hoa khác. Khung cảnh tại Cồn Phụng rất yên bình, nên thơ và còn gì tuyệt vời hơn khi du khách được trải nghiệm đi tàu trên sông, tản bộ trên đường làng rợp bóng dừa của huyện Châu Thành – Bến Tre; đi xe ngựa, uống trà mật ong, thưởng thức các món ăn trái cây miền nhiệt đới, nghe đờn ca tài tử, đặc biệt được trải nghiệm chèo xuồng len lỏi trong những con rạch nhỏ mà hai bên toàn là cây dừa nước và những cây bần đong đưa bông trắng đầy thơ mộng. Đến Cồn Phụng, du khách không chỉ hòa mình với thiên nhiên sông nước hữu tình, mà còn được thưởng thức những món ăn dân dã của miệt vườn miền Tây được chế biến từ nguyên liệu tươi sống sẵn có như: cá tai tượng chiên xù, xôi chiên phồng, lẩu mắm, đuông dừa chiên bơ, cháo gà ta thả vườn, cơm trái dừa và tép rang dừa… Tất cả đều ẩn chứa hương vị xứ dừa khiến thực khách mê mẩn và nhớ mãi. Chắc chắn là đừng quên uống ly nước dừa mát lạnh nhé. Trải nghiệm cảm giác mạo hiểm, hồi hộp, thót tim, đòi hỏi sự can đảm cũng là điều mà du khách đến Cồn Phụng đặc biệt ấn tượng, mang lại niềm vui, những giây phút thư giãn khi tham gia các trò chơi dưới nước như đạp xe qua cầu ván, Zipline qua hồ, cầu dây văng, cầu cau giữ thăng bằng … hay hóa thân thành người nông dân trong trang phục truyền thống thử tát mương bắt cá… Không gian thoáng đãng của sông nước miệt vườn, thưởng thức món ăn đậm chất đồng quê, chiêm ngưỡng các công trình tiểu cảnh độc đáo, tận mắt chứng kiến lò sản xuất kẹo dừa thơm nóng … tất cả mang đến sự thú vị, tươi vui cho du khách gần xa khi đến Cồn Phụng của xứ dừa Bến Tre. Muốn có một chuyến du lịch Bến Tre đúng nghĩa, khám phá trọn vẹn vẻ đẹp của vùng đất này, quý khách hãy liên lạc với công ty Thám Hiểm MeKong chuyên Tour Bến Tre theo số điện thoại 0292.3819.219 – 0932.886.008 (Ms Chi) để được phục vụ chu đáo nhất. Trong Tour Bến Tre của chúng tôi, quý khách không chỉ được tham quan Cồn Phụng mà còn kết hợp khám phá các thắng cảnh nổi tiếng khách như:Cù Lao Thới Sơn, Chùa Vĩnh Tràng (Tiền Giang).
Vĩnh Long 3059 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Là vùng đất được phù sa bồi đắp nên Bến Tre có nhiều cồn cù lao, mỗi cồn nổi có một vẻ đẹp riêng và những hào sản độc đáo khác nhau. Trong đó không thể không nhắc đến Cồn Quy. Điều khiến du khách thích thú là ở cồn Quy là đến nay nơi đây vẫn còn giữ nét hoang sơ với nhiều vườn cây ăn trái lâu năm, được trồng theo hàng, theo lối, nên rất thoáng mát và đẹp mắt. Cồn Quy nằm dọc theo dòng sông Tiền thơ mộng, ở giữa xã Tân Thạch và Qưới Sơn, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre. Khu du lịch Cồn Quy cách trung tâm thành phố Bến Tre khoảng 23km, bạn thuê tàu du lịch xuôi theo dòng sông Tiền khoảng 30 phút là tới Cồn Quy. Du lịch Bến Tre, đến với Cồn Quy du khách sẽ được tận hưởng bầu không khí trong lành và chiêm ngưỡng vẻ đẹp sông nước miệt vườn đặc trưng, cùng nghe những làn điệu đờn ca tài tử say đắm lòng người. Cồn Quy còn được gọi là Cồn Cát, là một trong “tứ cồn” của sông Tiền. Cồn Quy là cồn nhỏ nhất trong những cồn tại tỉnh Bến Tre, có diện tích tự nhiên khoảng 65ha. Theo người dân địa phương, trong số bốn cồn “Tứ Linh” nổi danh của du lịch miền Tây, thì ba cồn Long, Lân, Phụng, có hình dáng dài, riêng cồn Quy có hình tròn (giống hình con rùa) nên được gắn với tên này. Trong đó, cồn Quy và cồn