Khám phá lịch sử, văn hóa, con người và cảnh đẹp Việt Nam trên ứng dụng du lịch Travelviet
Tải ứng dụng Travelviet
(VTC News) - Sau lần đại trùng tu, ngôi miếu cổ hơn 300 năm tuổi thờ vua Lý Nam Đế và hoàng hậu ở huyện Vũ Thư (Thái Bình) có diện mạo mới nhưng vẫn giữ nét cổ kính nguyên mẫu.
Ngôi miếu hơn 300 năm tuổi ở Thái Bình 'lột xác' sau lần đại trùng tu
Miếu Hai Thôn (xã Xuân Hòa, huyện Vũ Thư, Thái Bình) là ngôi miếu cổ hơn 300 năm tuổi, thờ vua Lý Nam Đế và hoàng hậu Đỗ Thị Khương. Miếu Hai Thôn được Nhà nước công nhận là Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia vào năm 1986.
Miếu Hai Thôn nằm trên một gò đất cao, rộng 4.500m2. Miếu được xây dựng theo dạng thức chữ nhị, 2 tòa, 8 gian, xung quanh vườn trồng nhãn. Vườn nhãn ấy nay thành vườn cổ thụ tươi tốt. Theo Ngọc phả của di tích, miếu Hai Thôn nằm trên nền đất tư dinh cũ của bà Đỗ Thị Khương (vợ vua Lý Nam Đế).
Năm Kỷ Tỵ 1689, dân làng xây lại 2 tòa kiến trúc lớn (kiểu chữ nhị). Sang đời Thành Thái (nhà Nguyễn), dân làng xây thêm một tòa 7 gian, đổi sân miếu thành vườn hoa. Sau “cải tiến vi hậu” tòa tiền Tế thành hậu cung, tòa 7 gian làm thêm thành bái đường, chuyển từ kiến trúc chữ nhị thành kiến trúc chữ tam mở thêm sân lớn xây dựng tấc môn tường hoa trụ biểu tả môn, hữu môn như hiện trạng di tích ngày nay.
Đặc biệt, trong hậu cung nơi thờ Đức vua Lý Nam Đế và hoàng Hậu Đỗ Thị Khương có một bức tranh tái bản từ bức tranh cổ trước đó. Đây là một trong những bức tranh sơn mài thế kỷ XIX lớn và đẹp ở tỉnh Thái Bình. Tranh rộng 0,9m, dài 2m, vóc bằng gỗ sơn mài, nét vẽ bằng sơn ta, dùng 4 màu chủ đạo: vàng, đỏ, xám đen, xanh. Đề tài thể hiện vua Lý Nam Đế và hoàng hậu Đỗ Thị Khương giống như các tranh thờ có cùng niên đại.
Thông tin với PV VTC News, ông Đỗ Văn Mạnh - Công chức văn hóa xã Xuân Hòa, Phó ban thường trực Ban quản lý di tích Miếu Hai Thôn cho biết, sau 5 tháng thi công trùng tu, tôn tạo 6 hạng mục công trình, đến nay Miếu Hai Thôn đã có diện mạo mới theo đúng hồ sơ dự án đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt, đặc biệt là hệ mái của ngôi miếu.
Hệ mái ngói thay lại 90% ngói mới của 2 tòa tiền tế và trung tế. Ngói mới được làm giống nguyên mẫu ngói cũ tại di tích từ thời Lê. Hậu cung được lợp bằng ngói cũ thời Lê.
Toàn bộ hoành rui cung tiền tế và trung tế được thay mới bằng gỗ lim. Rui của hậu cung cũng được thay lại toàn bộ bằng gỗ lim.
Nền của 3 cung tiền tế, trung tế và hậu cung, toàn bộ sân trước cung tiền tế và sân trước cửa nghi môn được thay bằng gạch Bát Tràng mới, kích thước 30 x 30cm.
Trước thềm của 3 cung được bó lại bằng đá xanh, kết nối 3 cung ra vào và tạo thành hệ thống thoát nước mưa từ mái chảy xuống được thu gom vào hồ tích thủy phía sau bên phải ngôi miếu.
Một số mảng chạm khắc hoa văn, linh vật đỡ mái từ thời Lê vẫn được giữ nguyên hiện trạng.
Tấm bình phong phía trước hậu cung thờ vua Lý Nam Đế và hoàng hậu Đỗ Thị Khương được chạm khắc các họa tiết, hoa văn, linh vật sơn son thếp vàng từ thời Lê vẫn còn giữ được nguyên vẹn đến ngày nay.
Khám thờ gian trung tế là một tác phẩm nghệ thuật độc đáo chứa đựng giá trị lịch sử, văn hóa, mỹ thuật và kỹ thuật chạm khắc trên loại hình đồ thờ làm bằng gỗ thời Lê Trung Hưng, thế kỷ XVII.
Hai bên là 2 chiếc mũ đồng đặt trên ngai thờ được giữ gìn, bảo vệ cẩn mật.
Đặc biệt, ngôi miếu có ngai thờ gỗ sơn son thếp vàng. Ngai thờ có niên đại từ thế kỷ XVII, được sưu tầm về Bảo tàng Thái Bình vào trước những năm 1999.
Sau 5 tháng trùng tu, Miếu Hai thôn đã mang diện mạo mới để nhân dân địa phương và khách thập phương đến dâng hương, chiêm bái, tri ân công đức của Nhà vua và Hoàng hậu đã có công lập nên Nhà nước Vạn Xuân. Nguồn kinh phí trùng tu lần này do chủ một tập đoàn lớn là người con quê hương Thái Bình công đức với số tiền hàng tỷ đồng.
