Khám phá lịch sử, văn hóa, con người và cảnh đẹp Việt Nam trên ứng dụng du lịch Travelviet
Tải ứng dụng Travelviet
Đi du lịch tại Bắc Giang thì mua gì về làm quà? Đây chắc hẳn là câu hỏi khiến nhiều du khách băn khoăn sau mỗi chuyến khám phá vùng đất giàu truyền thống và cảnh sắc nên thơ này. Với nền văn hóa lâu đời cùng những sản vật đặc trưng, Bắc Giang không thiếu những món quà ý nghĩa, đậm đà bản sắc để bạn mang về tặng người thân, bạn bè. Theo chân, Travelviet.net tìm hiểu rõ hơn nhé!
Bài viết cùng chủ đề:
Đi du lịch tại Bắc Giang thì mua gì về làm quà? Một câu hỏi tưởng chừng đơn giản nhưng lại mở ra cả kho tàng đặc sản và món quà đậm chất miền quê Kinh Bắc.
Nhắc đến đặc sản Bắc Giang, vải thiều Lục Ngạn chắc chắn là cái tên không thể bỏ qua. Loại quả nổi tiếng này gây ấn tượng với vỏ mỏng, hạt nhỏ, thịt dày và vị ngọt thanh khó quên.
Vào mùa thu hoạch, du khách còn có thể mua vải sấy khô vẫn giữ trọn hương vị đặc trưng. Vải thiều Lục Ngạn không chỉ là niềm tự hào của vùng đất này mà còn là món quà tuyệt vời để mang về sau chuyến du lịch.
Đi du lịch tại Bắc Giang thì mua gì về làm quà? Bánh vắt vai là một đặc sản dân dã của Bắc Giang, được làm từ nếp cái hoa vàng thơm dẻo, kết hợp khéo léo với đậu xanh, đường ngọt dịu và ngải cứu thoảng hương nồng nàn. Khi thưởng thức, vị bùi của gạo nếp quyện cùng vị ngọt thanh, béo ngậy và mùi thơm đặc trưng tạo nên dư vị hài hòa, khó quên. Đây không chỉ là món ăn mà còn là một phần tinh hoa ẩm thực truyền thống vùng Kinh Bắc.
Đi du lịch tại Bắc Giang thì mua gì về làm quà? Bên cạnh vải thiều Lục Ngạn, na Lục Nam cũng là một “cực phẩm” trứ danh của Bắc Giang mà du khách nhất định phải thử. Quả na tròn đều, thịt mềm mịn, vị ngọt thơm tự nhiên khiến ai nếm một lần cũng khó quên.
Điều đặc biệt là, na Lục Nam được trồng theo tiêu chuẩn VietGAP, đảm bảo chất lượng và độ an toàn. Mùa na kéo dài từ tháng 6 đến tháng 9 hằng năm, thời điểm lý tưởng để bạn ghé thăm vùng đất này và mang về những trái ngọt mát lành làm quà.
Đi du lịch tại Bắc Giang thì mua gì về làm quà? Cam sành Bố Hạ là một trong những đặc sản trứ danh của Bắc Giang, nổi bật với vỏ vàng xanh bắt mắt, múi to mọng nước, ít hạt và hương thơm dịu nhẹ. Vị ngọt thanh, không chua gắt khiến loại cam này trở thành món quà biếu ý nghĩa mỗi dịp Tết đến, xuân về hay trong những chuyến du lịch đến vùng đất Yên Thế. Bạn có thể dễ dàng tìm mua cam Bố Hạ tại các khu chợ địa phương hoặc ghé thăm trực tiếp vườn cam trĩu quả để chọn những trái tươi ngon nhất mang về làm quà.
Đi du lịch tại Bắc Giang thì mua gì về làm quà? Không chỉ nổi tiếng với vải thiều, na hay cam, Bắc Giang còn khiến du khách bất ngờ với đặc sản dứa Lục Nam thơm ngon khó cưỡng. Những trái dứa chín vàng, căng mọng nước, tỏa hương dịu ngọt đặc trưng và có vị ngọt thanh hơn hẳn dứa ở nhiều vùng khác.
Lục Nam hiện là vùng trồng dứa lớn nhất tỉnh, góp phần đưa Bắc Giang trở thành trung tâm sản xuất trái cây hàng đầu miền Bắc. Nếu có dịp ghé thăm, đừng quên thưởng thức và chọn vài quả dứa tươi ngon về làm quà cho người thân nhé!
Nhắc đến đặc sản Bắc Giang, không thể bỏ qua bánh đa Thổ Hà, món quà mộc mạc nhưng đậm đà hương vị quê hương. Những chiếc bánh được làm từ gạo ngon, vừng, lạc… được các cô, các dì trong làng chọn lựa kỹ càng và chế biến công phu.
Bánh đa Thổ Hà có hai loại: bánh đa nướng vàng giòn, thơm lừng mùi lạc rang vừng béo; và bánh đa nem màu trắng, dẻo dai đặc biệt. Đây chính là món quà giản dị mà ý nghĩa, rất được du khách yêu thích mang về sau mỗi chuyến ghé thăm làng cổ Thổ Hà.