Phụng thuộc địa phận tỉnh Bến Tre, còn cồn Long và cồn Lân là thuộc tỉnh Tiền Giang. Ở một số vùng miền của Việt Nam, thường ở Nam Bộ, người ta dùng khái niệm cồn hoặc cù lao để chỉ bãi giữa, là một dải đất hình thành ở giữa con sông lớn nhờ quá trình bồi đắp phù sa lâu năm. Cồn Quy được hình thành từ hàng trăm năm trước. Khởi thủy, đây chỉ là doi đất nổi hoang vu trên sông, cỏ cây rậm rạp, được phù sa sông bồi đắp mà lớn dần. Sau đó, khoảng những năm 1950-1960 mới lác đác có người đi lập nghiệp, tìm ra khai khẩn… Chứng tích còn lưu lại phía đầu cồn (hướng thượng lưu) là miếu Bà Chúa Xứ do tiền nhân khai hoang lập đất dựng nên. Thời kỳ đầu, cồn rộng chừng 60ha, sau nhờ dân trồng bần giữ đất và được bồi đắp phù sa nên có được diện tích như ngày nay… Vào những năm 1960, Cồn Quy được bắt đầu khai hoang và đầu tư phát triển du lịch. Điểm hấp dẫn du khách khi đến với Cồn Quy là vẻ đẹp hoang sơ và chưa có sự tác động của con người. Chiêm ngưỡng Cồn Quy từ xa giống như hòn đảo nổi giữa sông, trên Cồn có một nhà thờ Tin Lành nơi người dân đến cầu nguyện. Lúc đầu, người dân nơi đây chỉ xây dựng những ngôi nhà nhỏ bằng lá tre và có quy mô nhỏ để đón khách du lịch. Sau đó, khi nhận thấy có tiềm năng phát triển du lịch người dân đã cho xây nhà hàng Thủy Tạ ven sông có sức chúa tới hàng trăm khách và từ đó chất lượng dịch vụ cũng được nâng cao. Du lịch Cồn Quy bạn sẽ được chiêm ngưỡng những vườn bưởi, cam, vườn nhãn, chôm chôm, chuối, dừa, xoài, mít tố nữ… xum xuê, sai trĩu quả. Bên cạnh trồng những vườn cây ăn trái, người dân còn phát triển nuôi ong lấy mật, ong mật ở đây được lấy từ hoa nhãn nên có hương vị đặc trưng riêng. Đặc biệt thăm cồn du khách còn được hóa trang thành người nông dân tham gia “tát mương bắt cá”, đi “mò cua, bắt ốc”,… trải nghiệm cuộc sống bình dị miền quê sông nước. Buổi trưa, dưới những tán cây, du khách có thể nằm thư giãn trên những chiếc võng đu đưa cùng làn gió. Ngoài ra, du khách cũng có thể tổ chức cắm trại dã ngoại với nhiều hoạt động hấp dẫn. Buổi tối, du khách sẽ được người dân địa phương chèo xuồng đưa du khách đi trong những con rạch nhỏ ngoằn ngèo, với hai bên là rặng dừa nước xanh um, ngắm đom đóm về đêm rất hấp dẫn. Sinh hoạt đời thường của người dân nơi đây gắn liền với các nghề thủ công được sản xuất từ dừa và sản xuất kẹo dừa. Du khách đến đây sẽ có dịp chứng kiến tận mắt quy trình làm các sản phẩm được chế tác từ dừa, tìm hiểu cách làm kẹo dừa và có thể chọn cho mình một ít kẹo dừa hay các sản phẩm dễ thương làm quà lưu niệm, hay tặng cho bạn bè, người thân sau chuyến du lịch Bến Tre. Đến cồn Quy, bạn đừng quên thưởng thức những món ăn đặc sản, dân dã đặc sắc như: tép rang dừa, cá bông lau nấu canh chua bần với rau muống đồng, cá điêu hồng hấp nấm mối với bông bí, lẩu cá kèo, cá lóc kho tộ,… Tại Cồn Quy dịch vụ khách sạn, nhà nghỉ được phát triển đáp ứng nhu cầu nghỉ dưỡng của du khách. Đặc biệt, là những homestay thu hút du khách vừa tiết kiệm chi phí lại có cơ hội tìm hiểu cuộc sống của người dân nơi đây. Ngồi trên những chiếc thuyền lênh đênh sông nước ngắm nhìn cây cối trù phú, xanh tươi và yên bình sẽ là một trong những trải nghiệm mà có lẽ ai cũng muốn thử một lần trong đời. Cồn Quy chắc chắn là một trong những điểm đến để lại dấu ấn mạnh mẽ trong tâm trí bạn sau khi rời Bến Tre.
