Khám phá lịch sử, văn hóa, con người và cảnh đẹp Việt Nam trên ứng dụng du lịch Travelviet
Tải ứng dụng Travelviet
Hà Nam - một vùng đất giàu truyền thống văn hóa và lịch sử, sở hữu nhiều di tích lịch sử đáng chú ý. Mỗi di tích không chỉ là công trình kiến trúc mà còn là những chứng nhân sống động của các sự kiện lịch sử, phản ánh sự phát triển và bản sắc văn hóa của nơi đây. Trong bài viết này, 63Stravel sẽ cùng khám phá những di tích lịch sử ở Hà Nam mọi người có thể tham khảo.
Lưu ngay list các di tích lịch sử ở Hà Nam dưới đây để khám phá và trải nghiệm những giá trị văn hóa, lịch sử hào hùng của dân tộc.
Chùa Đọi Sơn là một trong những điểm đến tâm linh nổi bật tại Hà Nam, chỉ cách Hà Nội khoảng 50km về phía Nam. Với lịch sử hơn 1.000 năm, ngôi chùa tọa lạc trên núi Đọi, mang dáng vẻ như một con rồng lớn hướng về kinh thành Thăng Long. Còn được biết đến với tên gọi Diên Linh tự hay chùa Long Đọi Sơn, chùa sở hữu diện tích rộng lớn, tựa lưng vào núi Điệp và được bao quanh bởi ba dòng sông.
Long Đọi Sơn – Khám phá vẻ đẹp ngôi chùa cổ gần 1000 năm tuổi ở Hà Nam
Để đến chùa, du khách sẽ phải vượt gần 400 bậc đá, giữa bóng cây mát rượi, tạo nên một hành trình tâm linh yên bình. Chùa không chỉ là nơi hành hương mà còn là địa điểm tổ chức nhiều lễ hội văn hóa đặc sắc như lễ hội Tịch điền Đọi Sơn, đã được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.
Kiến trúc chùa Đọi Sơn ấn tượng với các công trình như chính điện, tòa Tam Quan và bàn cờ người. Bước qua cổng tam quan, bạn sẽ thấy tấm bia Sùng Thiện Diên Linh, ghi lại công lao của vua Lý Nhân Tông trong việc xây dựng chùa. Không gian linh thiêng của chùa còn được tô điểm bằng tòa Tam Bảo, nơi thờ các vị Phật và nhân vật lịch sử quan trọng.
Giá vé: 30.000 VNĐ/ người
Chùa Bà Đanh, hay còn gọi là Bảo Sơn Tự, từ lâu đã trở thành biểu tượng của câu ngạn ngữ "vắng như chùa Bà Đanh," thu hút sự tò mò của nhiều người. Ngôi chùa này được xây dựng từ thế kỷ VII, tọa lạc tại Hà Nam và đã trải qua một cuộc trùng tu lớn dưới triều Lê Thánh Tông, mang lại vẻ khang trang như hiện nay.
Chùa thờ bà Man Nương, vị thần mang lại mưa thuận gió hòa và mùa màng bội thu, cùng với nhiều vị Phật và Bồ Tát, thể hiện truyền thống phái Đại Thừa. Ngoài ra, chùa còn lưu giữ các bức tượng liên quan đến Đạo giáo, tạo nên sự đa dạng trong tín ngưỡng.
Chùa Bà Đanh – kiến trúc cổ kính đẹp nhất ở Hà Nam
Không chỉ là nơi tôn thờ, chùa Bà Đanh còn có vai trò quan trọng trong lịch sử cách mạng, từng là căn cứ địa của quân du kích từ năm 1946 đến 1950. Năm 2004, chùa được công nhận là Di tích lịch sử cấp Quốc gia, và đã được nâng cấp vào năm 2007, trở thành điểm đến hấp dẫn cho du khách.
Chùa trải dài trên diện tích 10ha, với cổng tam quan ấn tượng được xây cao năm bậc và kiến trúc ba gian hai tầng. Khuôn viên thoáng đãng, cây cối xanh tươi cùng dòng sông Đáy hiền hòa tạo nên bầu không khí bình yên cho mọi người đến vãn cảnh.
Chùa Cây Thị - một viên ngọc quý giữa lòng Hà Nam, đã khoác lên mình vẻ đẹp lộng lẫy từ năm 2020. Tọa lạc tại thôn Chè Trình, xã Thanh Tâm, huyện Thanh Liêm, ngôi chùa này không chỉ là điểm đến tâm linh mà còn là chốn dừng chân lý tưởng để bạn tìm về sự bình yên trong cuộc sống ồn ào.
Chỉ cách Hà Nội khoảng 60km, bạn dễ dàng đến chùa Cây Thị chỉ sau 2 giờ lái xe. Tại đây, bên cạnh việc chiêm ngưỡng vẻ đẹp kiến trúc độc đáo, bạn còn có cơ hội khám phá nhiều điểm du lịch hấp dẫn khác như chùa Tam Chúc, nhà Bá Kiến và thưởng thức món cá kho nổi tiếng.
Chùa Cây Thị - ngôi chùa cổ linh thiêng, không gian yên bình
Chùa mở cửa miễn phí suốt cả ngày, đặc biệt vào buổi sáng sớm, bạn sẽ có dịp chứng kiến các vị sư tu tập thiền định, mang lại trải nghiệm tâm linh sâu sắc. Tên gọi chùa Cây Thị xuất phát từ cây thị cổ thụ hàng trăm năm tuổi bên cạnh, gợi nhớ vẻ đẹp của chùa Địa Tạng Phi Lai Tự.
Kiến trúc chùa là sự giao thoa tinh tế giữa phong cách Nhật Bản và Việt Nam, nằm giữa không gian thiên nhiên tĩnh lặng, bên cạnh lăng mộ Thượng thư Trương Công Giai và đền thờ liệt sĩ Núi Chùa. Xung quanh chùa được bao phủ bởi cỏ Nhật và cây tùng, cùng sân trải sỏi trắng, tạo nên một khung cảnh hữu tình, giúp bạn quên đi những lo âu thường nhật.
Chùa Cây Thị không chỉ là điểm đến tâm linh mà còn là nơi lý tưởng để tái tạo năng lượng cho tâm hồn. Hãy đến và trải nghiệm sự bình yên tuyệt vời nơi đây! Mỗi chi tiết tại chùa đều được chăm sóc cẩn thận, từ lối đi lát đá xanh đến những cây bonsai tinh tế, mang lại cảm giác thanh tịnh và trầm mặc cho du khách.
Đình Lũng Xuyên còn gọi là Đình Gạo, tọa lạc tại thôn Lũng Xuyên, xã Yên Bắc, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam. Nằm trên khu đất cao ở đầu làng, gần trục đường giao thông liên xã, đình hướng về phía nam, trước mặt là cánh đồng lúa xanh mát, tạo không gian thoáng đãng.
Đình được xây dựng theo kiểu chữ đinh với tiền đường 5 gian và hậu cung 3 gian, mái lợp ngói nam. Nghệ thuật chạm khắc tại đây rất tinh xảo, với các đề tài như long cuốn thủy, tùng lộc và những mẫu long giao tử, mang đậm giá trị văn hóa.
Năm 1927, đình là nơi diễn ra cuộc họp thành lập chi bộ Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí hội đầu tiên của tỉnh Hà Nam. Đến tháng 11-1929, chi bộ Đông Dương Cộng sản Đảng cũng được thành lập tại đây.
Trong thời kỳ kháng chiến, đình Lũng Xuyên đã trở thành căn cứ cách mạng quan trọng. Nơi đây diễn ra nhiều sự kiện lịch sử, như cuộc họp khởi nghĩa giành chính quyền vào tháng 8-1945, nơi 3 tiểu đội vũ trang tuyên thệ trước cờ Tổ quốc.
Nhà lưu niệm đồng chí Nguyễn Hữu Tiến được xây dựng trên nền nhà cũ, hiện là nơi tưởng niệm và đón tiếp du khách. Đình Lũng Xuyên cùng với nhà lưu niệm không chỉ là di tích lịch sử mà còn là điểm đến tâm linh, góp phần giáo dục truyền thống cách mạng cho thế hệ trẻ và là điểm du lịch ý nghĩa của huyện Duy Tiên và tỉnh Hà Nam.
Đền Trần Thương (hay còn gọi là Đền Trần) là nơi thờ Đức Thánh Trần Hưng Đạo, tọa lạc trên vùng đất từng được Ngài dùng làm kho lương trong cuộc kháng chiến chống Nguyên – Mông lần thứ hai. Đền nằm bên bờ sông Hồng, trong khung cảnh thanh bình với giếng ngọc nơi an nghỉ của Trần Hưng Đạo.
Với vẻ đẹp nguyên sơ, Đền Trần Thương là niềm tự hào của dân tộc, nổi tiếng với câu ca “Cá Nhân Đạo, gạo Trần Thương”. Nơi đây từng là trung tâm của 6 khe nước, liên kết giữa sông Hồng và biển Đông, và là địa điểm lưu trữ lương thực quan trọng.
Đền Trần Thương - ngôi đền thiêng hơn 7 thế kỷ ở đất Hà Nam
Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư khi qua đời, Trần Hưng Đạo dặn dò con cháu phải hỏa táng và chôn cất bí mật. Ngày nay, đền không chỉ thờ phụng Ngài mà còn lưu giữ nhiều hiện vật quý giá, thể hiện giá trị nghệ thuật và lịch sử.
Đền Trần Thương có kiến trúc đẹp như một thiếu nữ bên bờ sông, với hình dáng “hình nhân bái phượng”. Từ cổng Nghi Môn, du khách sẽ đi qua hàng cây cổ thụ, lối đi được lát đá đẹp mắt. Đền chính bao gồm các gian như Cổ lâu, Tiền tế, Trung điện và Hậu cung, với tổng thể ấn tượng và nhiều giếng nước.
Giếng Hồ Khẩu rộng 6,39m, sâu 2,9m, là nơi kết nối giữa Tiền tế và Trung điện, tạo không gian huyền bí cho các hoạt động cúng bái. Hậu cung chỉ mở vào các ngày lễ, còn nhà thờ Mẫu nằm tách biệt, mang đến sự tôn nghiêm cho di tích lịch sử này. Đền Trần Thương không chỉ là nơi thờ cúng mà còn là điểm đến văn hóa quan trọng của huyện Duy Tiên và tỉnh Hà Nam.
>> Xem thêm: Danh sách 10 di tích lịch sử tại Thái Bình cổ kính nhất
Đình Làng Dâu hay gọi là Đình Mỹ Đôi tọa lạc tại làng Dâu, xã An Mỹ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam, là nơi thờ ba vị thành hoàng: Ả Đào, Nguyễn Quê và Nguyễn Phương - ba chị em thời vua Lê Thái Tổ, nổi danh với những chiến công giết giặc cứu nước. Ngoài ra, đình còn thờ Bùi Công Bang và Bùi Công Minh, hai tiến sĩ thời Lê đã cống hiến cho dân nghèo bằng việc tậu ruộng cấp phát.