Hưng Yên 3438 lượt xem
Ngày cập nhật : 01/01/2024
Nằm giáp con sông Hồng quanh năm đỏ nặng phù sa, thuộc thành phố Hưng Yên, văn miếu Xích Đằng hay còn gọi là văn miếu Hưng Yên, là một di tích quan trọng trong quần thể cụm di tích Phố Hiến. Văn miếu được xây dựng vào năm 1832, trải qua gần 400 năm tồn tại và ghi danh 161 vị đỗ đại khoa của trấn Sơn Nam thượng, văn miếu đã trở thành một biểu tượng về truyền thống hiếu học của người dân mảnh đất “Nhất kinh kì, nhì Phố Hiến”. Dù nằm trong khu dân cư, nhưng đi ngay trên cầu Yên Lệnh, thuộc quốc lộ 38 nối Hà Nam với Hưng Yên có thể quan sát được văn miếu Xích Đằng từ hai cây gạo đã có hàng trăm năm tuổi được trồng trước cổng. Nằm trên đường dẫn vào còn có tượng hai con nghê đá lớn được tạc từ thế kỷ XVIII. Tam quan hay còn gọi là cổng nghi môn là một trong những công trình còn giữ được những nét kiến trúc độc đáo trong các văn miếu còn lại ở Việt Nam. Được dựng theo lối kiến trúc chồng diêm, hai tầng tám mái có lầu gác. Hai bên Tam quan có hai bục loa, dùng để xướng danh sĩ tử và thông báo những quy định trong các kỳ thi hương. Thay vì lầu trống như ở các văn miếu Quốc tử giám, văn miếu Mao Điền, ở văn miếu Xích Đằng lầu trống được thay vào bằng lầu chuông. Tiếng chuông và tiếng khánh vang lên chính là lúc báo hiệu giờ thi đã bắt đầu và kết thúc, đồng thời nó cũng là tiếng cầu thỉnh tỏ lòng biết ơn, tri ân với những bậc hiền nho trong mỗi dịp lễ hội. Hai chiếc chuông và khánh của văn miếu cũng là những di vật cổ được đúc và tạo dựng từ thế kỷ XVIII. Phía trong cổng có sân rộng, ở giữa sân là đường thập đạo, hai bên sân có lầu chuông và lầu khánh cùng 2 dãy tả vu, hữu vu. Hai dãy này hiện nay được dùng để trưng bày các hình ảnh và hiện vật liên quan đến giáo dục của tỉnh Hưng Yên. Văn miếu Xích Đằng kết cấu theo kiểu chữ Tam: gồm Tiền tế, Trung từ và Hậu cung. Hệ thống mái được kết cấu theo kiểu “trùng thiềm địa ốc”, mặt chính quay về hướng Nam. Bên trong khu nội tự tỏa sáng với hệ thống các đại tự, cấu đối, cửa võng và một hệ thống các trụ, kèo được sơn son thếp vàng phủ kim hoàn toàn. Hiện vật quý giá nhất trong văn miếu còn lưu giữ được đến ngày nay đó chính là 9 tấm bia đá khắc tên tuổi, quê quán, chức vụ của 161 vị đỗ đại khoa ở trấn Sơn Nam thượng xưa, trong đó có 138 vị ở Hưng Yên và 23 vị ở Thái Bình.
Hưng Yên 3145 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Nhắc đến Hưng Yên là nhắc đến một mảnh đất với rất nhiều địa điểm cho du khách có thể tham quan du lịch. Du lịch Hưng Yên nổi tiếng với các loại hình du lịch như du lịch văn hóa tâm linh, du lịch cộng đồng, du lịch sinh thái, du lịch làng nghề. Một số những địa điểm tham quan du lịch nổi tiếng có thể kể đến như làng Nôm, phố Nối, vườn hoa cúc chi, đền Trần,…Đặc biệt không thể không kể đến địa điểm tâm linh nổi tiếng ở mảnh đất này đó là đền thờ Chử Đồng Tử. Đền được xây dựng trên một khu đất cao hình chữ nhật, và có lịch sử khá lâu đời. Đền thờ Đức thánh Chử Đồng Tử và hai vị phu nhân Tiên Dung công chúa và Tây Sa công chúa. Nơi đây gắn liền với truyền thuyết về tình yêu và đồng thơi gắn với những chiến công lừng lẫy của dân tộc ta như cuộc chiến của Quang Phục chống lại quân Lương; Trần Nguyên Hãn, Nguyễn Trãi chống quân Minh; nhiều phong trào khởi nghĩa trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp,… Đền gồm 2 khu là đền Dạ Trạch và đền Đa Hòa, hai khu đền này cách nhau không quá xa và đều nằm ở huyện Khoái Châu. Tổng diện tích của đền là 18 720 m vuông, bao gồm 18 nóc nhà lớn nhỏ khác nhau. Hai ngôi đền này đều đã được nhà nước chứng nhận là di tích văn hóa cấp quốc gia. Ngôi đền thu hút các du khách không chỉ bởi vẻ bề ngoài cổ kính rêu phong mà những pho tượng cũng là một trong những nét nổi bật đáng chú ý tại đền. Tiêu biểu là pho tượng đức thánh Chử Đồng Tử và nhị vị phu nhân đặt ở hậu cung, tượng được đúc bằng đồng, được sơn màu, kẻ mắt rất tinh xảo, và hiện nay thì có ba pho tượng như thế được đặt tại cung Đệ Tam. Du khách có thể lựa chọn đến đây từ 10 đến 12 tháng 2 âm lịch hằng năm, để không chỉ có thể vãn cảnh ngôi đền mà còn có thể tham gia vào lễ hội Chử Đồng Tử. Lễ hội này được tổ chức nhằm ý nghĩa tưởng nhớ công ơn của đức thánh Chử Đồng Tử và công chúa Tiên Dung đã có công chữa bệnh giúp dân. Lễ hội hết sức độc đáo với nhiều hoạt động đa dạng khác nhau như rước kiệu, múa rồng, hát ca trù, những trò chơi dân gian đặc sắc,…
Hưng Yên 3044 lượt xem
Tháng 3 đến tháng 4