Vĩnh Long 3091 lượt xem
Tháng 11 đến tháng 4
Di tích Đồng Khởi Bến Tre thuộc xã Định Thủy, huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre. Nơi diễn ra sự kiện lịch sử Đồng Khởi Bến Tre, mở đầu cho phong trào Đồng Khởi của cách mạng miền Nam Việt Nam. Tháng 5/1959, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 15 kiểm điểm tình hình trong nước và đề ra đường lối cách mạng của cả nước và của miền Nam, xác định nhiệm vụ cơ bản: Giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc, thực hiện độc lập dân tộc và người cày có ruộng, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, tiến tới xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh. Đầu tháng 12/1959, đồng chí Nguyễn Thị Định - Phó Bí thư Tỉnh ủy Bến Tre tổ chức cuộc họp tại Cù lao Minh, Tỉnh ủy Bến Tre đã chọn 3 xã Định Thủy, Phước Hiệp và Bình Khánh thuộc huyện Mỏ Cày (nay là huyện Mỏ Cày Nam) làm căn cứ chỉ đạo và là nơi bắt đầu Đồng Khởi. Vào 11 giờ trưa ngày 12/01/1960, tại xã Định Thủy, toàn thể nhân dân nổi dậy và tiến công địch. Mở đầu phong trào đồng khởi, sáng ngày 17/01/1960, lực lượng cách mạng bắt và xử tử Đội Tý - chỉ huy Tổng đoàn dân vệ, khét tiếng ác ôn. Tiếp đó, lực lượng cách mạng cùng quần chúng nhân dân, bao vây đình Rắn - nơi đóng quân của Tổng đoàn dân vệ và bao vây đánh chiếm đồn Vàm Nước. Lực lượng của ta chiếm được đồn và làm chủ tình hình, quân ta thu được 15 súng, 10 lựu đạn và 1000 viên đạn các loại, giải phóng toàn bộ tề xã, tề ấp ở Định Thủy, bọn tề ngụy và binh lính trong đồn tan rã,. Vào 10 giờ đêm 17/01/1960, được lệnh nổi dậy, nhân dân Phước Hiệp nhất tề đổ ra đường biểu dương sức mạnh hỗ trợ cho các tổ hành động bao vây đồn dân vệ và tề xã. Phước Hiệp chìm trong tiếng reo hò, trống mõ và tiếng nổ liên hồi của ống lói, tiếng loa kêu gọi đầu hàng. Nhân dân xã Phước Hiệp đã đập tan bộ máy kìm kẹp của địch, giành quyền làm chủ trong toàn xã. Ngày 18/01/1960, nhân dân xã Bình Khánh đã đồng loạt đứng lên đánh bọn tề ấp, tề xã, bọn do thám, chỉ điểm, giành được chính quyền. Do lực lượng tề ngụy ở đây rất mạnh nên phải đến 12 giờ đêm ngày 20/01/1960, xã Bình Khánh mới hoàn toàn được giải phóng. Theo sự chỉ đạo của tỉnh, nhân dân khắp huyện Mỏ Cày đồng loạt nổi dậy, ngày cũng như đêm; tiếng trống mõ liên hồi lan khắp Cù lao Minh, Cù lao Bảo. Các thanh niên nam nữ được tổ chức thành đội ngũ, trương cờ, vác súng lớn, súng nhỏ bằng bập dừa, kéo đi như nước vỡ bờ để biểu dương khí thế cách mạng, uy hiếp tinh thần địch, khiến chúng lo sợ nằm yên trong đồn bốt. Từ Bến Tre, phong trào Đồng Khởi nhanh chóng lan rộng khắp các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Đêm 24, rạng ngày 25/01/1960, nhiều vùng nông thôn đã nổi dậy diệt ác, phá kìm, giải tán tề xã, tề ấp, giành quyền làm chủ. Cho đến giữa năm 1960, ngọn lửa Đồng Khởi tiếp tục lan sang các tỉnh Tây Nguyên, làm thành cuộc khởi nghĩa dây chuyền sôi động khắp các tỉnh miền Nam và Tây Nguyên. Nhà Truyền thống Đồng Khởi được xây dựng năm 2001, có tổng diện tích 5.029,3m2, gồm các hạng mục chính: nhà đón tiếp, bia chiến thắng và nhà truyền thống. Nhà đón tiếp xây dựng bằng bê tông