Kiến trúc của đình theo hình chữ Đinh, gồm 3 gian tiền đường và 3 gian hậu cung, mang vẻ đẹp truyền thống và tinh tế. Nơi đây còn lưu giữ nhiều di vật quý giá như ngai thờ, tượng thờ, và bát hương bằng đồng có từ thế kỷ XIX, chứng minh giá trị văn hóa và nghệ thuật.
Đặc biệt, Đình Mỹ Đôi không chỉ là di tích lịch sử mà còn là địa chỉ cách mạng quan trọng. Năm 1930, chi bộ Đảng Cộng sản xã Mỹ Thọ được thành lập tại đây, đánh dấu bước ngoặt trong lịch sử địa phương. Đình đã được Nhà nước xếp hạng di tích lịch sử văn hóa vào năm 1998, khẳng định vị trí của nó trong tâm thức cộng đồng.
Đền Lảnh Giang, còn được gọi thân thuộc là đền Lảnh, là một điểm đến tâm linh nổi tiếng với bề dày lịch sử, nơi thờ phụng Tam vị danh thần họ Phạm thời Hùng Vương thứ 18, Quan Lớn Đệ Tam, cùng Tiên Dung công chúa và Chử Đồng Tử. Ba vị danh thần này là những vị tướng kiệt xuất đã có công lớn trong việc đánh giặc Thục, bảo vệ đất nước, đồng thời còn là những người con của Bát Hải Long Vương và nàng Quý. Không chỉ giúp vua Hùng trong việc chống lại quân xâm lược Thục Phán, các ngài còn trợ giúp vợ chồng Tiên Dung công chúa trong hành trình cuộc đời.
Sau khi đất nước yên bình, các vị danh thần tiếp tục dốc sức vào việc phát triển sản xuất, mang lại cuộc sống sung túc cho dân chúng. Theo truyền thuyết, Quan Đệ Tam hy sinh trong một trận chiến khốc liệt, xác ông bị chia làm đôi và phần thân trôi dạt về thôn Yên Lạc, nơi người dân lập đền thờ Lảnh Giang để tưởng nhớ công lao của ông. Đền Lảnh Giang không chỉ là một công trình kiến trúc hoành tráng, uy linh, mà còn lưu giữ nhiều cổ vật thờ cúng có giá trị nghệ thuật cao. Ngày 5/11/1996, đền được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là Di tích lịch sử văn hóa quốc gia, khẳng định vị thế của một điểm đến văn hóa quan trọng.
Đền Lảnh Giang - Nơi các điển tích tâm linh được lưu giữ
Kiến trúc của đền Lảnh Giang nổi bật với ba tòa nhà chính, bao gồm 14 gian lớn nhỏ được xây dựng theo hình chữ Công, tạo nên một không gian rộng rãi trong khuôn viên lên đến 3.000m². Dù không có đồi núi nhưng khu vực quanh đền được bao bọc bởi cảnh sắc xanh mát của những cây nhãn, đầm sen, và bến nước, gợi lên hình ảnh đậm nét của một miền đất địa linh nhân kiệt.
Hai bên đền là nhà khách, tạo nên sự đối xứng hài hòa với cảnh quan xung quanh. Tòa Trung đường đặc biệt thu hút sự chú ý với lối kiến trúc chồng diêm hai tầng, tám mái cong mềm mại.
Nét tài hoa của các nghệ nhân thời xưa được thể hiện rõ ràng qua từng chi tiết chạm khắc tinh xảo trên các cột, cửa với hình tượng tứ linh: Long, Lân, Quy, Phụng, vừa trang nghiêm cổ kính lại đầy sức sống. Cửa đền hướng ra sông Nhị Hà (sông Hồng), với tầm nhìn thoáng đãng ra những cánh đồng lúa xanh bạt ngàn về phía tây, tạo nên khung cảnh yên bình giữa làn khói lam chiều.
Phía bắc của đền là đền thờ công chúa Ngọc Hoa, em gái Tiên Dung, trong khi phía nam giáp làng Nha Xá và đình thờ Trần Khánh Dư. Dù chưa có tài liệu khẳng định chính xác thời gian xây dựng, nhưng chữ Hán khắc trên nóc tòa đệ nhị cho thấy đền đã được trùng tu lần cuối vào năm 1944, niên hiệu Bảo Đại thứ 18.
Trong quần thể di tích đền Lảnh Giang, còn có đền Cửa Sông (còn gọi là đền Cờ) cách đó khoảng 50m về phía đông. Đây là một công trình kiến trúc đồ sộ với lối chồng diêm mái cong, mặt tiền hướng ra sông Hồng, mang đến một cảnh quan thơ mộng giữa sóng nước hữu tình.
Không xa về phía tây, vượt qua con đê là đền thờ vua Lê, nơi thờ Lê Thái Tổ Cao Hoàng đế. Đền này được lập nên để ghi dấu sự kiện vua Lê vi hành, kiểm tra quan lại địa phương trong thời gian thi hành luật lệ triều đình. Đến nay, đền vua Lê vẫn giữ được nhiều di tích đặc sắc như vườn vua, khu mâm xôi đắp rồng chầu phượng múa, và các khu vực khác chứng minh cho cuộc vi hành của vị vua anh minh.
Chùa Địa Tạng Phi Lai Tự, còn gọi là chùa Đùng hay chùa Phi Lai Địa Tạng, có lịch sử hơn 1.000 năm. Nằm trên một ngọn đồi nhỏ ở thôn Ninh Trung, chùa nổi bật với cảnh quan "Tả thanh long, Hữu bạch hổ" và nhiều cổ vật giá trị mang đậm dấu ấn Phật giáo Việt Nam.
Chùa từng được vua Trần Nghệ Tông chọn làm nơi ở ẩn và vua Tự Đức đến cầu tự. Qua nhiều thăng trầm lịch sử, đến năm 2015, chùa được Đại đức Thích Minh Quang trùng tu và đổi tên như hiện nay.
Chùa Địa Tạng Phi Lai Tự bình yên mang đậm chất thiền tại Hà Nam
Khuôn viên chùa rộng rãi, hòa quyện với thiên nhiên, có ao sen, vườn cây và các khu vực thiền định yên tĩnh. Một điểm nhấn đặc biệt là 12 vòng tròn trên nền sỏi trắng tượng trưng cho 12 nhân duyên cùng thông điệp nhẹ nhàng về cuộc đời con người.
Kiến trúc chùa kết hợp hài hòa với thiên nhiên, tiêu biểu là tòa Tam Bảo với tượng Đức Địa Tạng uy nghiêm, khu thờ 42 sư tổ và tháp Phổ Đồng trên đỉnh Phi Lai, nơi 40 đời tổ sư an nghỉ. Chùa còn là nơi lý tưởng cho những ai yêu thích đọc sách và tìm kiếm sự bình an trong tâm hồn.
Từ đường Lương Quận Công Trần Như Lân, nằm ở thôn Thượng Lang, xã Ngọc Lũ, huyện Bình Lục, Hà Nam. Được xây dựng năm 1681 bởi con cháu dòng họ Trần Như. Ngôi nhà 5 gian làm từ gỗ lim, với kiến trúc khang trang, hệ thống cửa gỗ lim và bờ nóc đắp hình kim, biểu tượng cho võ công của nhân vật được thờ.
Nơi đây còn lưu giữ nhiều đồ thờ đa dạng, sắc phong từ thời Hậu Lê và các văn bia, gia phả hơn 300 năm tuổi, giúp ích cho việc nghiên cứu lịch sử. Quận Công Trần Như Lân, sinh năm 1563, xuất thân từ một gia đình nghèo, đã trở thành một người anh hùng phò vua, giúp nước an dân, và có nhiều đóng góp cho quê hương như sửa đình, chùa, chợ, đắp đường, xây cầu.
Ông được tôn làm Phục thần làng ngay khi còn sống và sau khi qua đời, tiếp tục được tế lễ tại đình làng. Từ đường Lương Quận Công Trần Như Lân được xếp hạng Di tích Lịch sử Quốc gia năm 1995.
Khu di tích đình và chùa Cổ Viễn, thuộc xã Hưng Công, huyện Bình Lục, nằm gần sông Châu và thị trấn Bình Mỹ. Đình Cổ Viễn là công trình kiến trúc quy mô, được xây dựng theo kiểu "nội đinh, ngoại quốc" và mang đậm phong cách nghệ thuật của thế kỷ 17 và 18.
Các chi tiết kiến trúc như rồng chầu, phượng múa và các họa tiết lá hóa long đều thể hiện nét điêu khắc tinh xảo thời Hậu Lê. Đặc biệt, đình còn giữ nhiều đồ thờ có giá trị như án thư và ngai thờ thời Hậu Lê, đều được chạm trổ công phu và phủ vàng son lộng lẫy.
Đình và Chùa Cổ Viễn Xếp hạng Di tích cấp quốc gia
Chùa Cổ Viễn, tên chữ là "Linh Quang Tự," nằm sát bên đình, với kiến trúc quy mô gồm 2 tòa chính và nhiều gian thờ, mang đậm phong cách truyền thống. Theo truyền thuyết, chùa có từ thời nhà Lý. Ngoài vai trò là nơi thờ tự, đình chùa Cổ Viễn còn là căn cứ cách mạng quan trọng, từng bảo vệ cán bộ và diễn ra nhiều cuộc họp của Tỉnh ủy Hà Nam trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, góp phần vào công cuộc giành độc lập dân tộc.
Từ đường Nguyễn Khuyến nằm tại thôn Vị Hạ, xã Trung Lương, huyện Bình Lục, Hà Nam, cách trung tâm tỉnh khoảng 16km. Khu từ đường tọa lạc giữa cảnh quan thơ mộng với ao thu, ngõ trúc và vườn Bùi, tạo nên khung cảnh làng quê yên bình của Bắc Bộ. Đây là nơi thờ phụng nhà thơ Nguyễn Khuyến – “Tam nguyên Yên Đổ,” và lưu giữ nhiều kỷ vật như tác phẩm, hoành phi, câu đối do các danh sĩ tặng cụ.
Ngôi nhà của Nguyễn Khuyến mang đậm nét kiến trúc truyền thống với 7 gian, ngoài là đại tế, trong là hậu cung – một kiểu kiến trúc đặc biệt chỉ dành cho những người được sắc phong thần. Hai cây nhãn trước cửa và một cây bên hiên được cụ Nguyễn Khuyến trồng sau khi nhận hạt nhãn từ cung vua, thể hiện thành công của ông qua ba kỳ thi.
Du khách khi bước qua cổng chính sẽ gặp câu đối "Môn Tử Môn" - lời răn dạy về đạo làm trò, nhấn mạnh tầm quan trọng của lễ nghĩa khi vào thăm nhà thầy. Không gian bên trong giản dị nhưng trang nghiêm, trưng bày những nghiên bút, sắc phong, cùng tấm biển “Ân tứ vinh quy” và “Nhị giáp tiến sĩ” do Vua Tự Đức ban tặng.
Khu từ đường được xây dựng theo lối "lưỡng long chầu nguyệt" với 9 bậc, tuy nhiên thay vì đặt trên nóc, cụ Nguyễn Khuyến đã bố trí dưới đất – một cử chỉ mang hàm ý phản kháng nhà Nguyễn. Tại đây còn lưu giữ bộ triều phục và tượng cụ Nguyễn Khuyến chống gậy trúc, biểu tượng cho trí tuệ và phong thái điềm đạm của cụ.
Từ đường Nguyễn Khuyến đã được xếp hạng Di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia và hiện nay là điểm du lịch thu hút nhiều du khách. Không chỉ bởi giá trị lịch sử mà còn bởi khung cảnh yên bình, gắn liền với hình ảnh thơ mộng trong các tác phẩm của cụ.
Chùa Phật Quang, ban đầu chỉ là ngôi chùa nhỏ gần trăm năm tuổi nằm tại thôn Dư Nhân, được xây dựng để phục vụ nhu cầu thờ cúng và chiêm bái của người dân trong vùng. Qua thời gian, ngôi chùa đã xuống cấp, nhưng nhờ Đại Đức Thích Thiên Ân, chùa được trùng tu từ năm 2015, mở rộng trên khuôn viên rộng hơn 6.000 m². Nhiều công trình kiến trúc lớn như giảng đường, hồ cá, lầu trà, nhà Tổ và Tam Bảo đã được xây dựng, mang đến diện mạo khang trang, bề thế như ngày nay.
Chùa Phật Quang Hà Nam - Địa điểm du lịch tâm linh đặc sắc mới
Việc phục dựng chùa không chỉ là tâm huyết của Trụ trì Thích Thiên Ân, mà còn có sự góp sức của đông đảo Tăng ni, Phật tử trong và ngoài nước. Hòa thượng đích thân viết chữ thư pháp, vẽ tranh và trang trí cho từng góc nhỏ của chùa, tạo nên nét nghệ thuật độc đáo riêng. Du khách đến đây sẽ ấn tượng với những hòn non bộ, hồ cá trong xanh, bonsai cầu kỳ và đặc biệt là những phiến đá khắc chữ thư pháp tinh tế.
Không gian chùa thoáng đãng, yên bình, mang đến cảm giác nhẹ nhàng, giúp du khách tạm quên đi những lo toan cuộc sống. Khi đến chùa, du khách có thể ngồi nghe sư thầy giảng đạo, thưởng trà, ngắm hoa, và cho cá ăn – những trải nghiệm đầy thư thái. Ngoài ra, chùa cũng là nơi lý tưởng để chụp ảnh kỷ niệm với khung cảnh thiên nhiên hài hòa, tinh tế.
>> Tham khảo thêm: Top 9+ điểm du lịch tại Hà Nam HOT hấp dẫn du khách nhất
Đình Công Đồng An Thái, nằm tại xã Tiên Nội, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam, là một di tích lịch sử văn hóa quan trọng của địa phương. Đình được xây dựng từ thời Hậu Lê, mang đậm nét kiến trúc truyền thống với các họa tiết điêu khắc tinh xảo và bố cục hài hòa.
Đây là nơi thờ cúng Thành hoàng làng, các vị thần linh bảo trợ cho dân làng, cũng như tôn vinh những bậc tiền nhân có công dựng nước. Trải qua nhiều thế kỷ, đình An Thái vẫn giữ được vẻ uy nghiêm, trở thành điểm hội tụ tâm linh và là nơi tổ chức các lễ hội truyền thống, thu hút đông đảo du khách và người dân tham dự.
Đình Triều Hội, nằm tại xã Bồ Đề, huyện Bình Lục, Hà Nam, là nơi thờ hai vị thành hoàng làng: Cao Mang tôn thần - tướng tài nhà Trần và Trần Xuân Vinh - tiến sĩ đỗ đệ nhị giáp triều Lê Thánh Tông. Truyền thuyết kể rằng Trần Xuân Vinh sau khi đỗ tiến sĩ đã gặp nạn trên sông, được dân làng lập miếu thờ, sau này cùng phối thờ với thần Cao Mang.
Đình Triều Hội Xếp hạng Di tích cấp quốc gia
Kiến trúc đình theo kiểu chữ tam, gồm tiền đường, cung đệ nhị và chính tẩm, với những nét đặc trưng của kiến trúc đình làng Việt Nam. Đình được tu bổ nhiều lần, với lưỡng long chầu nguyệt, khung cửa bằng gỗ lim và nền lát gạch chỉ, mang vẻ đẹp cổ kính.
Đình Triều Hội không chỉ có giá trị về mặt kiến trúc mà còn là nơi diễn ra cuộc biểu tình lớn vào ngày 20/10/1930, khi nông dân trong vùng biểu tình chống lại chế độ thực dân phong kiến, ủng hộ Xô Viết Nghệ Tĩnh. Sự kiện này đã để lại dấu ấn mạnh mẽ trong phong trào cách mạng của Hà Nam, góp phần thúc đẩy phong trào đấu tranh trên toàn quốc.
Đền Lê Chân nằm tại thôn Hồng Sơn, xã Thanh Sơn, huyện Kim Bảng, Hà Nam. Mặt chính của đền hướng Nam, trước kia đối diện sông Ngân – một nhánh của sông Đáy, phía sau là đồi Ông Tượng. Truyền thống lễ hội của đền, đặc biệt là vào ngày 13 tháng 7 âm lịch, kỷ niệm ngày mất của Nữ tướng Lê Chân, vẫn luôn thu hút đông đảo du khách. Người dân từ các tỉnh lân cận đến tham dự, dâng lễ và tham gia các trò chơi như đua thuyền, leo cầu phao, đánh cờ, chọi gà.
Hiện nay, đền Lê Chân đã được xây dựng lại với quần thể gồm đền chính, phủ bóng, động Sơn trang, nhà khách và các công trình phụ trợ trên diện tích hơn 4.000m². Trước đền là bức tượng Nữ tướng Lê Chân uy nghi, hướng về căn cứ địa cũ. Đền đã trở thành điểm đến tâm linh quan trọng, kết nối với các đền thờ nữ tướng ở Quảng Ninh và Hải Phòng, thường xuyên có các hoạt động giao lưu trong dịp lễ hội.
Đặc biệt, Đội trống nữ thôn Hồng Sơn với 35 thành viên đã góp phần tái hiện không khí chiến trận, tạo nên sự sôi động cho lễ hội. Đền thờ Nữ tướng Lê Chân không chỉ mang giá trị lịch sử về cuộc kháng chiến bảo vệ đất nước mà còn là điểm du lịch tâm linh đáng chú ý, gắn liền với nỗ lực bảo tồn văn hóa và giáo dục thế hệ trẻ về truyền thống dân tộc.
Căn cứ địa Lạt Sơn - nơi Nữ tướng Lê Chân lập căn cứ và hy sinh trong cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng năm 40 sau Công nguyên, là một trong những địa danh lịch sử quan trọng của dân tộc ta. Vị trí chiến lược của căn cứ với lưng dựa vào dãy núi hình cánh cung và trước mặt là sông Ngân và sông Đáy giúp Nữ tướng Lê Chân tổ chức phòng thủ và chống lại quân Đông Hán.
Tại đây, bà đã lãnh đạo quân đội kháng cự trong nhiều trận chiến ác liệt, đặc biệt là trận chiến cuối cùng tại thung Đồng Loạn. Khi lực lượng suy yếu, Nữ tướng Lê Chân đã tự vẫn để không rơi vào tay giặc.
Di tích Lịch sử Căn cứ địa Lạt Sơn Xếp hạng Di tích cấp quốc gia
Ngày nay, vùng Lạt Sơn với các địa danh như Đền Lê Chân, Động Thánh Chân và núi Giát Dâu được ghi nhận là những di tích lịch sử, nơi tưởng nhớ công lao của bà. Đền thờ Nữ tướng được người dân lập trên đồi Ông Tượng, gần nơi bà hy sinh. Năm 2023, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã công nhận khu căn cứ địa này là Di tích cấp quốc gia, ghi dấu những giá trị văn hóa, lịch sử của vùng đất Lạt Sơn trong truyền thống dựng nước và giữ nước của dân tộc.
Trên đây là tổng hợp 16 di tích lịch sử ở Hà Nam nổi tiếng cho mọi người tham khảo và đến khám phá. Mong rằng, các thông tin trên sẽ có ích và giúp bạn có chuyến khám phá các di tích lịch sử thật trọn vẹn.
Ninh Bình 5215 lượt xem
Ngày cập nhật : 02/10/2024
Tam Cốc – Bích Động thường được biết đến với những cảnh đẹp nên thơ, thanh bình nhưng không kém phần mỹ miều, làm say đắm lòng người – nơi được ưu ái bằng những cái tên đầy ví von “Nam thiên đệ nhị động” hay “Vịnh Hạ Long trên cạn.” Sẽ thật là một thiếu sót nếu bạn không dành thời gian du lịch Tam Cốc – Bích Động Ninh Bình, bởi đây là một điểm đến tuyệt vời. Phải nói Tam Cốc – Bích Động mùa nào cũng đẹp, mỗi mùa mang một vẻ đẹp riêng. Nhưng nếu bạn muốn chiêm ngưỡng những cánh đồng lúa xanh mơn mởn, tràn trề sức sống trải dài trên dòng sống uốn lượn như một dải lụa mềm mại, mang đến cho bạn cảm giác trong veo, tươi mới, đắm chìm trong hương vị của đất trời, của sông nước, của thiên nhiên thì dịp sau Tết vào độ tháng 1, tháng 2 là thời điểm thích hợp. Còn nếu bạn muốn chiêm ngưỡng một bức tranh tuyệt đẹp của tạo hóa với những nét chấm phá xen lẫn của màu vàng lúa chín, hòa quyện với màu xanh núi rừng và xa xa điểm xuyến bằng những con thuyền nhẹ trôi vô cùng thơ mộng thì tầm cuối tháng 5, đầu tháng 6 – khi mùa hạ đã về là dịp thích hợp để thưởng thức vẻ đẹp của Tam Cốc – Bích Động. Một kinh nghiệm du lịch Tam Cốc – Bích Động đó là bạn có thể đi rồi về trong ngày, để tiết kiệm thời gian – hãy xuất phát từ sáng sớm vừa được hít hà không khí ban mai, vừa có một chuyến đi trọn vẹn vì Tam Cốc – Bích Động chỉ cách trung tâm Hà Nội tầm 110km, cũng chính vì vậy hành lý bạn mang theo chỉ cần một vài đồ dùng đơn giản như áo khoác mỏng phòng khi vào đi thuyền vào hang nhiệt độ thấp cùng với hơi nước sẽ gây cảm giác lành lạnh. Bạn cũng có thể mang thêm ô để dùng trong lúc ngồi thuyền trên sông. Thêm nữa, tốt nhất bạn nên mang giày bệt để thuận tiện cho quá trình di chuyển và tham quan thoải mái. Ngoài ra bạn có thể mang thêm chút đồ ăn nhẹ để dùng khi đói. Có hai lựa chọn cho bạn, một là bạn tự túc di chuyển bằng phương tiện cá nhân như ô tô hay xe máy để chủ động trong suốt quá trình du lịch Tam Cốc – Bích Động, hoặc nếu bạn đi nhóm đông người và muốn có cơ hội vừa tham quan vừa tản bộ thì có thể đón xe đi Ninh Bình từ bến xe Giáp Bát, Mỹ Đình. Để chuyến đi thuận lợi thì các bạn nên thống nhất trước phương tiện, thời gian di chuyển cũng như tôn trọng sự đúng giờ. Để chiêm ngưỡng và hòa mình vào vẻ đẹp Tam Cốc Bích Động, bạn chỉ có một lựa chọn duy nhất là đi thuyền. Và nếu bạn là một người ưa chụp ảnh, mong muốn lưu giữ lại những khoảnh khắc đáng nhớ, những khung cảnh nên thơ thì hãy trao đổi và nhờ sự giúp đỡ của những người lái thuyền. Kinh nghiệm và sự thông thạo địa hình của họ sẽ giúp bạn ghi lại những tấm hình kỉ niệm. Một lưu ý nữa là bạn nên căn thời gian để chuyến đi được trọn vẹn vì thời gian ngồi thuyền khi du lịch Tam Cốc – Bích Động cũng chiếm gần 3h đồng hồ, tránh việc phải ngồi thuyền vào giờ trưa lúc có nắng to, hay quá tối muộn khi mặt trời đã lặn. Và chắc chắn là sẽ rất tuyệt nếu bạn tìm được một chỗ ngồi lý tưởng để ngắm mặt trời lặn ở đây, ánh hoàng hôn chan hòa bao bọc cả những cánh đồng, cả những dòng sông như câu chuyện gắn bó, sẽ chia của tự nhiên với con người nơi đây. Đến với Tam Cốc – Bích Động bạn nhất định sẽ có những giây phút thư giãn tuyệt vời và đáng nhớ.