Đền được xây dựng trên một khu đất cao, bằng phẳng, hình chữ nhật với diện tích 18.720m². Mặt đền quay hướng chính tây, nhìn thẳng sang bãi Tự Nhiên (làng Ngự Dội, xã Tứ Dân) – nơi mà công chúa Tiên Dung, con gái vua Hùng thứ 18, gặp Chử Đồng Tử và hai người nên duyên vợ chồng. Đền được chia thành ba khu. Khu ngoài có diện tích 7.200m², không có tường bao, kiến trúc duy nhất là nhà bia 2 tầng, 8 mái cong, với cửa trổ ra 4 hướng. Trong nhà bia có bia đá với nội dung nói về thời điểm trùng tu đền Đa Hòa và cuộc nhân duyên kỳ ngộ của Chử Đồng Tử – Tiên Dung. Từ đây, theo con đường lát gạch rộng 6m với hai bên đường là hàng cây gạo cổ thụ tỏa bóng râm mát, sẽ đến cổng chính. Qua cổng chính là vào khu giữa. Khu này có diện tích 3.400m², có tường thấp bao quanh, trồng đan xen nhiều cây xanh và được chia thành hai khu: khu bên phải có lầu chuông, bên trong có quả chuông đồng cao 1,5m; khu bên trái có gác khánh, bên trong có khánh đá với chiều ngang là 1,2m; ngăn cách giữa hai khu này là con đường lát gạch dẫn từ cổng chính đến ngọ môn với ba cửa ra, vào, phía trên treo bức đại tự với bốn chữ sơn son thiếp vàng “Bồng lai cung khuyết “. Bước qua ngọ môn là vào khu trong. Với diện tích 11.520m², kiến trúc kiểu cung đình thời Nguyễn nhưng có sự kết hợp hài hòa giữa Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo, khu trong gồm: sân đại, nhà đại tế, sân chầu, tòa thiêu hương, cung đệ nhị, cung đệ tam và hậu cung. Nối liền các cung là thảo xá, thảo bạt, nhà ngựa, nhà pháo… Trong hậu cung có 3 khám thờ: Đức Thánh Chử Đồng Tử (ở giữa), Hoàng hậu Tiên Dung công chúa (bên trái), thứ phi Hồng Vân – Tây Sa (bên phải). Tổng thể công trình kiến trúc trong khu này gồm 18 ngôi nhà mái ngói cong hình 18 thuyền rồng cách điệu. Đây là kiến trúc đặc biệt nhằm tái hiện hoạt cảnh đoàn thuyền của công chúa Tiên Dung đang giăng buồm du ngoạn trên bến sông thuở nào. Ngoài kiến trúc độc đáo, đền Ða Hoà còn lưu giữ nhiều di vật quý hiếm, điển hình như: 3 cỗ ngai thờ bằng gỗ có niên đại vào cuối thế kỉ 17 và 18. Đây được coi là những cỗ ngai cổ nhất còn tìm thấy ở nước ta hiện nay; đôi lọ Bách thọ bằng gốm (một trăm chữ thọ không chữ nào giống chữ nào được khắc trên thành lọ)… Rời đền Đa Hòa, du khách sẽ đến đền Dạ Trạch (thôn Yên Vĩnh, xã Dạ Trạch), nơi gắn liền với truyền thuyết về đầm Dạ Trạch. Tương truyền, tại vị trí Chử Đồng Tử và hai người vợ là công chúa Tiên Dung và Hồng Vân “hóa” về trời vào đêm 17/11 âm lịch, đã sụt xuống thành một đầm lớn, đầm Dạ Trạch (đầm được hình thành chỉ sau một đêm). Cho là thần linh ứng, người dân địa phương đã lập đền thờ 3 vị trong khu vực đầm Dạ Trạch và đặt tên là đền Dạ Trạch hay còn gọi là đền Hóa. Đền Dạ Trạch đã được trùng tu nhiều lần, tuy nhiên, kiến trúc hiện nay là kết quả lần trùng tu vào năm 1890 với kiểu chữ Công (工), mặt hướng chính đông, ra hồ bán nguyệt, mái khắc nhiều hình long, phượng rất đẹp, gồm ba gian. Trong đó, hậu cung là gian được thiết kế đẹp nhất với mái vòm cuốn tam cấp, gợi cho du khách cảm giác như đứng trong khoang thuyền. Từ ngoài vào, bên phải, đầu tiên là ban thờ thổ công miếu đình, tượng quan võ, rồi đến ban thờ các vị thân sinh của Đức thánh Chử Đồng Tử; bên trái là ban thờ Bế ngư thuyền quan (tượng một con cá chép bằng gỗ sơn son thếp vàng óng ánh), kế đến là ban thờ Triệu Việt Vương (548 – 571). Ở chính giữa hậu cung là 3 khám thờ: Đức Thánh Chử Đồng Tử (ở giữa), Hoàng hậu Tiên Dung công chúa (bên trái), thứ phi Hồng Vân (bên phải). Tại đây còn đặt tượng thờ hai con ngựa, một tượng đỏ, một tượng trắng. Tương truyền, đó là hai con ngựa mà Đức Thánh Chử Đồng Tử và hai vị phu nhân đã cưỡi để đi chữa bệnh cho dân. Ngoài kiến trúc chính, trong khu vực đền còn có lầu chuông, bên trong đặt một chuông Dạ Trạch từ chung (chuông đền Dạ Trạch) được đúc năm Thành Thái thứ 14 (1902), dài 1,5m, rộng 0,8m; hai dãy nhà chín gian, trước kia, đây là nơi để chín chiếc kiệu; hai bia đá dựng đối diện nhau (một bia đã vỡ), được dựng năm Gia Long thứ 17 (1819), cao 1,6m, rộng 0,8m, dày 0,17m; một hồ bán nguyệt; nhiều hoành phi, câu đối ghi lại sự tích Chử Đồng Tử – Tiên Dung – Tây Sa; đặc biệt là hình ảnh chiếc nón và cây gậy – hai vật mà Đức Thánh Chử Đồng Tử đã dùng để cứu nhân độ thế. Đền Dạ Trạch đã được Nhà nước công nhận là di tích lịch sử kiến trúc nghệ thuật quốc gia năm 1989. Để ghi nhớ công ơn của Đức Thánh Chử Đồng Tử và công chúa Tiên Dung, hàng năm, người dân địa phương lại tổ chức lễ hội Chử Đồng Tử. Đây là 1 trong 16 lễ hội lớn nhất cả nước với các hoạt động văn hóa, thể thao hấp dẫn. Độc đáo nhất là lễ rước nước với sự tham gia của 10 con thuyền nối đuôi nhau ra sông Hồng lấy nước về lễ Thánh tại đền Đa Hòa và Dạ Trạch. Hoạt động này được tổ chức theo đúng phong tục xưa, diễn ra trong suốt hai tiếng đồng hồ. Trong quá trình các thuyền di chuyển, còn biểu diễn múa rồng trên thuyền.