cốt thép, nền lát gạch men màu hồng, mái lợp ngói màu đỏ. Ngôi nhà có ba cửa ra vào bằng khung sắt sơn màu xám, lộng kính, cửa chính quay về hướng Đông, hai cửa phụ quay về hướng Nam. Bia chiến thắng được xây dựng phía bên phải của khu di tích, gồm bảy bậc tròn đồng tâm ốp đá mài màu xanh lam. Mặt trước quay về hướng Nam được chạm khắc tám chữ vàng “Anh dũng đồng khởi, thắng Mỹ diệt Ngụy”. Mặt sau bia khắc nội dung “Ngọn lửa thần kỳ” do tỉnh Bến Tre phát động cuộc thi viết văn bia ca ngợi Đồng Khởi năm 1960, và được khắc trên bia nhân kỷ niệm 45 năm ngày Đồng Khởi Bến Tre. Nhà Truyền thống có tầng trệt và một tầng lầu, trên nóc là biểu tượng ngọn đuốc Đồng Khởi cao 12m. Bên trong của tầng trệt trưng bày hình ảnh, tư liệu và hiện vật của phong trào đấu tranh chính trị của nhân dân Bến Tre từ tháng 7/1954 đến cuối năm 1959. Tầng lầu trưng bày hình ảnh, tư liệu và hiện vật trong phong trào Đồng Khởi. Nơi sảnh giữa có một bức tường cách điệu đắp nổi dòng chữ “Anh dũng đồng khởi, thắng Mỹ diệt Ngụy”, bên cạnh là sa bàn thể hiện phong trào Đồng Khởi Bến Tre. Di tích Đồng Khởi Bến Tre được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng là di tích quốc gia đặc biệt ngày 22 tháng 12 năm 2016 Nguồn: Cục di sản văn hoá
Vĩnh Long 4692 lượt xem
Bảo tàng Bến Tre được thành lập năm 1981, tọa lạc tại số 146 đường Hùng Vương, phường An Hội, thành phố Bến Tre với diện tích khoảng 20.000m2. Mặt chính Bảo tàng hướng về phía sông Bến Tre với những cây cổ thụ tỏa bóng mát cùng nhiều hoa kiểng tươi tốt, quý giá - cảnh sắc nên thơ, nhẹ nhàng, sâu lắng mang đầy sự quyến rũ và thu hút; mặt sau hướng về đường Cách mạng tháng Tám, một trong những con đường nhộn nhịp nhất của thành phố Bến Tre. Đến với Bảo tàng Bến Tre quý khách có thể tham quan, học tập, nghiên cứu tìm hiểu các địa điểm trong quần thể này đó là: Di tích quốc gia “Nơi ở và hoạt động của Đại tá Phạm Ngọc Thảo” (được công nhận Di tích lịch sử quốc gia năm 2015), Ngôi nhà là Dinh Tham biện (Pháp) - Dinh Tỉnh trưởng (Mỹ) được xây dựng theo lối kiến trúc Pháp (1876) mang nét trang nghiêm và cổ kính, nơi đây trưng bày những hình ảnh và hiện vật về lịch sử, truyền thống cách mạng của nhân dân tỉnh nhà trong 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ xâm lược; trưng bày hình ảnh, tư liệu về người chiến sĩ tình báo, Đại tá Phạm Ngọc Thảo; trưng bày Di chỉ khảo cổ học Giồng Nổi. Nhà trưng bày thành tựu Kinh tế - Xã hội của tỉnh (2003): trưng bày những hình ảnh, hiện vật trong xây dựng kinh tế, văn hóa, xã hội của địa phương từ sau ngày 30.4.1975 đến nay - nơi đây còn là nơi trưng bày các chuyên đề đặc sắc và phong phú trên nhiều lĩnh vực với những thành tựu lớn của tỉnh nhà. Nhà dừa (2012): Ngôi nhà 3 gian được cất bằng gỗ dừa theo kiểu nhà nông thôn Nam bộ. Ngôi nhà được thiết kế một cách nhẹ nhàng, khoáng đạt mang tính chất dân tộc đậm đà, phản ánh được tính giản dị và tâm hồn con người Việt Nam. Bên trong ngôi nhà thờ Bác Hồ và AHLLVTND, Đại tá Phạm Ngọc Thảo, trên vách trưng bày các hình ảnh, hiện vật liên quan đến cây dừa Bến Tre trong kháng chiến cũng như trong sinh hoạt văn hóa. Nhà dừa còn tổ chức giao lưu “đờn ca tài tử”, “hát Sắc bùa”,… vào đêm 30 mỗi tháng. Đến đây du khách có thể cảm nhận được sự yên bình, ấm áp đồng thời thưởng thức những làn điệu diễn xướng dân gian Bến Tre được các nghệ nhân, tài tử trình diễn. Khu trưng bày ngoài trời: gồm những hiện vật thuộc thể khối có kích thước lớn như xác máy bay, pháo, vỏ bom…thu gom trong chiến tranh; Xung quanh khuôn viên là các tiểu cảnh đan xen: ruộng lúa, con trâu, hồ sen, cầu dừa,… tạo cảm xúc gần gũi, thân quen với du khách. Là một trong những địa chỉ đỏ về giáo dục truyền thống cách mạng vô cùng ý nghĩa, là điểm du lịch thú vị, hấp dẫn. Mỗi năm, Bảo tàng Bến tre thu hút khoảng 40.000 du khách trong và ngoài tỉnh cũng như du khách quốc tế đến tham quan, tìm hiểu, học tập, giải trí, trải nghiệm, thưởng thức di sản văn hóa và nghệ thuật dân gian Bến Tre. Bảo tàng Bến Tre được công nhận là Di tích Lịch sử quốc gia ngày 28.8.2015 bởi Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch. Nguồn: Du lịch Bến Tre
Vĩnh Long 4442 lượt xem
Đình Rắn ở Mỏ Cày, Bến Tre từ xa xưa đã trở thành chốn linh thiêng, bởi nơi đây gắn liền với nhiều huyền tích về thần rắn hộ người. Không những thế, Đình Rắn còn là nơi Anh hùng lực lượng vũ trang Nguyễn Thị Định – tức nữ tướng Ba Định khởi phát phong trào Đồng Khởi. Có giai thoại còn kể rằng, khi cô Ba Định bị Việt gian chỉ điểm, chính rắn thần trong Đình Rắn đã “hộ thể” cho cô Ba, giúp bà thoát khỏi nòng súng nanh ác của quân thù… Đình Rắn hay còn gọi là đình Định Nhơn tọa lạc ở xã Định Thủy, huyện Mỏ Cày, nay là Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre. Đình Rắn nằm trong một con đường nhỏ heo hút, hai bên đường trồng cây bạch đàn khẳng khiu. Theo lời người dân nơi đây, vào đầu thế kỷ 18, bốn tộc họ Nguyễn, Phan, Trịnh, Võ được coi là những người khai phá đất này. Nơi đây xưa kia còn hoang vắng, ít bóng người, nhiều thú dữ. Thế nên, khi đặt chân đến vùng đất này, các cụ đã lập một ngôi miếu nhỏ thờ ông Hổ. Miếu lập chẳng bao lâu, nhiều cư dân trong vùng đến chiêm ngưỡng, cúng bái ngày càng đông. Các bậc lão làng nơi đây mới xin lập làng và lấy tên là làng Định Phước. Miếu nhỏ được dựng lên thành Đình Rắn. Gọi là Đình Rắn vì ngày xưa ở đây nhiều mô đất cao, có rất nhiều rắn trú ngụ. Mỗi lần đến ngày cúng đình rắn đều xuất hiện và biến mất trong chốc lát, đồ cúng sau khi cúng xong để lại, rồi rắn đến mang đi. Cũng từ đó, đời sống của bà con trong vùng khấm khá hơn, mùa màng luôn được bội thu, dân làng đều khỏe mạnh. Khi xưa, trước cổng đình có cặp rắn to. Cặp rắn đó không làm hại dân trong vùng mà chỉ ăn thịt ác thú, hùm, beo. Dân trong vùng gọi là “Ông, Bà Rắn” hiển linh. Sau ngày thống nhất đất nước, đôi rắn ấy cũng không thấy đến nữa. Đầu năm 1960, bà Nguyễn Thị Định mà dân xứ dừa hay gọi là cô Ba Định bí mật cùng các cán bộ lãnh đạo Tỉnh ủy Bến Tre về đình Rắn họp bàn ngày Đồng Khởi. Tin tức bị lọt ra ngoài, đến tai chế độ Việt Nam cộng hòa. Họ Ngô liền sai một đạo quân dẫn đầu là viên Trung úy bảo an phục kích ngay đình Rắn để bắt các chiến sĩ cách mạng. Rất nhiều lính sợ “thần Rắn” không dám đi. Hơi hoang mang, viên Trung úy giắt theo