Ninh Bình 3868 lượt xem
Tháng 5 đến tháng 10
Cố đô Hoa Lư là một quần thể kiến trúc đặc sắc ở tỉnh Ninh Bình, đã được UNESCO công nhận là một trong 4 vùng lõi thuộc quần thể di sản Thế giới Tràng An. Nơi đây cũng được nhà nước xếp hạng là quần thể kiến trúc, di tích lịch sử Quốc gia đặc biệt quan trọng, cần được hết sức gìn giữ. Với bề dày lịch sử hơn 1000 năm, nơi đây đã cùng trải qua biết bao thăng trầm biến chuyển của dân tộc, là nơi lưu giữ các di tích lịch sử qua nhiều thời đại cũng như trở thành minh chứng lịch sử cho đất nước ta tự ngàn đời. Tuy nhiên cho dù đã trải qua nhiều thăng trầm của thời gian nhưng Hoa Lư vẫn còn giữ được những dấu vết lịch sử của nó. Đó là những bức tường thành vững chãi, là hai ngôi đền thờ vưa Đinh Tiên Hoàng và vua Lê Đại Hành uy nghiêm được xây dựng mô phỏng kinh đô Hoa Lư xưa. Các bạn có thể đến Hoa Lư vào bất kì thời điểm nào trong năm đều được. Tuy nhiên mùa xuân là thời điểm đẹp nhất cũng như rất nhiều lễ hội được tổ chức, thế nên đây là thời điểm thích hợp dành cho bạn nếu muốn tham gia và trải nghiệm không khí nhộn nhịp, đông đúc của những lễ hội này. Còn nếu là người thích yên tĩnh, muốn tận hưởng không gian thanh bình của nơi đây thì bạn có thể lựa chọn đi vào những ngày còn lại. Từ trong quá khứ, Hoa Lư đã là đế đô thật nguy nga, tráng lệ. Những núi đồi mọc lên trùng điệp xung quanh vòng đai kinh đô như bức tường thành vững chãi. Con sông Hoàng Long uốn khúc và cánh đồng Nho Quan, Gia Viễn mênh mông là hào sâu thiên nhiên vô cùng thuận lợi. Toàn bộ khu di tích lịch sử – văn hóa Cố đô Hoa Lư, bao gồm vùng bảo vệ đặc biệt, vùng đệm và các di tích như động Thiên Tôn, chùa Bái Đính, đều nằm trong hệ thống núi đá vôi ở trên địa bàn tỉnh Ninh Bình, trực thuộc xã Trường Yên, huyện Hoa Lư, giáp ranh giới hai huyện Gia Viễn và Hoa Lư. Nơi đây cách phía Nam thủ đô Hà Nội khoảng gần 100km. Cố đô Hoa Lư là một quần thể kiến trúc, và mỗi kiến trúc lại mang một nét riêng, tất cả làm nên vẻ cổ kính và hào hùng của di tích lịch sử thời xưa. Các dấu tích lịch sử vẫn còn lưu lại tại quần thể di tích rất đa dạng và phong phú, gồm các kiến trúc tường thành, hoàng thành, hang động, đền chùa, lăng mộ và nhiều loại công trình kiến trúc khác có giá trị lịch sử và văn hóa cao. Đặc biệt nhất, tại đây vẫn còn hai di tích là đền vua Đinh và đền vua Lê. Đây là hai di tích được xây dựng vào khoảng thế kỷ 17 với nghệ thuật điêu khắc trên gỗ đá vô cùng kì công và đặc sắc. Con đường vào đền vua Đinh dẫn du khách đi dưới tán những hàng cây phượng vĩ ven đường. Người ta gọi Hoa Lư là kinh thành đá và đền vua Đinh, vua Lê cũng sử dụng nhiều chất liệu từ đá. Ví dụ như khi bước vào sân đền, du khách sẽ thấy long sàn bằng đá tảng và hai con nghê chầu cũng được tạc bằng đá xanh nguyên khối. Vào hậu cung, du khách sẽ thấy tượng thờ vua Đinh được đúc bằng đồng đặt trên tảng đá xanh. Đền vua Lê nằm cách đền vua Đinh 50m cũng cùng chung cấu trúc như thế. Cách đền vua Lê 200 m, là chùa Nhất Trụ, được xây từ đời vua Lê Đại Hành, trước cửa chùa có cột đá, cao 4,16 m hình tám cạnh, khắc bài kinh Lăng Nghiêm do nhà vua làm để dâng nhà Phật. Nằm ngay cạnh là khu di tích gắn liền với câu chuyện của công chúa thứ ba của vua Đinh Tiên Hoàng đã nhảy xuống giếng tự vẫn chứ không theo chồng phản tặc chống lại vua cha. Ngôi đền này thờ cô công chúa ấy. Vào ngày 8/3 – 10/3 hàng năm là thời điểm diễn ra lễ hội truyền thống cố đô Hoa Lư nhằm tôn vinh các vị vua và anh hùng dân tộc đã xây dựng và phát triển nên kinh đô Hoa Lư, lập ra nhà nước Đại Cồ Việt vào thế kỉ X. Lễ hội Cố đô Hoa Lư bao gồm 2 phần: phần lễ và phần hội. Bên cạnh phần lễ thì phần hội với các trò chơi đậm nét truyền thống như đua thuyền, đấu vật, hát chèo… được diễn ra trong không khí vô cùng tưng bừng, náo nhiệt. Khi đến khu di tích này bạn cần lưu ý những điều sau. Hoa Lư Ninh Bình là địa điểm du lịch tâm linh, vì thế khi đến đây bạn cần phải ăn mặc lịch sự, kín đáo. Đến thăm đền vua Đinh, vua Lê các bạn cần phải nhẹ nhàng trật tự để giữ gìn sự tôn nghiêm cũng như thắp hương để tỏ lòng thành kính với các vị vua đã có công với nước. Cần phải tuân thủ theo sự hướng dẫn của ban quản lý di tích hoặc hướng dẫn viên nếu đi theo đoàn. Phải vứt rác đúng nơi quy định, không được xả rác bừa bãi. Nếu tự đi thì bạn nên xem trước bản đồ để thuận tiện hơn cho chuyến hành trình khám phá của mình. Các bạn có thể trực tiếp trò chuyện với các cụ trong ban quản lý di tích đền để tìm hiểu sâu hơn về lịch sử, giá trị văn hóa, kiến trúc… của khu di tích. Nếu muốn được tận mắt ngắm nghía, chiêm ngưỡng những công trình vô cùng có giá trị lịch sử cũng như giá trị kiến trúc thì hãy mau tới với cố đô Hoa Lư Ninh Bình-một công trình mang ý nghĩa lịch sử hết sức lớn láo mà thế hệ cha ông ta đã bỏ công gìn giữ và bảo tồn đến tận bây giờ. Hãy cùng về nơi đây để thăm lại cố đô xưa, sống lại với những giây phút hào hùng của lịch sử dân tộc.
Ninh Bình 4226 lượt xem
Tháng 1 đến tháng 12
Đã từ lâu, Nhà thờ đá Phát Diệm không chỉ là nơi sinh hoạt văn hóa tâm linh chung của bà con giáo dân trong vùng Kim Sơn, mà còn là công trình kiến trúc đặc sắc thu hút du khách gần xa đến tham quan, chiêm ngưỡng. Bởi đây không chỉ là một công trình kết hợp hài hoà, đặc sắc giữa nghệ thuật kiến trúc phương Đông và phương Tây mà còn là một kỳ tích của thế hệ cha ông để lại cho đời sau. Nhà thờ đá Phát Diệm được Chánh xứ Phát Diệm Phêrô Trần Lục (tức Cụ Sáu) - người được bổ nhiệm làm Chánh xứ Phát diệm vào năm 1865 cho xây dựng vào những năm cuối thế kỷ 19 sau nhiều năm nghiên cứu, hoàn chỉnh phác thảo họa đồ và tập trung tài lực, vật lực. Nhà thờ được làm bằng chất liệu chủ yếu là đá và gỗ. Trên từng phiến đá, phiến gỗ như nở hoa khoe sắc với các đường nét khắc trạm tinh xảo. Đáng chú ý nhất là nghệ thuật điêu khắc đá vô cùng mềm mại, uyển chuyển, có những mảnh đá chỉ dày 3,5cm. Cả khu kiến trúc gồm có 9 vỉ kèo với 9 giai thợ khác nhau, do vậy mỗi vỉ kèo mang một nét văn hoá riêng biệt, thể hiện khiếu thẩm mỹ phong phú của những người thợ thủ công lành nghề. Hơn nữa, nhà thờ được xây dựng toàn bằng đá mà không cần đến lõi bê tông cốt thép. Phần khó nhất của công trình này là việc xử lý nền móng. Do Kim Sơn vốn là vùng đất bãi bồi lầy lội nên Chánh xứ Phê rô Trần Lục phải cho khai thác và vận chuyển hàng ngàn tấn đá từ một quả núi ở Thanh Hóa đưa về chống lún, trong đó có những khối đá nặng đến 20 tấn. Đồng thời, cụ Lục cũng cho khai thác và vận chuyển hàng mấy trăm cây gỗ lim từ rừng núi Nghệ An về xây dựng công trình. Tuy nhiên, điều làm cho các nhà nghiên cứu văn hóa, kiến trúc sư say mê ở quần thể Nhà thờ Phát Diệm, là kiểu kiến trúc đình chùa phương Đông kết hợp hài hòa với lối kiến trúc Gôtic của phương Tây. Cụ Sáu là người đã thiết kế, sáng tạo ra nhà thờ với những chi tiết vô cùng mới lạ. Cũng có thể do cụ không phải là người theo đạo Thiên chúa mà theo đạo Phật nên trong bản thiết kế của mình, cụ đã có sự kết hợp rất tài tình giữa kiến trúc nhà thờ phương Tây và kiến trúc mái uốn cong như mái đình trong đạo phật. Tinh hoa nghệ thuật ở nhà thờ đá Phát Diệm còn thể hiện rõ sự hài hòa giữa nghệ thuật chạm khắc đá và nghệ thuật chạm khắc gỗ của Việt Nam như biểu tượng thánh giá (biểu trưng đạo Công giáo) ngự trên đài sen (biểu trưng Phật giáo), những chữ “vạn” của nhà Phật khắc trên mấy đóa hoa mân côi, các phù điêu đá, gỗ chạm khắc hình ảnh Chúa Jesus và các vị thánh; trong đó các vị thánh trang phục theo kiểu Việt nhìn thật sống động mà gần gũi, quen thuộc như xem tranh dân gian; cột đá chạm hình hoa sen biểu hiện các giai đoạn “sinh - lão - bệnh - tử” theo triết lý nhà Phật. Ấn tượng hơn nữa là Nhà thờ Trái tim Đức Mẹ được tạo dựng hoàn toàn bằng đá, cung thánh sơn son thếp vàng chói lọi với nhiều hoa văn, họa tiết chạm trổ tinh tế, công phu nhưng vẫn tạo cảm giác thật dịu dàng, yên bình bởi thiết kế bình dị và quen mắt theo nguyên lý Dịch học của phương Đông “trời tròn, đất vuông”. Nơi đây còn có một câu Kinh thánh được chạm khắc lên đá bằng Việt ngữ thời sơ khai. Có thể nói, Quần thể Nhà thờ đá Phát Diệm là sự giao thoa, sự kết hợp hài hoà, tinh tế của lối kiến trúc nhà thờ phương Tây và kiến trúc truyền thống phương Đông. Công giáo mang đức tin đến cho con người nhưng phong cách kiến trúc, không gian thờ tự mang đậm hình ảnh mái đình, ngôi chùa vốn đã ăn sâu vào tiềm thức của người Á Đông nói chung và người Việt Nam nói riêng, tạo nên sự bình an, che chở, đây cũng là biểu tượng của sự gặp gỡ giữa công giáo và truyền thống tín ngưỡng của dân tộc Việt Nam từ rất sớm.