Hưng Yên 3136 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Làng Nôm thuộc xã Đại Đồng, huyện Văn Lâm tỉnh Hưng Yên, cách thủ đô Hà Nội khoảng 20km. Năm tháng trôi qua, làng Nôm vẫn là mảnh đất được người dân Hưng Yên trân trọng, gìn giữ. Trước cuộc sống nhộn nhịp, xô bồ, thật khó có nơi nào mà người ta cảm thấy yên bình đến vậy. Những nét đẹp kiến trúc, văn hóa và con người vẫn vẹn nguyên sau hơn 2oo năm biến động. Chính bởi vẻ đẹp “bền vững” đó, du lịch làng Nôm Hưng Yên cũng được nhiều người quan tâm tới. Dời xa phố thị, tới một làng quê nhỏ, bạn sẽ thấy vừa quen và lạ. Quen như ở chính ngôi nhà mình, lạ bởi một miền đất mới. Ở làng Nôm, vẻ đẹp truyền thông dung dị như cây đa, giếng nước, mái đình vẫn được gìn giữ. Qua cánh cổng làng rêu phong, khung cảnh bên trong làng mang đặc trưng của làng quê cổ Việt Nam. Các khu nhà nhỏ nhắn đều nhuốm màu thời gian, hoạt động thường nhật của người dân diễn ra bình lặng, yên ả. Cảm giác vô cùng thoải mái, thư thả. Du lịch Hưng Yên sẽ không trọn vẹn nếu du khách chưa ghé tới làng Nôm. Ngoài việc thưởng thức các món đặc sản Hưng Yên, tới làng Nôm còn là cơ hội cho du khách tìm hiểu về văn hóa con người nơi đây. Qua các kiến trúc và các điểm đến thú vị. Bước qua cánh cổng làng, chợ Nôm là địa điểm mà bạn có được trải nghiệm về chợ quê Việt Nam hoàn hảo nhất. Chợ Nôm trước đây là khu chợ sầm uất nhất vùng Văn Lâm. Khu chợ giản dị, không bê tông cốt thép như các chợ trung tâm thành phố. Một địa điểm hấp dẫn khách tại làng Nôm đó là chùa Nôm. Ngôi chùa còn có tên khác là Linh thông cổ tự. Theo nhiều tài liệu chữ Hán, chùa được xây dựng trên một đồi thông lớn, thời Hậu Lê. Tuy nhiên, qua phân tích các bức tượng đất nung trong chùa, thì nhiều nhà khảo cổ cho rằng ngôi chùa tồn tại khoảng ngàn năm rồi. Chùa Nôm có kiến trúc Á Đông đậm nét, điển hình của chùa cổ Việt Nam. Trong chùa lưu giữ hơn 100 pho tượng đất nung, điêu khắc tinh xảo. Ngôi chùa rất linh thiêng và được người dân làng Nôm trân quý. Những ngôi nhà ở làng Nôm cũng là nơi nhiều du khách tới khám phá. Nhiều ngôi nhà có tuổi đời 200 năm, kiến trúc độc đáo. Nền văn hóa Kinh Bắc chân thực và sống động qua từng nếp nhà.
Hưng Yên 3115 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Hồ Bán Nguyệt vẫn được xem như trái tim vàng của Hưng Yên. Đây là thắng cảnh mà người dân Hưng Yên nào cũng biết tới. Hồ Bán Nguyệt Hưng Yên nằm ở trung tâm phố Hiến, nằm giáp đường Bạch Đằng, phía Đông nằm cạnh Bãi Sậy, phía Tây Nam là đê sông Hồng. Từ trung tâm thành phố chỉ cần đi khoảng 1km là tới đây. Du lịch Hưng Yên, ghé thăm hồ Bán Nguyệt, du khách sẽ được hòa mình vào khung cảnh thiên nhiên yên ả, thanh bình. Tới đây, bạn được hít hà bầu không khí trong trẻo, dường như mọi mệt mỏi, u buồn đều tan biến, chỉ còn những khoảnh khắc yên bình đúng nghĩa của nó. Hồ Bán Nguyệt Hưng Yên không chỉ mang vẻ đẹp thơ mộng mà còn nằm ngay tại vùng đất linh thiêng, nơi có nhiều đình, miếu, đền, chùa. Trong đó có hai địa điểm tâm linh nổi tiếng nằm ngay tại ven hồ được nhiều du khách ghé thăm là đền Trần và đền Mẫu. Đây là hai địa danh mang nhiều dấu ấn lịch sử, nằm in bóng bên mặt hồ Bán Nguyệt tĩnh lặng. Đúng như cái tên gọi, nhiều người đã có thể hình dung được hình dáng của mặt hồ Bán Nguyệt Hưng Yên. Nơi đây giống như một vầng trăng khuyết ấn tượng. Vẻ đẹp của hồ được hiện lên vừa dân dã mà lại cực sống động trong từng lời hát, câu thơ, trong những tác phẩm nghệ thuật. Đến với hồ Bán Nguyệt, bạn sẽ được thỏa thích tận hưởng bầu không khí bình yên, trong lành rồi đọng trong tâm hồn biết bao cảm xúc khó quên. Hồ Bán Nguyệt chứa trong mình dòng nước lững lờ trôi, không gian yên ả, tĩnh lặng tạo nên khung cảnh nhẹ nhàng, nên thơ. Ban đầu, hồ là một đoạn của sông Hồng sót lại sau khi đổi dòng. Người dân nơi đây ví hồ như mảnh gương của Hằng Nga rớt xuống. Hồ dù không thông với bất cứ đâu nhưng nước trong hồ luôn đầy ắp, trong veo. Một bên là đê sông Hồng cùng với thảm cỏ xanh mướt, một bên là phố phường nhộn nhịp. Nếu bạn đang muốn tìm về một không gian yên tĩnh, gần gũi với thiên nhiên xanh mát ở Hưng Yên thì hồ Bán Nguyệt chính là địa điểm khó có thể bỏ qua. Bao quanh hồ Bán Nguyệt là rất nhiều cây xanh, cây nào cũng vươn mình ra rủ bóng xuống mặt hồ phẳng lặng. Mỗi khi có có gió thoảng qua, các hàng cây đung đưa tạo cho người ta cảm giác mộc mạc, yên bình biết bao. Giữa hồ là cột cờ cao 10m với lá cờ đỏ sao vàng tung bay phấp phới, đây được xem là điểm nhấn đặc biệt giữa mặt hồ yên bình. Tham quan hồ Bán Nguyệt, du khách có thể nghỉ ngơi tại các ghế đá, vừa ngắm cảnh, vừa tận hưởng gió mát. Dạo quanh bờ hồ, bạn sẽ được nghe tiếng nước chảy nhè nhẹ, thả hồn vào làn gió đưa, cảnh tượng như một bản nhạc trữ tình. Trong cái nhịp sống hối hả, vội vã của cuộc sống hiện đại thì tới nơi đây, thời gian như được lắng đọng, tâm hồn như nhẹ nhõm hơn. Hồ Bán Nguyệt là nơi diễn ra rất nhiều sự kiện văn hóa, lễ hội thường niên của thành phố Hưng Yên. Vào năm 1905, tổng đốc Lê Hoan tổ chức cuộc thi vịnh Kiều tại ngay hồ với sự góp mặt của Nguyễn Khuyến và Chu Mạnh Trinh.Đến thời kỳ Pháp thuộc, người Pháp đã cho xây đắp con đường nhỏ từ cửa đền Mẫu sang điếm canh, chia đôi hồ để triển khai các hoạt động chèo thuyền giải trí. Sau Cách mạng tháng Tám thành công, con đường này bị phá bỏ để trả lại vẻ đẹp nguyên sơ cho hồ.