bên mình rất nhiều lựu đạn để khi gặp “ông bà Rắn” to lớn là cho nổ banh thây luôn. “Thần hồn nát thần tính”, lúc đã gần bắt được cô Ba Định, thì bỗng nhiên một tên lính la hét tán loạn, cho rằng mình đã thấy “ông bà Rắn”. Tên lính rút chốt lựu đạn, tính ném cho “ông bà Rắn” tan thây thì không hiểu sao lại ném ngược vào đồng bọn. Tụi lính lại xôn xao anh lính kia chắc bị “Rắn thần” nhập. Viên Trung úy chỉ huy cũng bị thương nặng và mấy ngày sau bị một con rắn độc cắn chết. Lính nguỵ toan phá hoại đình Rắn. Nhưng vì sợ không dám bén mảng đến đình, chúng dùng bom, lựu đạn hòng đánh sập ngôi đình linh thiêng. Tuy có hoang tàn, đổ nát nhưng đình Rắn vẫn là vùng đất linh bao bọc lấy các chiến sĩ cách mạng trong suốt những năm kháng chiến máu lửa kinh hoàng. Đến năm 1993, Bộ văn hóa thông tin công nhận đình Rắn là Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia. Nguồn: Tổng hợp báo nhân dân điện tử
Vĩnh Long 4439 lượt xem
Tọa lạc tại ấp Phú Khương, xã Phú Lễ, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre, Đình Phú Lễ được vua Minh Mạng cho phép lập đình vào năm 1826, trên cơ sở ngôi đình bằng gỗ lá được xây dựng trước đó. Ngày 29.01.1852, đình nhận được sắc phong của vua Tự Đức. Giữa không gian yên tĩnh, cổng đình Phú Lễ hiện ra uy nghi và nổi bật. Đình đã gần hai trăm tuổi, qua nhiều lần tu sửa nhưng vẫn giữ nguyên nét cổ kính. Ngôi đình ẩn mình giữa những tán cây cổ thụ, khi mặt trời ló rạng, những tia nắng len lỏi qua từng kẽ lá, chiếu vào tường gạch, thềm đá rêu phong càng tôn thêm nét uy nghiêm, trầm mặc vốn có của đình. Thềm và móng đình được cấu trúc bằng đá xanh, bên trên xây gạch. Đình gồm tất cả 10 gian: 6 gian chính dính liền với mái và 4 gian phụ bố trí theo lối “chữ Đinh” cũng là nhà phổ biến ở đồng bằng sông Cửu Long trước đây. Cột đình bằng gỗ lim, gỗ quí hiếm ở miền Tây Nam bộ, đường kính 40cm, mái lợp ngói vảy cá. Trong Đình gồm 6 bàn hương án đều sơn son thếp vàng với hình tượng long lân qui phụng rất tinh xảo theo mô típ của đình chùa cổ Việt Nam. Ðặc biệt là nghệ thuật chạm khắc nhiều tầng trên gỗ bao quanh các cột ở gian chánh đường cho thấy tay nghề lão luyện của người thợ ngày đó. Tương truyền, khi xây đình, các cụ cao niên trong vùng đã mời các thợ và nghệ nhân từ Huế vào chạm khắc nên những tác phẩm gỗ tuyệt đẹp này. Không chỉ là những hình ảnh các con vật tứ linh mang tính ước lệ của văn hóa cổ Việt Nam mà còn có cả hình ảnh con cá, con cua của vùng biển Ba Tri – những con vật bình dân cũng được đưa vào trong kiến trúc tạo hình. Sự hoành tráng, uy nghi của ngôi đình cho thấy cuộc sống trù phú và bề dày văn hóa của cư dân Phú Lễ nói riêng và vùng Ba Tri nói chung vào đầu thế kỷ trước. Do chiến tranh và thời gian, các công trình kiến trúc và các hiện vật bài trí bên trong (hương án, cuốn thư, hoành phi, bình phong, bao lam, đồ lễ bộ…) đã bị xuống cấp và hư hỏng nhiều. Tuy nhiên, những phần cơ bản về kiến trúc vẫn còn nguyên, không bị bom đạn tàn phá, đặc biệt những tác phẩm nghệ thuật điêu khắc gỗ sơn son, thếp vàng còn lưu giữ được đến hôm nay. Đình Phú Lễ là trung tâm tín ngưỡng của cộng đồng cư dân, là nơi dân làng