Ninh Bình 3692 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Quần thể Di sản Văn hóa và Thiên nhiên Tràng An nằm trên địa bàn nhiều huyện của tỉnh Ninh Bình. Đây là di sản “kép” duy nhất của nước ta được UNESCO công nhận. Quần thể di sản này gồm liên khu danh thắng Tràng An - Tam Cốc - Bích Động - cố đô Hoa Lư - rừng đặc dụng Hoa Lư. Trong quần thể ấy, cố đô Hoa Lư tọa lạc ở phía Bắc; Tam Cốc - Bích Động nằm ở phía Nam; còn khu du lịch Tràng An nằm ở vị trí trung tâm. Từ trung tâm thành phố Ninh Bình, du khách chỉ cần đi thêm khoảng 8km là có thể tới đây. Mỗi mùa xuân - hạ - thu - đông, Tràng An lại khoác lên mình một tấm áo mới. Và mỗi thời điểm trong năm, du khách đều tìm thấy những điều đáng khám phá nơi đây: Mùa xuân, du khách được hòa mình vào những lệ hội đặc sắc như: Lễ hội Tràng An (giữa tháng 3 âm lịch); hội Cờ Lau (mồng 8 - 10 tháng 3 âm lịch). Mùa hè nơi đây đẹp mê hồn với đồng lúa chín vàng hay đầm sen ngát hương thơm. Mùa thu, thời tiết mát mẻ, dễ chịu, rất lý tưởng cho những hoạt động tham quan, khám phá ngoài trời. Mùa đông, Tràng An ẩn hiện trong làn sương mờ ảo tựa chốn bồng lai tiên cảnh. Đến khu du lịch Tràng An, du khách có thể viếng thăm các địa điểm văn hóa tâm linh nổi tiếng như: Đền Trình - nơi thờ phụng 4 vị công thần nhà Đinh. Đền Trần Ninh Bình: Ngôi đến được lập bởi vua Đinh Tiên Hoàng để thờ thần Quý Minh - vị thần trấn cửa ải phía nam tứ trấn Hoa Lư. Đền Tứ Trụ - nơi thơf 4 vị đại thần dưới triều Đinh có công giúp vua Đinh Tiên Hoàng dẹp loạn 12 sứ quân để dựng nên nhà nước Đại Cồ Việt. Phủ Khống - nơi thờ 7 vị quan trung thần triều Đinh. Hành cung Vũ Lâm - địa điểm check-in không ai muốn bỏ lỡ. Những hang động huyền bí: Hang Địa Linh với chiều dài gần 1500m và hệ thống nhũ đá hóa thạch. Hang Nấu Rượu với mạch nước ngầm sâu hơn 10m và hàng trăm vò rượu được chưng cất từ chính mạch nước ngầm này. Hang Bói - nơi phát lộ dấu tích của người tiền sử cách đây khoảng một vạn năm. Hang Sáng – hang Tối, hang Ba Giọt cũng là những hang động đáng để du khách tham quan. Với địa hình sông nước, thuyền là phương tiện đi lại chủ yếu ở khu du lịch Tràng An. Du khách có thể chọn đi thuyền truyền thống với 3 tuyến xuất phát từ bến thuyền gồm: Tuyến 1: Bến thuyền – Đền Trình – Hang Tối – Hang Sáng – Hang Nấu Rượu – Đền Trần – Hang Ba Giọt – Hang Seo – Hang Sơn Dương – Phủ Khống – Chùa Báo Hiếu – Hang Khống – Hang Trần – Hang Quy Hậu – trở lại bến thuyền. Tuyến 2: Bến thuyền – Hang Lấm – Hang Vạng – Hang Thánh Trượt – Đền Suối Tiên – Hang Đại – Hành Cung Vũ Lâm – trở lại bến thuyền. Tuyến 3: Bến thuyền – Đền Trình – Hang Mây – Suối Tiên – Hang Địa Linh – Hang Đại – Hành Cung Vũ Lâm – trở lại bến thuyền. Ngoài ra, khu du lịch cũng cung cấp dịch vụ chèo thuyền Kayak với 2 tuyến chính: Tuyến 1: Bến thuyền - Đền Trình - Cổng Tam Quan - Cửa hang Tối - Cửa hang Quy Hậu - Núi Ngọc. Tuyến 2: Bến thuyền - Bến Đảo Kong - Thủy Đỉnh - Hành Cung Vũ Lâm.
Ninh Bình 4029 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
1. Du lịch chùa Bái Đính thời điểm nào đẹp nhất? Từ tháng 1 đến tháng 3 âm lịch vào mùa xuân thời tiết nơi đây vô cùng ấm áp cũng là thời điểm đẹp nhất để đi Bái Đính Tràng An. Bạn có thể kết hợp du xuân vãn cảnh, lễ chùa cầu may và tham gia các lễ hội lớn ở cả Tràng An và Bái Đính. 2. Di chuyển đến chùa Bái Đính như thế nào? Bạn có thể tham khảo một số cách phổ biến để di chuyển đến chùa Bái Đính sau đây: - Đi bằng xe máy: Để hạn chế chi phí bạn có thể chủ động di chuyển bằng xe máy đến Ninh Bình. Với cách này, bạn di chuyển theo Quốc lộ 1A đến trung tâm thành phố sau đó đi theo biển chỉ dẫn để đến Bái Đính. - Đi bằng xe khách: Từ Hà Nội có thể bắt các chuyến xe khách đi Ninh Bình từ các bến xe Giáp Bát, Mỹ Đình. Giá vé khoảng tầm khoảng 70.000 – 80.000 VNĐ/ người. Dừng chân tại bến xe Ninh Bình, bạn tiếp tục bắt xe bus hoặc taxi khoảng 130.000 VNĐ/lượt để tới khu chùa Bái Đính. - Đi bằng tàu hỏa: Với cách này, bạn lên tàu từ Hà Nội và xuống ở ga Ninh Bình. Từ đây bạn có thể đi xe bus hoặc bắt taxi để đến Bái Đính. Giá vé tàu dao động khoảng 70.000 – 120.000 VNĐ/người tùy theo hạng chỗ ngồi. 3. Di chuyển tại chùa Bái Đính như thế nào? Những du khách lựa chọn đi xe điện sẽ đợi xe tại khu vực nhà chờ, sau đó di chuyển 3.5km đường nhựa để đến thẳng cổng Tam Quan Chùa Bái Đính. Giá vé xe điện từ bãi xe đến cổng Tam Quan cấp nhật mới nhất 2022 là: Giá vé xe điện chùa Bái Đính dành cho người lớn: khoảng 30.000đ/vé/lượt ⇔ khoảng 60.000đ/vé khứ hồi. Giá vé xe điện dành cho trẻ em: Dưới 1m miễn phí vé, trên 1m tính như người lớn. 4. Giá vé tham quan chùa Bái Đính. Bạn sẽ cần phải thuê dịch vụ thuê hướng dẫn viên cho chùa Bái Đính là khoảng 300.000 đồng cả chùa mới và chùa cổ là khoảng 500.000 đồng. Vé lên Bảo tháp Chùa Bái Đính là khoảng 50.000 đồng. 6. Du lịch chùa Bái Đính ăn gì? Bạn có thể tham khảo một số địa điểm ăn ngon khi du lịch chùa Bái Đính được nhiều người ghé tới dưới đây: Miến lươn bà Phấn: 999 Trần Hưng Đạo, Thanh Bình, Ninh Bình. Nhà hàng Luận Nhàn: Xóm 4, Gia Sinh, Gia Viễn, Ninh Bình. Nhà hàng Thăng Long: Tràng An, xã Trường Yên, Hoa Lư, Ninh Bình. Nhà hàng Nhà Sàn Vân Long: Xã Gia Vân, Huyện Gia Viễn, Gia Vân, Gia Viễn, Ninh Bình. 7. Lưu ý khi du lịch chùa Bái Đính Tuy chùa Bái Đính là một địa điểm du lịch hấp dẫn nhưng bạn cũng cần phải lưu ý một số vấn đề sau để có thể có một chuyến đi du lịch trọn vẹn nhất nhé: Vì trong suốt hành trình tham quan chùa các bạn sẽ đi bộ khá nhiều đấy, vì vậy bạn nên đi những đôi giày thể thao thay vì bạn đi những đôi cao gót sẽ giúp bạn di chuyển dễ dàng hơn. Nếu như muốn mua đồ lưu niệm thì hãy đợi khi xuống núi hãy mua. Vì nếu bạn mua trong khuôn viên chùa sẽ có giá "cắt cổ" đấy. Hãy mang theo vài đồng lẻ để quyên góp, cầu may mắn cho bản thân, gia đình. Nếu bạn đi dịp đầu xuân thì nên mang theo ô để đề phòng có những cơn mưa phùn nặng hạt nhé. Nguồn: https://63stravel.com/
Ninh Bình 3755 lượt xem
Vườn quốc gia Cúc Phương có diện tích là 25.000ha và cũng là rừng quốc gia đầu tiên của Việt Nam. Đặc trưng của Cúc Phương là rừng mưa nhiệt đới, xanh quanh năm cùng quần hệ động thực vật vô cùng phong phú và đa dạng. Có không ít loài động thực vật có nguy cơ tuyệt chủng cao đã được phát hiện và bảo tồn tại đây, trong đó nổi bật là loài voọc mông đen trắng được xem là biểu tượng của rừng Cúc Phương. Thời điểm thích hợp nhất để đến vườn quốc gia Cúc Phương là vào mùa khô (từ tháng 12 đến tháng 5), lúc này thời tiết trong rừng rất mát mẻ. Tránh đi vào mùa mưa bởi lúc này đường trơn cũng như có rất nhiều muỗi và vắt, sẽ làm ảnh hưởng tới những trải nghiệm khi du lịch. Đặc biệt đến với vườn quốc gia Cúc Phương vào tháng 5 là thời điểm bướm ở rừng Cúc Phương nở rộ nhất. Với số lượng cá thể có thể lên tới hàng triệu con cùng đua nhau khoe sắp ngợp trời, khiến cho nơi đây giống như một “rừng bươm bướm” tuyệt đẹp như trong chốn thần tiên. Động người xưa: Hay còn có tên là hang Đắng. Đây là nơi lưu giữ những dấu tích cư trú và mộ táng của người tiền sử, là một di sản quý của vườn Cúc Phương. Hang Con Moong: Bởi bên ngoài cửa hang có một khối đá lớn nhô ra trông giống hình con thú nên được đặt tên là hang Con Moong (hang con thú theo tiếng Mường). Đây cũng là nơi cư trú của người tối cổ, đồng thời cũng là di chỉ khảo cổ quan trọng được xếp dạng di tích quốc gia. Động Trăng Khuyết: nhìn