Hưng Yên 3841 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Grand World là một trong những địa điểm du lịch gần Hà Nội đang hot rần rần trong thời gian vừa qua. Grand World Hà Nội là tổ hợp vui chơi giải trí, ẩm thực và mua sắm đang “làm mưa làm gió" cộng đồng mê “xê dịch" trong thời gian vừa qua. Nơi đây được xây dựng theo lối kiến trúc độc đáo, ấn tượng, thu hút sự chú ý của du khách. Sức hút của Grand World Hà Nội này đến từ những góc phố lãng mạn, tái hiện lại khung cảnh nước Ý thơ mộng với dòng sông Venice hiền hoà. Bên cạnh đó, các khu phố ăn chơi mang đậm phong cách Hàn Quốc cũng làm giới trẻ “phát cuồng".
Hưng Yên 2480 lượt xem
Tháng 1 - Tháng 12
Đền thờ Bà Chúa Muối (tức đền thờ Tam phi Nguyễn Thị Nguyệt Ảnh) là vợ Ba của vua Trần Anh Tông. Phủ và đền thờ bà Chúa Muối nằm ở xã Thụy Hải, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình. Sách xưa chép lại: Bà Chúa Muối tên thật là Nguyễn Thị Nguyệt Ảnh, sinh năm 1280 tại trang Quang Lang, huyện Thụy Vân, phủ Thái Bình (nay là xã Thụy Hải, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình) trong một gia đình làm nghề muối. Từ thuở nhỏ, bà đã có tài mạo khác thường, chăm đọc sách vở và rất mực thông minh. Mỗi khi học xong Nguyệt Ảnh thường ra đồng giúp bố mẹ làm việc. Nhưng mỗi lần giúp bố mẹ thì bà đi đến đâu trời lại râm đến đấy, trong khi nghề làm muối phải có ánh nắng, nắng càng to thì muối càng đẹp. Lo lắng cho nghề truyền thống và kế sinh nhai của cư dân địa phương, những người cao tuổi trong làng đã họp nhau lại, bàn ra kế đóng cho bà một chiếc thuyền để mang muối đi buôn nơi khác. Trong một lần buôn, thuyền của bà đậu ở bến sông gần kinh thành Thăng Long, vừa hay lại đúng vào dịp vua Trần Anh Tông đi kinh lý qua sông. Cơ duyên như trời định, xiêu lòng trước vẻ đẹp của bà, vua đã đưa bà vào cung, hết mực sủng ái và cho làm Tam phi. Nhưng không may, bà không sinh được con rồi buồn phiền mà lâm bệnh. Sau đó, vua Trần Anh Tông đưa bà về quê ngoại với hy vọng có thể khiến bệnh tình của bà tiến triển tốt hơn. Thấy bà Chúa chiều nào cũng ngồi bên cửa sổ nhìn ra cánh đồng muối của làng, lũ trẻ mục đồng hò nhau lấy bồ cỏ làm người nộm vây quanh nhảy múa để bà vơi bớt nỗi buồn. Một chiều nọ, khi đang nhìn lũ trẻ nhảy múa rất vui, bà cười rồi thoát trần (ngày 14/4 năm Mậu Tuất). Nhà vua hay tin vô cùng thương xót, sắc phong cho bà làm Phúc thần và cho nhân dân lập đền thờ phụng mang tên Đền thờ Bà Chúa Muối. Qua thời gian, đền thờ đã bị hư hại và phá bỏ. Năm 1988, người dân trong vùng tạm xây lại một phủ nhỏ để thờ bà. Năm 2012, Bộ Văn Hoá Thể Thao Du Lịch đã khôi phục lại di tích này. Phủ hiện tại có 3 gian, có hậu cung và những hương án bàn thờ, tượng thờ; trong phủ có một số vật dụng đặc thù liên quan đến nghề làm muối như xe cút kít, gáo múc nước chạt, tang, cào muối trên sân phơi… đền Bà chúa Muối hiện còn lưu giữ một bức hoành phi sắc phong thời Trần và hai bộ câu đối cổ. Đền thờ là một công trình kiến trúc đặc biệt kết hợp giữa đền và chùa, tọa lạc trên mảnh đất Trang Quang Lang. Chùa quay hướng Bắc là nơi thờ Đức Phật Thích ca Mâu Ni. Đền quay hướng nam là nơi thờ thánh Mẫu Tam Phi Nguyễn Thị Nguyệt Ảnh (tức Bà Chúa Muối). Đây là một ngôi đền – chùa đẹp nhất mà trong bia đá năm 1596 có đoạn viết như sau: “Cổ tích Thái Bình hưng quốc tự, bản cổ truyền chi danh lam, bảo Nam bang chi thắng cảnh…” Nghĩa là: “Khu đền chùa Thái Bình Hưng Quốc là nơi danh lam cổ truyền, là địa danh thắng cảnh quý báu nhất dưới trời Nam…” Nguồn: Báo nông thôn Việt
Hưng Yên 3755 lượt xem
Sinh thời, dù bận trăm công ngàn việc, Bác Hồ vẫn quan tâm đến Thái Bình, Đảng bộ và nhân dân Thái Bình đã vinh dự 5 lần được đón Bác về thăm: lần thứ nhất vào ngày 10/01/1946, lần thứ 2 vào ngày 28/4/1946, lần thứ 3 vào ngày 26/10/1958, lần thứ 4 vào ngày 26/03/1962 và lần cuối cùng vào hai ngày 31/12/1966 và 01/01/1967, Bác Hồ về thưởng công 5 tấn cho Đảng bộ và nhân dân Thái Bình - là tỉnh đầu tiên ở miền Bắc đạt 5 tấn thóc/1ha. Những di tích và địa điểm ghi dấu Bác Hồ về thăm Thái Bình gồm. 1. Ủy ban hành chính tỉnh, phường Lê Hồng Phong, thị xã Thái Bình. 2. Đoạn đê Đìa, huyện Hưng Nhân. 3. Nhà Trí Thể Dục Thị xã, phường Lê Hồng Phong, thị xã Thái Bình. 4. Trụ sở Ủy ban hành chính tỉnh, phường Lê Hồng Phong, thị xã Thái Bình. 5. Công trường xây dựng nhà máy xay, phường Lê Hồng Phong, thị xã Thái Bình. 6. Sân vận động thị xã, phường Lê Hồng Phong, thị xã Thái Bình. 7. Xã Nam Cường, huyện Tiền Hải. 8. Nhà chị Lựu, Xã Nam Cường, huyện Tiền Hải. 9. Đình Nho Lâm, xã Đông Lâm, huyện Tiền Hải. 10. Nhà ông Du, xã Đông Lâm, huyện Tiền Hải. 11. Một đơn vị bộ đội, xã Đông Lâm, huyện Tiền Hải. 12. Đình Phương Cáp, xã Hiệp Hòa, huyện Thư Trì. 13. Nhà làm việc của Tỉnh ủy ở nơi sơ tán, thôn Đại Đồng, xã Tân Hòa, huyện Vũ Thư. Đêm 31/12/1966, sáng 1/1/1967, Bác Hồ đã về thăm và làm việc với Tỉnh ủy. Người nghỉ tại ngôi nhà lá thuộc thôn Đại Đồng, xã Tân Hòa, huyện Vũ Thư. Sau ngày Bác mất, Ban thường vụ Tỉnh ủy Thái Bình đã giữ lại ngôi nhà làm Khu lưu niệm Bác hồ của tỉnh. Nhà lưu niệm đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là Di tích lịch sử ngày 12 tháng 12 năm 1986. Nguồn: Cổng Thông tin điện tử Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Thái Bình