gửi gắm những mong ước của mình vào vị thần phò trợ cho làng, được nhà nước sắc phong là Thành hoàng Bổn cảnh. Ngoài thần Thành hoàng, các vị Tiền hiền, Hậu hiền có công khai phá, lập làng cũng được nhân dân đưa vào đình thờ phụng. Điểm khác biệt của đình Phú Lễ là vào ngày Tết hoặc Lễ hội cúng đình (Lễ Kỳ Yên) được tổ chức vào 18 và 19 tháng 3 âm lịch hàng năm, ngay trước đình sẽ tổ chức hát bội thu hút sự quan tâm của đông đảo người dân và du khách thập phương. Ngày 9 – 10 tháng 11 Âm lịch đình tổ chức lễ cầu bông, cầu mong mùa màng bội thu. Ngày 7-1-1993, Đình Phú Lễ được Bộ Văn hoá – Thông tin ra quyết định công nhận là di tích lịch sử – văn hóa cấp quốc gia. Du lịch Bến Tre, đến Phú Lễ bạn còn khám phá làng nghề truyền thống Phú Lễ (gồm đan đát, nấu rượu), trong đó có nghề nấu rượu đế đã tồn tại rất lâu đời. Rượu đế Phú Lễ được nhiều người tiêu dùng ưa chuộng và biết đến bởi sản phẩm rất thơm ngon, tinh khiết, chất lượng ổn định, không gây độc hại và hợp khẩu vị của người tiêu dùng. Nguồn: Báo du lịch Bến Tre
Vĩnh Long 4315 lượt xem
Đình Bình Hòa nằm sát tỉnh lộ 26, thuộc ấp Bình Ninh, xã Bình Hòa cũ nay là tỉnh lộ 88, ấp 5A, Thị Trấn Giồng Trôm, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre. Đình Bình Hòa được xây dựng lần đầu tiên vào năm 1812. Đình do bà con nhân dân dựng lên từ những vật liệu đơn sơ như cây, lá , tre, nứa để thờ thành hoàng làng. Đến năm 1852, Đình Bình Hòa Bến Tre được vua Tự Đức sắc phong. Đây là nghi lễ rất có ý nghĩa khi các thần linh thờ trong đình nhận được sự công nhận từ nhà vua. Từ đó, đình được bà con nhân dân biết đến nhiều hơn, họ về đây dâng lễ để cầu nguyện những điều bình an, may mắn. Đến năm 1903, ban khánh tiết đã đứng ra để tổ chức, vận động người dân đóng góp công sức, tiền của xây dựng lại Đình Bình Hòa Bến Tre với quy mô rộng lớn hơn. Quá trình thi công mất 10 năm, từ 1903 đến 1913 thì hoàn thành. Vật liệu chủ yếu được sử dụng là gỗ tứ thiết, kết cấu gắn bằng mộng và chốt khớp, hoàn toàn không dùng đinh. Đây là kiểu xây dựng đình chùa rất quen thuộc dưới thời nhà Nguyễn, dù thô sơ nhưng vẫn vô cùng chắc chắn. Ngày 25/12/1959 âm lịch, một trung đoàn công an Ngô Quyền do tên Lê Xuân Khánh chỉ huy từ Bến Tre xuống đây đóng quân. Chúng lấy đình Bình Hòa làm nơi giam cầm, tra tấn các chiến sĩ cách mạng và đồng bào ta. Quân Ngụy đã sử dụng rất nhiều hình thức tra tấn dã man, tàn ác. Theo một số ghi chép, tổng số đồng bào bị chúng bắt đến đây và tra tấn, thiệt mạng lên hơn 400 người. Ngôi đình trăm năm tuổi đã chứng kiến máu của biết bao đồng bào đổ xuống, đồng thời là chứng nhân lịch sử cho tội ác của kẻ thù. Đến năm 2012, đình Bình Hòa được trùng tu bởi Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Bến Tre kết hợp cùng Ủy ban nhân dân huyện Giồng Trôm. Quá trình tôn tạo di tích kéo dài trong 1 năm, vẫn giữ nguyên những nét đặc trưng của đình nhưng mở rộng quy mô và xây thêm những công trình phụ trợ để phục vụ khách đến tham quan và du lịch. Khi hoàn thiện, tổng diện tích đình Bình Hòa là 9.000m2 với các hạng mục chính bao gồm: nhà võ ca, thiêu hương, chính điện, tiền sảnh, hành lang, hậu đường, miếu Quan Thánh. Hiện nay, đình Bình Hòa vẫn đang lưu giữ hơn 100 tác phẩm điêu khắc gỗ tinh xảo bao gồm các bức hoành phi, liễn đối, bao lam, phù điêu, hương án. Đình Bình Hòa đã được xếp hạng là Di tích lịch sử văn hoá, Kiến trúc Nghệ thuật Quốc gia ngày 7/1/1993. Nguồn: Tổng hợp báo du lịch Bến Tre