từ xa nhìn cửa động có hình trăng khuyết, động nằm ở sâu phía trong rừng. Đỉnh Mây Bạc: Đỉnh mây bạc có độ cao 648m, từ đỉnh ta có thể ngắm nhìn bao quát toàn cảnh khu vườn quốc gia cùng với cố đô Hoa Lư và chùa Bái Đính. Tuy nhiên đường lên đỉnh Mây Bạc có nhiều dốc đá khá khó đi, thế nên nơi đây chỉ thích hợp với những người có sức khỏe tốt. Hồ Yên Quang – động Phò Mã: đi ngược ra đường Nho Quan khoảng 7km, đến cầu Tri Phương rẽ về phía Tây là đến hồ Yên Quang. Đi tiếp qua Thung lá tới chân dãy núi đá vôi là động Phò Mã. Động Phò Mã là công trình kiến trúc ảo diệu của thiên nhiên tạo hóa với vô số nhũ đá có hình thù thú vị. Những cây cổ thụ ngàn năm: rừng Cúc Phương có rất nhiều cây cổ thụ như: Cây Đăng cao 45m với đường kính 5m, cây Chò xanh ngàn năm có chu vi hơn 20 người ôm, cây sấu cổ thụ … Bản Mường: Cúc Phương cũng là nơi sinh sống của cộng đồng người Mường với nhiều nét văn hóa đặc trưng độc đáo như nhà sàn, ruộng bậc thang, khung dệt thổ cẩm… Trung tâm cứu hộ linh trưởng: Là nơi bảo tồn và nuôi dưỡng nhiều loài linh trưởng quý hiếm. Đến đây du khách sẽ không chỉ được quan sát vẻ đẹp của các loài linh trưởng mà còn được tìm hiểu nhiều hơn kiến thức về loài động vật này. Những điều cần lưu ý khi du lịch Vườn Quốc Gia Cúc Phương bao gồm: Cần chuẩn bị đầy đủ các vật dụng cần thiết như: mũ, giày đi rừng, thuốc men, băng gạc, đồ ăn thức uống…. trước khi tham Cúc Phương. Có thể mang theo ống nhòm để ngắm cảnh. Trong rừng có rất nhiều các loại muỗi vắt, vì thế có một mẹo để các bạn phòng tránh những con vật đáng ghét này là mua thuốc DEP (thuốc trị ghẻ ngứa) dạng kem bôi vào các khu vực nhạy cảm như đầu, gáy, cổ tay, cổ chân… Mùi khét của loại thuốc này chính là khắc tinh của các loài động vật trên.
Ninh Bình 3782 lượt xem
Tháng 3 đến tháng 8
Đền thờ vua Đinh Tiên Hoàng, còn có tên là đền Đinh Bộ Lĩnh, đền Văn Bòng hoặc đền Đại Hữu (lấy tên địa danh nơi ngôi đền tọa lạc), hiện thuộc thôn Văn Bòng, xã Gia Phương huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình. Tương truyền, đây chính là nơi gắn với tích sinh ra Đinh Bộ Lĩnh, người anh hùng dân tộc có công trong việc dẹp loạn 12 sứ quân thống nhất đất nước, lập nên nhà nước Đại Cồ Việt vào năm 968. Tại đây, cũng có bài vị thờ các quan trung thần là tứ trụ triều đình nhà Đinh gồm Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Trịnh Tú, Lưu Cơ. Tương truyền, vua Đinh Tiên Hoàng cùng với con trai là Đinh Liễn bị Đỗ Thích sát hại vào năm 979, theo nghi lễ triều đình đã tấn phong thuỵ hiệu, mỹ tự, lập đền thờ cúng tại quê nhà. Như vậy, đền đã được khởi lập từ xa xưa. Hiện nay phần còn lại của di tích mang phong cách kiến trúc thời Nguyễn. Những nguồn tư liệu về vua Đinh Tiên Hoàng rất nhiều, chính sử và truyền thuyết dân gian đã ghi lại và âm hưởng chung là ca ngợi sự tài giỏi, công lao to lớn của ông đối với sự nghiệp thống nhất đất nước, mở nền chính thống của nước ta sau hàng nghìn năm nô lệ. Trên mảnh đất quê hương ông hiện nay vẫn còn rất nhiều truyền thuyết, địa danh liên quan tới thời ấu thơ của Đinh Tiên Hoàng cũng như Nguyễn Bặc, Đinh Điền, những vị danh tướng cùng quê Đại Hữu với vua Đinh. Núi Kỳ Lân nằm ở đầu xã Gia Phương, cách đền gần 3km, với lăng phát tích vua Đinh, động Đại Hữu, lăng phát tích Nguyễn Bặc. Về phía tây nam của núi có một khoảng uốn lượn trông giống hình tay ngai, lưng chừng có một khu rộng tương đối bằng phẳng. Tương truyền, ông Đinh Công Trứ, thân phụ của Đinh Tiên Hoàng thấy cảnh đẹp đã mang mộ của ông nội nhà vua an táng tại ngai này, xây dựng lăng mộ, gọi là Lăng phát tích, hiện đã được tôn tạo. Cạnh Lăng phát tích có động Đại Hữu ở lưng chừng núi, trong hang có nhiều hình thù đẹp do nhũ đá tạo thành, có chỗ có hình giáng như con Kỳ Lân, nên còn gọi là động Kỳ Lân. Trước đây, theo truyền lại thì hang có đền thờ Sơn Thần, là nơi nương tựa của bà Đàm Thị và Đinh Bộ Lĩnh khi ông Đinh Công Trứ qua đời, như nhiều sách đã viết. Phía đông nam lăng phát tích vua Đinh còn có lăng phát tích Nguyễn Bặc. Lăng nằm cạnh chân núi. Ngay phía trước đền, cách khoảng hơn 200m là gò Bồ Đề, một khu đất cổ cao ráo, hình vuông, rộng gần 200m2 ở đầu xóm Văn Bòng, tương truyền đây là nền nhà cũ của Đinh Bộ Lĩnh. Ở giữa khu ruộng của thôn Văn Bòng, gần đền thờ vua Đinh Tiên Hoàng có một khoảng đất tương đối cao, rộng hàng nghìn mét vuông, có tên cổ là Đào Áo (còn gọi là xứ Đào Áo). Tương truyền nơi đây là chỗ tụ quân của Đinh Bộ Lĩnh để tập trận. Nhìn chung vùng xung quanh di tích hiện nay còn lưu lại rất nhiều địa danh, truyền thuyết liên quan tới vua Đinh Tiên Hoàng. Đây là những nguồn sử liệu quý để làm sáng tỏ thân thế và sự nghiệp của ông. Đặc biệt từ quê hương ông ở xã Gia Phương hiện nay, ngược lên Gia Hưng (Gia Viễn), sang Trường Yên (Hoa Lư), cả một chiều dài, rộng hàng chục km, vùng đất nào cũng có những địa danh, truyền thuyết liên quan tới vua Đinh Tiên Hoàng. Đền thờ được tu bổ quy mô trong những năm gần đây, nhưng vẫn bảo tồn được nét kiến trúc thời Nguyễn cổ kính, quay hướng tây có ba toà, kiến trúc theo kiểu “tiền nhất, hậu đinh”. Phía trước đền là hồ bán nguyệt. Phía trong hồ, khoảng giữa của sân được xây 2 cột đồng trụ tạo thành lối ra, vào di tích. Khu đền thờ gồm 3 toà: Tiền bái, Trung đường và Chính tẩm. Tiền bái gồm 5 gian, kiến trúc theo lối chồng rường bằng gỗ lim, tường hồi bít đốc. Toàn bộ các đầu bẩy chạm khắc hoa văn lá lật, riêng gian giữa mặt đầu bẩy chặm khắc rồng. Các con chồng ở hệ thống các vì kèo đều được chạm hoa văn lá lật. Bờ nóc Tiền bái hình lưỡng long chầu nguyệt. Trung đường tiếp giáp với Tiền bái, gồm 3 gian, kiến trúc theo kiểu mê toàn (toàn bộ hệ thống hoành nằm trên các mê kèo), phía trước có hệ thống cửa ra vào, các đều bẩy chạm hoa văn lá lật. Đặc biệt mê kèo phía đầu đốc hai bên cửa hiên có mảng chạm bong đề tài tứ linh khá tinh vi. Tòa Chính tẩm gồm 2 gian chính và 1 gian dĩ. Kiến trúc theo kiểu thượng rường hạ mê. Di tích hiện còn giữ được một số hiện vật quý như tượng thờ, ngai, khám thờ, sắc phong của các triều đại… Hàng năm, vào dịp lễ hội cố đô Hoa Lư, người thôn Văn Bòng và xã Gia Phương, cũng mở hội đền và tham gia lễ rước kiệu lửa từ quê hương vua về cố đô Hoa Lư. Với những giá trị lịch sử và văn hóa nổi bật, đền thờ vua Đinh Tiên Hoàng đã được Bộ Văn hoá Thông tin xếp hạng là Di tích lịch sử văn hoá cấp quốc gia năm 1993. Nguồn: Sở Văn hóa và Thể thao tỉnh Ninh Bình
Ninh Bình 4150 lượt xem