Hưng Yên 3564 lượt xem
Đền Đồng Bằng tọa lạc bên dòng sông Diêm thuộc trang Đào Động, tổng Vọng Lỗ, huyện Phụ Phượng, nay là làng Đồng Bằng, xã An Lễ, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình. Đền có tên tự là Bắc Hải Linh Từ, nơi thờ Vua cha Bát Hải Động Đình - người có công lao to lớn trong việc bình Thục giữ nước và chiêu dân lập ấp, xây dựng giang sơn xã tắc thuở sơ khai. Đền Đồng Bằng được nhân dân biết đến là một ngôi đền linh thiêng có từ thời vua Hùng Vương thứ 18. Đền có sắc phong “Tam Kỳ Linh Ứng - Vĩnh Công Đại Vương Tối Thượng Đẳng Linh Thần”. Tục truyền rằng, vào đời vua Hùng Vương thứ 18, nước ta bị giặc ngoại bang xâm lấn, triều đình phải lập đàn để triệu Linh sơn Tú khí về giúp nước dẹp giặc. Khi ấy thủy thần làng Đào Động đã hiện thân phò vua dẹp giặc và có công đầu trong việc trấn giữ tám cửa bể phía Tây. Ngài được sắc phong là “Trấn Tây An Tam Kỳ Linh Ứng - Vĩnh Công Đại Vương Tối Thượng Đẳng Linh Thần”. Kể từ đó nơi đây là chốn địa linh được nhân dân bốn phương ngưỡng vọng và lập đền thờ. Vào thế kỉ XIII, làng Đào Động còn là một trong những phòng tuyến quân sự quan trọng của nhà Trần, đây là nơi đóng quân và luyện tập thủy chiến của quân binh. Trước khi ra trận, Hưng Đạo Đại Vương cùng các tướng sĩ đều đến dâng hương cầu nguyện tại ngôi đền. Sau khi mất đi, ông được nhân dân phối thờ tại đây. Kể từ đó, đền Đồng Bằng còn là nơi tưởng niệm Hưng Đạo Vương và các tướng sĩ nhà Trần trong ba lần đại phá quân Nguyên Mông và lập nên tám trang Đào Động xưa. Không chỉ mang những giá trị lịch sử đáng trân trọng, đền Đồng Bằng còn là di tích kiến trúc nghệ thuật có giá trị như một bảo tàng mỹ thuật đồ đồng, đồ đá và đồ gỗ với diện tích nội tự là 6.000m2, gồm 13 tòa, 66 gian liên hợp chặt chẽ với nhau tạo thành quần thể ngôi đền với kết cấu theo kiểu “tiền nhị hậu đinh” khép kín, bề thế. Các mảng kiến trúc hài hòa với những nét chạm trổ tinh vi, hàng trăm hoành phi, câu đối, đại tự, cuốn thư sơn son thiếp vàng về các chủ đề tứ linh, tứ quý, các bộ lư hương, án thờ, long ngai và các công trình điêu khắc gỗ tinh xảo, tuyệt mỹ từ thời Khải Định, Bảo Đại vẫn còn được lưu giữ nguyên vẹn. Bởi những huyền tích, giá trị lịch sử, nghệ thuật mà đền Đồng Bằng được biết đến là ngôi đền linh ứng và bốn mùa hương khói. Đặc biệt, năm 1986 đền Đồng Bằng đã được Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch công nhận là Di tích Lịch sử Văn hóa cấp quốc gia. Theo tục lệ hàng năm, lễ hội đền Đồng Bằng được tổ chức kéo dài khoảng một tuần từ ngày 20/8 đến ngày 26/8 âm lịch, lễ hội thu hút đông đảo con nhang đệ tử, nhân dân và du khách gần xa. Lễ hội đền Đồng Bằng lưu giữ những nét đẹp văn hóa truyền thống, giá trị nhân văn cao đẹp, là dịp để thể hiện lòng biết ơn, truyền thống “uống nước nhớ nguồn” và sự ngưỡng vọng, tôn kính của nhân dân đối với Đức Vua cha Bát Hải Động Đình và tưởng nhớ ngày mất của Quốc Công Tiết chế Hưng Đạo Đại Vương. Nguồn: Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Thái Bình
Hưng Yên 3525 lượt xem
Đền Lưu Xá là nơi thờ phụng hai danh nhân lịch sử thời Lý (Thế kỷ XII - XIII) là Lưu Khánh Đàm và Lưu Ba. Chùa Báo Quốc là tên gọi của vua Lý đặt cho để tỏ lòng trọng vọng các quan đại thần có nhiều công lao giúp bốn triều vua Lý (Thái Tông - Thánh Tông – Nhân Tông – Thần Tông) xây dựng đất nước thịnh trị thời đó. Di tích đền Lưu Xá và chùa Báo Quốc liên quan chặt chẽ với nhau, hình thành cụm di tích vì đều chung một sự kiện lịch sử. Ngôi đền và chùa nằm gần nhau ở đầu thôn Lưu Xá – xã Canh Tân – huyện Hưng Hà – tỉnh Thái Bình. Lưu Khánh Đàm và Lưu Ba là hai anh em khác mẹ, thân phụ của các ông là cụ Lưu Ngữ - Quê ở quận Cửu Chân (nay là xã Thiệu Trung – Thiệu Hóa – Thanh Hóa). Cụ Lưu Ngữ được làm quan đời tiền Lê (Hai triều vua Lê Hoàn và Lê Long Đĩnh) cai quản vùng đất ngã ba sông này. Nhận thấy đất Lưu Xá lúc ấy sau sông trước đầm, sông nước quanh co thế “Rồng chầu hổ phục” bèn lập cung ở đó rồi lấy vợ người bản quán. Lúc đầu lấy bà Trần Thị Ngọc, bà gần 40 tuổi mà chưa có con, cụ lại lấy bà họ Phạm. Sau đó hai bà mang thai và sinh con trong cùng một