Đi du lịch tại Bắc Giang thì mua gì về làm quà? Không chỉ có chè Thái Nguyên hay Shan Tuyết Suối Giàng mới nổi tiếng, Bắc Giang cũng tự hào với đặc sản chè Bát Tiên Sơn Động. Được trồng trên vùng núi có khí hậu mát mẻ, chè Bát Tiên cho nước xanh vàng nhạt, hương thơm hoa nhài thoang thoảng, vị chan chát đầu lưỡi nhưng hậu ngọt dịu nhẹ. Không tạo cặn, không làm ố chén, loại chè này ngày càng được ưa chuộng, đặc biệt vào những ngày se lạnh, nhấp một ngụm sẽ thấy lòng dịu lại, thư thái đến lạ thường.
Rượu làng Vân nổi bật với màu vàng trong vắt, hương thơm dịu nhẹ và vị êm nồng khó quên. Được nấu từ nếp cái hoa vàng cùng men bí truyền kết hợp 36 vị thuốc Bắc, rượu mang đến sự hòa quyện tinh tế giữa vị ngọt nhẹ và hậu đắng nhẹ nhàng. Nhờ quy trình ủ công phu, rượu làng Vân không chỉ là thức uống mà còn là tinh hoa văn hóa vùng Kinh Bắc, rất thích hợp để biếu tặng hoặc thưởng thức trong những dịp đặc biệt.
Đi du lịch tại Bắc Giang thì mua gì về làm quà? Bánh khảo là đặc sản truyền thống không thể thiếu trong ngày Tết của người dân Bắc Giang, tinh hoa của ẩm thực xứ Kinh Bắc. Từ bột nếp rang mịn, nhân đậu xanh hoặc lạc ngọt dịu được hòa quyện cùng đường mía, từng miếng bánh vuông vức được ép chặt, tỏa hương thơm ngọt ngào quyến rũ.
Khi thưởng thức, bánh tan ngay trong miệng, mang vị ngọt thanh nhẹ, rất hợp để nhâm nhi cùng chén trà ấm. Đặc biệt, bánh khảo không chỉ giữ được hương vị bền lâu mà còn là món quà ý nghĩa, được du khách lựa chọn nhiều mỗi dịp xuân về.
Như vậy, bài viết này của Travelviet.net đã giúp bạn có lời đáp cho câu hỏi: “Đi du lịch tại Bắc Giang thì mua gì về làm quà?”. Mong rằng, những gợi ý đặc sản trên sẽ giúp bạn chọn được món quà ý nghĩa, gửi trao yêu thương đến người thân và bạn bè sau chuyến đi đáng nhớ.
Bắc Ninh 325 lượt xem
Ngày cập nhật : 18/06/2025
Chùa Phật Tích là một trong những ngôi chùa có lịch sử lâu đời mang đậm dấu ấn thời Lý. Chính những di sản văn hoá quý báu này là nguồn tư liệu sống động, đầy tính nhân văn trong hành trình tìm về cội nguồn dân tộc. Vì vậy nếu bạn là người quan tâm đến tín ngưỡng Phật giáo và các giá trị lịch sử truyền thống thì chùa Phật Tích sẽ là địa điểm tham quan không thể bỏ qua. Chùa thuộc địa phận xã Phật Tích, đây chính là nơi diễn ra cuộc gặp gỡ giữa tín ngưỡng dân gian Việt cổ và Phật giáo. Sự kết hợp hài hòa đó đã hình thành nên trung tâm Phật giáo đầu tiên của nước ta. Với những giá trị to lớn về mặt lịch sử và văn hóa chùa Phật Tích thu hút rất nhiều du khách đến nghiên cứu, ngắm cảnh hàng năm. Theo sử sách ghi lại thì chùa được khởi dựng vào năm Thái Bình thứ tư tức năm 1057. Mục đích xây dựng chùa là để đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng tâm linh và gửi gắm niềm tin của đông đảo nhân dân. Ban đầu, chùa được xây lên với nhiều tòa ngang dãy dọc. Tiếp đó tại nơi đây vua Lý Thánh Tông cho xây dựng thêm một ngọn tháp Linh Quang vào năm 1066. Về sau khi tháp đổ thì lộ ra bên trong có tượng Phật A-di-đà được làm từ đá xanh nguyên khối dát vàng. Dân làng đã đổi tên thành Phật Tích và di chuyển và sinh sống trên sườn núi trước sự kỳ diệu của bức tượng Phật. Cho đến thời điểm hiện tại dù đã trải qua nhiều biến động của thời gian ngôi chùa vẫn giữ được nhiều nét cổ kính, trầm mặc. Chùa được thiết kế theo lối Nội công ngoại quốc. Sân chùa Phật Tích là bậc nền thứ nhất. Nơi đây gắn liền với vườn sự tích hoa mẫu đơn khoe sắc lưu truyền trong truyền kỳ nổi tiếng “Từ Thức gặp tiên”. Bậc nền thứ hai của chùa là nơi có các kiến trúc cổ nhưng theo thời gian ngày nay không còn được thấy. Nền thứ ba ở vị trí