Vĩnh Long 4207 lượt xem
Khu ủy Sài Gòn - Gia Định tọa lạc tại xã Tân Phú Tây, huyện Mỏ Cày Bắc, tỉnh Bến Tre còn có mật danh là T4, Y4, là cơ quan đầu não chỉ huy cuộc kháng chiến chống Mỹ ở khu vực đô thị Sài Gòn - Gia Định từ tháng 7/1969 đến tháng 10/1970. Cách đây 50 năm, vào tháng 7-1969, Khu ủy Sài Gòn - Gia Định do đồng chí Võ Văn Kiệt làm Bí thư, hai đồng chí Trần Bạch Đằng và Mai Chí Thọ làm Phó bí thư đã lãnh đạo, chia thành nhiều bộ phận nhỏ, bằng nhiều hình thức bí mật di chuyển đến căn cứ xã Tân Phú Tây. Tuy thời gian đóng tại đây không dài nhưng Căn cứ Khu ủy Sài Gòn - Gia Định đã để lại những dấu mốc lịch sử đáng nhớ, đó là nơi làm việc của các đồng chí lãnh đạo Đảng. Căn cứ Khu ủy Sài Gòn - Gia Định qua những tư liệu lịch sử hiện vẫn còn được tỉnh bảo tồn, giới thiệu tại di tích lịch sử cách mạng cấp quốc gia cùng tên, tọa lạc tại xã Tân Phú Tây, huyện Mỏ Cày Bắc, tỉnh Bến Tre. Đây là một trong những địa điểm di tích thu hút đông đảo du khách trong và ngoài tỉnh tham quan hàng năm. Căn cứ Khu ủy Sài Gòn - Gia Định được chuyển về đóng tại xã Tân Phú Tây và Thành An vào thời điểm như đã nêu. Đây là vùng mới giải phóng, nhân dân kiên cường, có trình độ giác ngộ chính trị cao, địa hình lại rất hiểm trở, nhiều kênh rạch chia cắt, có nhiều vườn dừa liên tiếp che chắn, địch không thể đổ quân bằng xe cơ giới, thiết giáp, kể cả việc dùng trực thăng đổ quân cũng bị nhiều hạn chế. Chỉ bằng những vật liệu thô sơ, chủ yếu là sử dụng những thứ có sẵn tại chỗ, các du kích địa phương đã xây dựng 16 hầm nổi và 14 hầm bí mật (phân bố ở hai xã liên hoàn: Tân Phú Tây và Thành An), tất cả được bố trí chặt chẽ để có thể chi viện cho nhau lúc cần thiết. Các hầm nổi là nơi ở, làm việc, hội họp của các đồng chí lãnh đạo Khu ủy, ban y tế, bộ phận điện đài cơ yếu; ngoài ra, còn có một hầm được đặt tên là “nhà hạnh phúc”, là nơi ở đêm tân hôn của các chiến sĩ Y4. Đến tháng 10-1970, địch đã phát hiện lãnh đạo Khu ủy hoạt động tại xã Tân Phú Tây, chúng đã nhiều lần đổ quân đánh phá nơi đây và các xã lân cận. Trước tình hình đó, đồng chí Võ Văn Kiệt đã họp lãnh đạo Khu ủy, quyết định rút khỏi vùng căn cứ. Thời gian đóng tại khu căn cứ, lãnh đạo Khu ủy Sài Gòn - Gia Định đã nhận được sự cưu mang đầy nghĩa tình của quân và dân trong toàn huyện. Sau chiến tranh, vùng căn cứ gần như bị phá hủy hoàn toàn. Để nhắc nhớ sự kiện ấy, tháng 11-1997, Đảng bộ và nhân dân tỉnh đã phục chế lại hai hầm trú ẩn: hầm số 1 là nơi hội họp điện đài cơ yếu và hầm số 2 là nơi ở và làm việc của đồng chí Võ Văn Kiệt và sau đó mở rộng khoảng 2ha xây dựng thêm một số hạng mục. Di tích được Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) công nhận là Di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 23-12-1995. Nguồn: Tạp chí bộ lao động thương binh xã hội
Vĩnh Long 3993 lượt xem