Lăng vua Lê Đại Hành nằm dưới chân núi Mã Yên về phía Nam, hai bên có hai quả núi mà nhân dân gọi là “Long chầu, Hổ phục”, là tay ngai, nên núi còn có tên chữ là Hoàn Ỷ Sơn. Trong khu vực thành ngoại của Kinh thành Hoa Lư ngày nay thuộc Thôn Yên Thượng, Xã Trường Yên Huyện Hoa Lư, Tỉnh Ninh Bình. Lăng vua Lê còn có tên gọi khác nữa theo nhân dân địa phương là Mả Quan. Cách gọi này có thể xuất phát từ quan niệm của dân gian về vai trò, vị trí (bề tôi) của Lê Hoàn dưới triều đại vua Đinh Tiên Hoàng, tuy nhiên tên gọi này cổ xưa và không phổ biến lắm. Lăng vua Lê thuộc loại hình di tích mộ táng, theo truyền thống cổ truyền của dân tộc. Theo quan niệm của người xưa, lăng vua Đinh - vua Lê đều đặt vào nơi được gọi là “huyệt Đế Vương”. Vua Lê Đại Hành tức Lê Hoàn trước đây là người tài giỏi võ nghệ, phóng khoáng, có chí lớn. Lê Hoàn gia nhập nghĩa quân Hoa Lư, theo Nam Việt Vương Đinh Liễn tham dự các trận mạc, đánh dẹp các sứ quân cát cứ, lập nhiều chiến công. Được vua Đinh Tiên Hoàng trọng là bậc trí dũng và trở thành Thập Đạo tướng quân dưới triều nhà Đinh. Lê Hoàn cầm quân đuổi giặc Tống, đánh thắng Chiêm Thành, củng cố bộ máy Nhà nước phong kiến độc lập, thống nhất. Chính quyền cũng chăm lo thi hành một số biện pháp tích cực cho sự phát triển kinh tế. Lê Hoàn lên ngôi Hoàng đế, đổi niên hiệu là Thiên Phúc. Có thể nói, dưới triều vua Lê Đại Hành, Kinh đô Hoa Lư và đất nước Đại Cồ Việt đã có sự phồn thịnh, ổn định. Về chính trị, quân sự, văn hóa, ngoại giao có xu thế phát triển, đánh dấu những mốc quan trọng. Ông xứng đáng là người đã dẹp yên thù trong, giặc ngoài, tạo thế mạnh nước nhà và tỏ rõ quyền uy với nhà Tống phương bắc. Năm Ất tỵ 1005, vào tháng ba Vua Lê Đại Hành băng hà ở điện Trường Xuân. Khi vua Lê mất, quần thần an táng và xây dựng lăng mộ ở phía tây nam chân núi Mã Yên. Kích thước của lăng nhỏ hơn lăng của vua Đinh Tiên Hoàng nhưng vẫn chứng tỏ được thế uy nghi của vị đế vương. Phía sau là bia đá, mặt chính của bia có dòng chữ: "Lê Đại Hành Hoàng Đế lăng" và dòng niên đại của bia: Minh Mệnh năm thứ 21 (1840). Theo truyền lại trong dân gian, vùng đất Trường Yên khi xây dựng Kinh đô Hoa Lư, vua Đinh và vua Lê đều lấy Mã Yên Sơn làm tiền án, lấy dãy Đại Vân làm hậu chẩm cho kinh thành. Núi Mã Yên cũng là nơi Vua thường ngự trong mỗi lần duyệt thủy quân. Lăng vua Lê Đại Hành đã được trùng tu vào năm 2020, uy nghi xứng đáng với tầm vóc của vị Hoàng đế. Vị thế lăng vua Đinh và lăng vua Lê nằm trong khu di tích Cố đô Hoa Lư, gắn liền với các di tích trung tâm như: Đền thờ vua Đinh - vua Lê và các di tích phụ cận khác. Ngoài giá trị lớn về mặt lịch sử - văn hóa, nơi ghi dấu ấn vẻ vang của dân tộc, đây còn là nơi được thiên nhiên ban tặng cảnh quan sơn thủy hữu tình, thu hút du khách gần xa về thăm quan, chiêm bái, tri ân bậc vĩ nhân có công lớn với đất nước. Nguồn: Ban Quản lý Quần thể danh thắng Tràng An
Ninh Bình 3992 lượt xem
Đền Bảo Lộc, xã Mỹ Phúc (Mỹ Lộc) được xây dựng trên đất “thang mộc” của An Sinh Vương Trần Liễu, thân phụ của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn và là anh trai của Trần Thái Tông - vị vua đầu tiên của vương triều Trần. Thời Trần, cùng với việc xuất hiện chế độ Thượng hoàng, năm 1262, hương Tức Mặc đổi thành phủ Thiên Trường và được xây dựng quy mô như kinh đô thứ hai sau Thăng Long. Bên cạnh việc xây dựng cung điện, nhà cửa nguy nga tráng lệ cho bậc đế vương, nhà Trần còn phong hàng loạt thái ấp cho các quý tộc, bao quanh như một vành đai bảo vệ Thiên Trường. Ấp An Lạc ngày đó cách trung tâm Thiên Trường 2km (đường chim bay) về phía bắc. Tương truyền, ấp An Lạc là nơi sinh ra và lớn lên của Trần Quốc Tuấn. Với công lao to lớn trong ba cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm, tháng 4 năm 1288 ông được ban tước hiệu “Quốc công tiết chế Hưng Đạo đại vương”. Khi ông mất, triều đình lại phong là: “Thái sư Thượng phụ Thượng quốc công Nhân vũ Hưng Đạo đại vương”. Đền Bảo Lộc ban đầu được xây dựng ven sông Châu gồm ba gian gỗ lim lợp ngói mũi hài, sau bờ sông bị sói lở, đền được di chuyển vào vị trí như hiện nay. Một thời gian dài tồn tại với quy mô nhỏ, đầu thế kỷ XX, đền Bảo Lộc được nhân dân quyên tiền nâng cấp thành công trình kiên cố, quy mô khá lớn, kích thước cao rộng. Đền được xây theo thiết kế của Đông Phương Bác Cổ, song có sửa chữa lại cho phù hợp với kiến trúc cổ truyền của dân tộc. Bắt đầu xây dựng từ năm 1928, phải 5 năm sau công trình mới hoàn thành. Đền nằm chính giữa, quay hướng đông, bên trái là chùa thờ Phật, bên phải là phủ thờ Mẫu, phía sau đền là Khải Thánh thờ vương phụ, vương mẫu, phu nhân của ông. Toàn bộ khu di tích được thiết kế đăng đối, hài hòa, không gian thoáng đãng tạo cảm giác thanh thoát lòng người về lễ thánh. Đền Bảo Lộc nằm chính giữa được xây theo kiểu chữ đinh gồm tiền đường 7 gian rộng, trung đường dài 5 gian, hậu cung 3 gian. Kiến trúc của đền đơn giản, các cột xây bằng gạch, nhiều xà được đổ xi măng cốt thép bền vững, bề thế. Tuy chạm khắc không nhiều, song rải rác ở từng bộ phận vẫn có các đề tài: tứ linh, long cuốn thủy, hoa lá, tùng, cúc, trúc, mai… Đặc biệt, sáu bộ cánh cửa ở hậu cung với những mảng chạm tinh xảo mang đậm phong cách nghệ thuật thời Nguyễn. Trong đền, ngoài bài vị còn có hai pho tượng thờ Trần Hưng Đạo (một bằng đồng, một bằng gỗ). Pho tượng đồng trong tư thế ngồi nặng 4,8 tấn, đặt ở trung đường. Hai bên có tượng Hưng Vũ Vương Nhiễn và Phạm Ngũ Lão là con trai và con rể của ông. Pho tượng bằng gỗ trầm hương được đặt tại hậu cung, hai bên là tượng thầy dạy văn và thầy dạy võ. Đền Khải Thánh nằm ở phía sau, kiến trúc tương tự như đền chính nhưng phần nền cao hơn 3m, thờ thân phụ, thân mẫu, phu nhân và hai người con gái của Trần Hưng Đạo. Cách bài trí thờ tự ở đây thể hiện tinh thần tôn sư trọng đạo, trung hiếu vẹn toàn của Hưng Đạo đại vương. Trong các di tích thờ Trần Hưng Đạo, đền Bảo Lộc có ý nghĩa đặc biệt vì mảnh đất này đã gắn với tuổi thơ của ông. Bởi vậy dân gian có câu “Sinh Kiếp Bạc, thác Trần Thương, quê hương Bảo Lộc”. Hằng năm, vào ngày kỵ của ông (20 tháng 8 âm lịch) rất đông khách thập phương lại có dịp về lễ hội truyền thống Trần Hưng Đạo. Nguồn: Di tích lịch sử - văn hóa Nam Định
Ninh Bình 3738 lượt xem
Khu di tích Đền Trần Nam Định là ngôi đền thờ 14 vị vua nhà Trần cùng gia quyến và các quan lại có công phù tá. Nơi đây còn nổi tiếng với Lễ dâng hương khai ấn Đền Trần đầu xuân và Hội Đền Trần tháng tám âm lịch hàng năm. Khu di tích đền Trần - Nam Định bao gồm 3 công trình kiến trúc chính là: đền Thiên Trường, đền Cố Trạch và đền Trùng Hoa, có kiểu dáng chung và quy mô ngang nhau. Phía trước có cổng ngũ môn. Qua cổng là một hồ nước hình chữ nhật. Chính giữa phía sau hồ là đền Thiên Trường. Đền Thiên Trường thường gọi Đền Thượng, tọa lạc ở vị trí trung tâm của khu di tích Đền Trần Nam Định. Đền được xây trên nền Thái Miếu và cung Trùng Quang của nhà Trần mà trước nữa là nhà thờ tộc của họ Trần. Cung Trùng Quang là nơi các thái thượng hoàng nhà Trần sống và làm việc. Kiến trúc Đền Thiên Trường hiện nay gồm có tiền đường, trung đường, chính tẩm, thiêu hương, 2 dãy tả hữu vu, 2 dãy tả hữu ống muống, 2 dãy giải vũ Đông Tây. Tổng cộng có 9 tòa, 31 gian. Khung đền được dựng bằng gỗ lim, mái lợp ngói, nền lát gạch. Tiền đường là nơi để ban thờ và bài vị của các quan có công lớn phù tá nhà Trần. Trung đường đặt bài vị của 14 hoàng đế nhà Trần. Chính tẩm thờ tự 4 vị thủy tổ họ Trần, và các phu nhân, hoàng phi. Tòa thiêu hương (kinh đàn) đặt ban thờ và bài vị của các công thần nhà Trần. Đền Cố Trạch thường gọi là Đền Hạ, nằm ở mặt Đông của khu di tích Đền Trần Nam Định. Tiền đường đặt bài vị 3 gia tướng thân tín của Trần Hưng Đạo là Phạm Ngộ, Phạm Ngũ Lão và Nguyễn Chế Nghĩa. Trung đường thờ bài vị và tượng của Trần Hưng Đạo, 4 người con trai, Phạm Ngũ Lão và các tả hữu tướng quân. Chính tẩm đặt bài vị cha mẹ, Trần Hưng Đạo và vợ (công chúa Thiên Thành), 4 con trai và 4 con dâu, con gái và con rể. Thiêu hương (kinh đàn) đặt long đình, trong có tượng Trần Hưng Đạo cùng 9 pho tượng Phật. Gian tả vu đặt bài vị Trương Hán Siêu, Phạm Thiện Nhân và các văn thần triều Trần. Gian hữu vu đặt bài vị các võ thần triều Trần, bài vị Trần Công và các thân nhân họ Trần. Đền Trùng Hoa nằm ở mặt phía Tây của khu di tích Đền Trần. Đền được xây dựng mới từ năm 2000, trên nền cung Trùng Hoa xưa - nơi các hoàng đế nhà Trần về tham vấn các vị thái thượng hoàng. Trong đền Trùng Hoa có 14 pho tượng được đúc bằng đồng của 14 hoàng đế nhà Trần đặt tại tòa trung đường và tòa chính tẩm. Tòa thiêu hương đặt ngai và bài vị thờ hội đồng các quan. Gian tả vu thờ các quan văn. Gian hữu vu thờ các quan võ. Hàng năm, tại khu di tích Đền Trần Nam Định sẽ diễn ra 2 lễ hội lớn, đó là Lễ khai ấn Đền Trần đầu xuân và Hội Đền Trần tháng tám, thu hút đông đảo người dân địa phương cùng du khách thập phương về dự, tri ân công đức của 14 vị vua Trần và cầu mong những điều tốt đẹp. Đền Trần là khu di tích lịch sử văn hóa đặc biệt, quan trọng của tỉnh Nam Định được nhà nước xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia năm 2012. Nguồn: Cổng thông tin Điện tử Thành phố Nam Định