ngày chỉ khác là người sinh giờ Dần, người sinh giờ Ngọ, anh là Lưu Khánh Đàm, em là Lưu Khánh Điều (Lưu Ba). Cụ Lưu Ngữ lại đưa người thân từ quê ra ở đất Lưu Xá. Khi Lý Công Uẩn lên ngôi vua, mở ra vương triều Lý, các con của Lưu Ngữ sớm được tập ấm, nhập triều. Cả hai anh em đều làm quan đồng triều. Triều Lý vừa lập, giặc từ phương nam lấn tới, Lưu Khánh Đàm được vua Lý Thái Tổ giao cùng các tướng cầm quân đánh giặc, bắt sống vua nước Chiêm là Bố Hợp đem về. Phía Nam vừa yên thì phía Bắc giặc Tống lại lăm le lấn tới. Ông đã tâu với vua: “Mong bệ hạ đừng lo, sa giá bệ hạ thân chinh đế thị uy bốn biển, ngoài cõi, thần và nghĩa đệ cùng các tướng sỹ lo đánh giặc” thời Lý 3 lần giặc Tống vào đánh chiếm nước ta đều bị quân dân ta đánh bại. Thái Tổ xét Lưu Đàm là người đánh nam dẹp bắc, lại có “thiện kế” (kế giỏi), xướng xuất việc rời đô lên phong ông làm Thái Phó khai quốc công thần, giao cho ông dạy bảo thái tử Phật Mã. Thái Tổ mất, Thái Tông lên ngôi, Lưu Khánh Đàm tâu xin vua miễn phu dịch và thuế cho dân làng Lưu Xá. Khi Thái Tông băng hà, Thánh Tông lên ngôi phong cho Lưu Khánh Đàm làm Bình Chương sự, cuối đời Lưu Khánh Đàm về Lưu Xá sửa lại chùa làng và tu ở đó. Khi ở làng, cùng với sư Giác Hải, Dương Không Lộ, Nguyễn Minh Không tổ chức cho dân “Khai thông sông Luộc”, “Móc ruộc sông Sinh”, “Đào phình sông Hóa” ở Thái Bình. Khi ông mất vua Thánh Tông về dự lễ an táng, vì ông là khai quốc công thần nên vua ban tên chùa nơi ông tu hành là “Báo Quốc Tự”, ban cho ông tước vương, ban mĩ tự là “Chính trực chiêu cảm”, lại cho xây một tháp cao 9 trượng, 9 tầng ở bên lăng của Lưu Đàm vương. Dân làng Lưu Xá cảm ơn xây đền thờ và tôn ông làm Thành Hoàng làng. Lý Nhân Tông lên ngôi ban cho ông bốn chữ đẹp “Hiển ứng linh thông”, các triều sau đều có sắc phong thần cho ông. Đền thờ ông (đền Lưu Xá) và chùa Báo Quốc đã được xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia năm 1990. Nguồn: Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thái Bình
Hưng Yên 3503 lượt xem
Khu lưu niệm đồng chí Nguyễn Đức Cảnh tọa lạc tại thị trấn Diêm Điền, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình, nơi đây ghi lại dấu ấn sâu đậm về Nguyễn Đức Cảnh, một trong 7 đảng viên đầu tiên sáng lập ra Đảng Cộng sản, một cán bộ lãnh đạo đầu tiên của Công đoàn Việt Nam. Khu lưu niệm được xây dựng trên chính mảnh đất hương hoả của 8 gia đình trong thân tộc cùng sinh sống, có diện tích rộng 1.600m². Khung cảnh nếp nhà xưa của gia đình đồng chí Nguyễn Đức Cảnh lúc sinh thời gồm: Ngôi nhà thờ Tổ (vốn là trường dạy học của ông thân sinh ra đồng chí Nguyễn Đức Cảnh), nhà ở, nhà bếp được dựng lại nguyên vẹn trên nền đất cũ. Không gian giản dị, khiêm nhường, gợi lại hình ảnh nền nếp, gia phong của một gia đình nho giáo thời xưa. Tri ân, khắc ghi công lao to lớn của Nguyễn Đức Cảnh với sự nghiệp cách mạng Việt Nam, khu lưu niệm cụ Nguyễn Đức Cảnh được đầu tư tu bổ, nâng cấp, mở rộng khang trang, xứng tầm di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia. Đây cũng chính là cái nôi đầu tiên đã hun đúc, chắp cánh cho nhân cách, tâm hồn, ý chí và hành động của người chiến sĩ cộng sản kiên trung Nguyễn Đức Cảnh. Phía sau nhà vẫn còn lưu giữ lại giếng nước, nơi này hơn 100 năm trước đã ghi dấu một thời khắc đặc biệt. Sáng mùng 1 Tết Mậu Thân (1908) (tức là ngày 02/02/1908), cụ bà Trần Thị Thùy ra mừng tuổi giếng theo phong tục rắc tiền xu xuống giếng để cuối năm khi rửa giếng, người nhặt được tiền sẽ là người may mắn, cậu bé Nguyễn Đức Cảnh được đẻ rơi tại đây. Người dân trong vùng gọi là giếng Ngọc, mặc dù ở vùng ven biển, hầu hết nước giếng đều mặn và đục nhưng riêng giếng nước này cả trăm năm nay, nước vẫn đầy ắp, ngọt và trong vắt, nhìn thấu tận đáy. Hằng ngày, khách viếng thăm khu lưu niệm vẫn ra múc nước uống, rửa mặt cho mát. Bên bờ giếng có tấm bia đá rộng khoảng 3m , trên có khắc bài thơ “Tạ từ ngôn” - thư của đồng chí Nguyễn Đức Cảnh gửi thân mẫu viết trong những ngày bị kẻ thù giam giữ trong xà lim án chém. Nguyễn Đức Cảnh bị thực dân Pháp chém đầu vào lúc sáng tinh mơ ngày 31.7.1932 tại Nhà lao Hải Phòng. Năm ấy, ông mới 24 tuổi đời, cái tuổi đang căng tràn sức sống. Trước khi chết, ông hô vang: “Đả đảo đế quốc Pháp và phong kiến!”, “Đảng Cộng sản Đông Dương muôn năm!”.Từng trang sử nơi đây đều ghi lại những dấu ấn sâu đậm về Nguyễn Đức Cảnh, một trong 7 đảng viên đầu tiên của Đảng, là một trong những người sáng lập, một lãnh tụ xuất sắc của phong trào công nhân Việt Nam. Tri ân, khắc ghi công lao to lớn của Nguyễn Đức Cảnh với sự nghiệp cách mạng Việt Nam, với quê hương Thái Bình, tại thành phố Thái Bình và huyện Thái Thụy có 2 tuyến đường mang tên Nguyễn Đức Cảnh, 2 trường học mang tên Nguyễn Đức Cảnh; tượng đài đồng chí Nguyễn Đức Cảnh được đặt uy nghiêm tại Quảng trường 14 tháng 10. Khu tưởng niệm được xây dựng trên đúng mảnh đất nơi đồng chí sinh ra và lớn lên, được gắn liền với truyền thống của một gia đình hiếu học, đức độ, yêu nước, thương dân. Đây cũng chính là nơi đầu tiên đã hun đúc, chắp cánh cho nhân cách, tâm hồn, ý chí và hành động của người chiến sĩ cộng sản kiên trung Nguyễn Đức Cảnh. Nguồn: Thông tấn xã Việt Nam