Ninh Bình 3708 lượt xem
Đình làng Vân Chàng tọa lạc trên địa phận tổ dân phố số 16, thôn Vân Chàng, thị trấn Nam Giang. Đình làng Vân Chàng là nơi thờ tự và tri ân công đức của nhân dân địa phương đối với Lục vị Tổ sư nghề rèn. Thần phả đình làng Vân Chàng cho biết, sáu vị tổ nghề đã cùng 15 vị tổ thuộc các dòng họ: Đoàn, Trần, Vũ, Nguyễn, Đỗ, Ngô... chiêu mộ nhân dân khai phá đồng ruộng, phát triển sản xuất và mở mang nghề nghiệp. Năm Quý Sửu (1373), đời vua Trần Duệ Tông, niên hiệu Long Khánh 2, sau khi truyền dạy nghề cho người dân nơi đây, sáu vị tổ lại trở về quê cũ làng Hoa Chàng (Hà Tĩnh) tiếp tục truyền dạy nghề rèn. Để tri ân công đức của các ông tổ nghề, nhân dân địa phương đã đặt tên làng là Hoa Chàng - quê gốc của các vị Tổ sư (đến thời Nguyễn đổi thành làng Vân Chàng); lập đền thờ tôn làm: Phúc thần - Lục vị Tổ sư - Đương cảnh Thành hoàng và lấy ngày 15 tháng 11 âm lịch là ngày sáu vị Tổ sư từ làng Vân Chàng trở về quê cũ làm ngày chính kỵ. Hiện tại đình làng Vân Chàng còn lưu giữ được 6 đạo sắc phong niên hiệu Khải Định 9 (1924) khẳng định công lao “Hộ quốc”, “Tý dân” và gia tặng Lục vị Tổ sư là: Dực bảo trung hưng linh phù Vân Sơn Thánh tổ. Ngoài các đạo sắc phong, thì đình làng Vân Chàng còn lưu giữ nhiều câu đối ca ngợi công lao và sự nghiệp của Lục vị tổ sư. Hiện nay, cùng với đình làng Vân Chàng, thị trấn Nam Giang, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định thờ Lục vị Tổ sư, ở các địa phương khác là Hà Tĩnh, thành phố Hồ Chí Minh đều có nơi thờ các vị Tổ sư nghề rèn. Nghề rèn ở làng Vân Chàng, thị trấn Nam Giang hình thành từ cuối thế kỷ XIV, tính đến nay đã gần 7 thế kỷ. Ban đầu, nghề rèn chỉ là nghề phụ bên cạnh sản xuất nông nghiệp. Trải qua nhiều giai đoạn lịch sử, nghề rèn đã từng bước phát triển, tách khỏi nông nghiệp để đi sâu vào sản xuất chuyên môn hóa, trở thành nghề thủ công truyền thống. Năm 1426, khi nghĩa quân Lam Sơn tiến ra Bắc, một thanh niên người họ Đoàn đã đứng ra tập hợp dân làng đứng lên giết giặc, được phong Dũng tráng Đại tướng quân. Biết nơi đây có nghề rèn, Bình Định vương Lê Lợi đã giao cho dân làng nhiệm vụ rèn vũ khí cho nghĩa quân. Từ đó đến nay, nghề rèn Vân Chàng liên tục tồn tại và phát triển. Cũng trong thời kỳ chống giặc Minh xâm lược, một nhóm thợ Vân Chàng đã đến với nghĩa quân Lam Sơn dùng phương pháp rèn ra ống pháo lệnh bằng sắt. Loại pháo này là hiệu lệnh để nghĩa quân nhất tề vùng dậy tiêu diệt quân thù. Hiện nay, tại đình Vân Chàng vẫn còn lưu giữ được 2 pháo lệnh đúc bằng sắt. Thời Nguyễn, thợ rèn Vân Chàng đi lính, nhiều người được phong “Tượng mục”, có người được phong “Thủy bộ chư dinh Thủy mục” là người cầm đầu lính thợ sửa chữa vũ khí cho các doanh trại quân đội, bao gồm cả quân thủy và quân bộ. Khi giặc Pháp xâm lược Bắc kỳ, nhiều thợ Vân Chàng đứng trong hàng ngũ quân dân chống Pháp. Hơn 2.000 quân Cần Vương do Tiến sỹ Vũ Hữu Lợi (1836 - 1886) chỉ huy đóng tại làng Giao Cù (Đồng Sơn, Nam Trực, Nam Định), tất cả vũ khí đều do thợ rèn Vân Chàng sản xuất. Đến nay, trải qua gần 7 thế kỷ, từ nghề rèn thủ công truyền thống đã phát triển và lan tỏa mạnh mẽ, hình thành cụm công nghiệp cơ khí Nam Giang. Nghề rèn Vân Chàng và cơ khí Nam Giang đã và đang trở thành nền kinh tế mũi nhọn của địa phương, góp phần giải quyết công ăn việc làm, nâng cao đời sống, xây dựng kinh tế - văn hóa - xã hội địa phương ngày một phát triển. Với những giá trị tiêu biểu về lịch sử, kiến trúc nghệ thuật, Đình làng Vân Chàng đã được xếp hạng di tích Lịch sử và kiến trúc nghệ thuật cấp Quốc gia năm 2018. Nguồn: Uỷ Ban Nhân Dân Huyện Nam Trực
Ninh Bình 3662 lượt xem
Chùa và đền Khả Lương ở làng Khả Lương, xã Ninh Thắng, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình. Chùa còn có tên chữ là Thắng Lâm Tự (chùa Thắng Lâm). Đền Khả Lương có địa thế đẹp nằm trên mảnh đất hình con rùa, phía trước sân là miệng con rùa, nên dân làng không san lấp, như một kiểu “thuỷ trì” là nơi tụ thuỷ, tụ phúc. Tương truyền chùa được khởi dựng từ thời Lý, đến thời Nguyễn dân làng di chuyển đền từ địa danh Mả La về phí trước chùa, tạo thành một kiểu kiến trúc “Tiền Thần, Hậu Phật”. Đền có cấu trúc kiểu chữ Đinh hậu cung nối thêm một hàng cột và một mảnh giường tạo thành Tiền Đường ba gian. Hậu Cung ba gian, bốn hàng chân cột bằng gỗ lim, lợp ngói vẩy, vì kèo ngoài, kiểu kèo mê, vì trong kiểu giá chiêng, được chạm khắc rồng hổ phù tứ linh: long, ly, quy, phượng, sơn son thếp vàng lộng lẫy. Đền là nơi thờ cúng Hộ Sinh Đại Vương, người có công cứu giúp dân làng khỏi đại nạn, được Nhà phong là Hộ Quốc Đại Vương, trở thành Thành Hoàng của làng Khả Lương. Chùa Khả Lương có kiến trúc kiểu chữ Nhị (=) Tiền Đường năm gian vì kèo kiểu “thượng giường, hạ kẻ”, ba hàng chân cột, trốn một hàng cột giữa , hàng cột trước được làm bằng đá xanh. Hậu Cung hay Chùa Thượng ba gian, những kèo kiểu “thượng giường, hạ kẻ”, ba hàng chân cột, hàng cột trước và hàng cột sau bằng đá xanh, phía trước có hai con rồng chầu bằng đá (tương truyền từ đời Lý). Chùa thờ Tam Thế, A Di Đà tam tôn, Thích ca sơ sinh, Thánh Tăng, Thổ Địa râu trắng, một tín ngưỡng dân gian với mong ước phù hộ che trở cho nhân dân và ngôi làng của mình. Ngoài ra chùa còn thờ Hàn Lâm, đó là nơi thờ các cô hồn, đây cũng là một việc thờ tự cổ xưa mang tính chất lương thiện tốt đẹp của người dân. Hàng năm chùa và đền Khả Lương diễn ra nhiều các hình thức sinh hoạt văn hóa như ngày hội kỷ niệm vua Trần Thái Tông, ngày xá tội vong nhân, ngày lễ Thích Ca thánh Phật, ngoài ra còn những ngày Tư, Rằm, mùng Một nhân dân trong làng đều thắp hương, cúng bái. Di tích trải qua các thời kỳ cũng là nơi diễn ra nhiều sự kiện cách mạng của địa phương. Trong kháng chiến chống Pháp chùa là cơ sở chữa trị cho thương binh, chùa còn là nơi sơ tán của trường Phổ thông cấp I, xã Ninh Thắng. Nhiều người đã trưởng thành trong mái trường này. Chùa và đền Khả Lương còn lưu giữ được nhiều hiện vật quý như: bia đá, chuông, rồng đá, sắc phong, long ngai, bài vị… đây là những hiện vật có giá trị đang được nhân dân trong làng bảo quản rất cẩn trọng để ghi nhớ công lao của các bậc tiền nhân. Đền và chùa Khả Lương xã Ninh Thắng là một ngôi đền, chùa cổ, có cảnh quan đẹp, cây cối toả bóng xanh mát quanh năm, đây còn là một kiến trúc thời Nguyễn mang phong cách truyền thống của dân tộc. Xuất phát từ những giá trị của di tích, UBND tỉnh Ninh Bình xếp hạng di tích Đền và chùa Khả Lương là Di tích lịch sử văn hóa cấp Tỉnh. Nguồn: Ban quản lý Quần thể danh thắng Tràng An
Ninh Bình 3657 lượt xem