Hưng Yên 3469 lượt xem
Tọa lạc tại xã An Thái, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình, Đền A Sào là nơi thờ cúng, hương hỏa của Quốc Công Tiết chế Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn ,cùng với những lễ hội, nghi thức cổ xưa vẫn được duy trì đến ngày nay. “A Sào” có tên gọi gốc là A Cảo, một vùng đất bãi nằm ven sông Hóa, nơi được cho là hội tụ khí thiêng sông biển, lại có địa thế hiểm yếu về quân sự nên đã được triều đình nhà Trần chọn làm thái ấp của Phụng Càn Vương Trần Liễu, thân phụ của Trần Hưng Đạo. Trần Hưng Đạo đã sinh ra và trưởng thành từ vùng đất này. Năm 1258, khi triều đình nhà Trần triển khai cuộc kháng chiến chống Nguyên-Mông lần thứ nhất, Trần Quốc Tuấn lúc đó vừa tròn 18 tuổi đã được phong tước Thượng vị hầu và được triều đình giao về trấn thủ đất A Sào. Trước khi cuộc kháng chiến lần thứ hai, đích thân các vua Trần đã cùng Trần Quốc Tuấn về chỉ đạo xây dựng vùng ven sông Hóa (nay gồm các phần đất của Thái Bình và Hải Phòng) thành một phòng tuyến triển khai thế trận thủy chiến. Tại vùng đất A Sào, Trần Quốc Tuấn được triều đình giao trọng trách xây dựng một lực lượng quân sự cùng một trung tâm tích trữ binh lương với nhiều địa danh đến nay tên gọi của nó còn gắn liền với cuộc kháng chiến như: làng Mễ Thương, xã An Thái (kho gạo); làng Am Qua (kho gươm); Đại Nẫm, xã Quỳnh Thọ (kho thóc lớn); A Mễ, xã An Thái (nơi để gạo của nhà Trần)...Đặc biệt, A Sào là địa danh được mang ý nghĩa là cái ổ, cái tổ của nhà Trần. Đặc biệt, tại khu di tích A Sào hiện nay còn có Bến Tượng A Sào là nơi voi chiến của Trần Hưng Đạo bị sa lầy trên đường hành quân vượt sông Hóa tiến đánh quân của Ô Mã Nhi trên sông Bạch Đằng. Dân chúng đã mang gỗ, tre, rơm, rạ, có hào kiệt cho tháo cả nhà gỗ lim để tìm cách cứu voi chiến nhưng không kéo được voi lên. Voi nhìn chủ ứa nước mắt. Chủ tướng cũng đành nuốt nước mắt lên thuyền vượt sông để con voi ở lại vì thế trận quá khẩn trương, gấp gáp. Hưng Đạo Vương rút gươm chỉ xuống dòng sông Hóa mà thề rằng: “Nếu trận này không thắng giặc Thát, ta thề không trở lại bến sông này!”. Sau ngày toàn thắng, nhân dân đã lập đền thờ Trần Hưng Đạo gọi là Đệ nhị sinh từ hay A Sào linh miếu (đền A Sào). Một ngôi miếu thờ tượng voi tạc bằng đá cũng được dựng lên ven bến sông. Trong khuôn viên của đền có hồ Tắm Tượng (hồ để voi tắm), có gò Đống Yên (nơi để yên ngựa của quân lính), Trại binh (nơi ở của quân lính) và nhiều linh khí khác. Hằng năm, vào ngày 10 tháng 2 âm lịch, tương truyền là ngày sinh của Hưng Đạo Vương, để ghi nhớ công ơn của Hưng Đạo Vương, dân làng A Sào đều mở hội tế lễ Đức Thánh Trần tại Đệ nhị sinh từ và lễ hội làng A Sào là một trong những lễ hội lớn nhất vùng. Theo lệ xưa, mọi nghi thức trong lễ hội này đều theo nghi thức quốc gia, triều đình thường cử các quan về hành tế và thường có bánh giày để cúng tế. Năm 1951, giặc Pháp đóng đồn ở đền A Sào, chúng đã phá hủy nhiều đồ thờ, dùng xe kéo voi đá từ bến sông về bốt để làm ụ súng và bắn gẫy vòi tượng voi đá. Qua nhiều thăng trầm, Đệ nhị sinh từ đã bị phá bỏ, chỉ còn là bãi đất hoang và tượng voi đá nằm trên nền đền cũ giữa cánh đồng A Sào. Qua nhiều cuộc hội thảo, nghiên cứu, năm 2005, một ngôi đền mới đã được phục dựng tại nền cũ của “Đệ nhị sinh từ”. Ngày 14-4-2011, Khu di tích được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cấp Bằng công nhận Di tích lịch sử cấp Quốc gia. Cũng trong năm 2011, di tích miếu thờ, tượng voi đá tại Bến Tượng đã được phục dựng cùng với các địa danh như hồ Tắm Tượng, gò Đống Yên... Cũng từ năm 2012, lễ hội đền A Sào sẽ được tổ chức thường niên vào ngày 10-2 âm lịch hằng năm với nhiều hoạt động văn hóa nghệ thuật gắn với các nghi lễ văn hóa truyền thống và các trò chơi dân gian đặc sắc như thi pháo đất, đấu vật, cờ tướng, bơi chải, màn múa kéo chữ... Nhân dân địa phương và du khách thập phương cứ đến ngày lễ hội là nô nức, hân hoan tham dự vì muốn lưu giữ và gây dựng nét đẹp văn hóa truyền thống. Tham gia lễ hội, du khách thập phương được sống với lòng tự hào dân tộc, tái hiện lại một thời kì hào hùng trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Nguồn: Đài Phát Thanh Và Truyền Hình Thái Bình
Hưng Yên 3405 lượt xem