cao nhất, có Long Trì là một cái ao hình chữ nhật nay cạn nước. Điểm độc đáo của chùa là bức tượng Phật A Di Đà bằng đá xanh ngồi trên tòa sen cao đến 1,87 m. Đây là một trong những tác phẩm điêu khắc đặc sắc của kỹ thuật tạc tượng đỉnh cao.Ngoài ra, ở chùa Phật Tích còn có bức tượng người chim đánh trống. Bức tượng này đã thể hiện sự thoát tục và khát vọng vươn tới ước mơ của con người. Ngay phía trước chùa có một dãy thú 10 con: trâu, tê giác, voi, ngựa… có kích thước lớn. Tất cả được làm từ đá đã thể hiện tài hoa của các nghệ nhân thời Lý. Ngày nay, chùa có tất cả 7 gian tiền đường để dùng vào mục đích đón tiếp khách gần xa. Chùa có 5 gian bảo thờ Phật, đức A Di Đà và các vị tam thế. Ngoài ra chìa còn có 7 gian nhà thờ Mẫu, 8 gian nhà Tổ.Lối đi lên chùa có ba bậc nền bạt vào sườn núi có kè bằng đá tảng dựng đứng như bức tường dài 58m. Ba bậc nền có cao từ 3–5m và khoảng giữa tường là lối đi bằng đá rộng 5m có đến 80 bậc. Bạn có thể tham quan chùa Phật Tích bất cứ thời điểm nào trong năm nhưng phù hợp nhất là tháng Giêng. Lúc này, tiết trời mát mẻ, hoa cỏ sinh sôi nên rất phù hợp để vãn cảnh chùa. Ngoài ra, lễ hội Khán hoa mẫu đơn ở chùa Phật Tích còn là một trong những lễ hội diễn ra sớm và có quy mô lớn nhất Bắc Ninh. Lễ hội gắn liền với chuyện tình cảm động Từ Thức gặp tiên. Lễ hội chùa Phật Tích thường được diễn ra trong ba ngày, từ mồng 3 đến mồng 5 Tết âm lịch hàng năm. Ngày chính của hội là mồng 4. Từ ngày mồng 3 đã có rất đông du khách kéo về chùa để lễ Phật, cầu may mắn, bình an. Hàng vạn du khách đã nô nức có mặt tại đây dự lễ hội. Một lưu ý nho nhỏ là khi đến vãn cảnh chùa khách du lịch nên ăn mặc lịch sự, kín đáo để thể hiện lòng tôn kính đối với đạo Phật. Chùa Phật Tích thực sự là nơi lưu giữ những giá trị lịch sử đã có từ hàng ngàn năm của dân tộc. Du khách đến đây không chỉ là để hành hương bái Phật mà còn để chiêm nghiệm những giá trị cổ xưa của dân tộc.
Bắc Ninh 3658 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Nằm ở làng Đình Bảng, xã Đình Bảng, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, đền Đô được xây dựng từ thế kỉ thứ 11 và còn được gọi tên là Cổ Pháp Điện hay đền Lý Bát Đế. Đền là nơi thờ 8 vị vua nhà Lý: Lý Thái Tổ, Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông, Lý Nhân Tông, Lý Thần Tông, Lý Anh Tông, Lý Cao Tông và Lý Huệ Tông. Với diện tích hơn 31,000m2, đền Đô có 21 công trình lớn nhỏ được chia làm khu nội thành và khu ngoại thành và với trung tâm là đền thờ chính. Đến đây, bạn sẽ phải trầm trồ trước một cảnh quan rộng lớn với những công trình đại điện hoành tráng, hậu cung uy nghi, thuỷ đình thư thái và những văn bia tĩnh mịch. Trong đền chùa cổ kính, mùi hương trầm như lan toả khắp không gian và khiến ta suy tưởng về một triều đại anh hùng linh kiệt hào hùng. Trải qua nhiều triều đại, đền được nhiều lần tu sửa và mở rộng. Không chỉ sở hữu những giá trị văn hoá và lịch sử đặc sắc, đền Đô còn sở hữu kiến trúc cung đình dân gian độc đáo trong một tổng thể cảnh trí hữu tình và hài hoà với thiên nhiên. Đây cũng là một công trình kiến trúc tiêu biểu với nghệ thuật khắc đá, gỗ, tạc tượng với nhiều đường nét chạm khắc tinh xảo, công phu. Sự độc đáo trong kiến trúc ở đền Đô không mang tính giá trị nghệ thuật cao và phần nào thể hiện đậm nét giá lịch sử và văn hoá của triều đại Lý nói riêng và văn hoá lịch sử dân tộc nói chung. Hàng năm, lễ hội đền Đô được tổ chức vào các ngày 14, 15 và 16 tháng 3 Âm lịch nhân kỉ niệm ngày Lý Công Uẩn lên ngôi vua và ban “Chiếu dời đô”. Đây là một lễ truyền thống có từ lâu đời và đã trở thành một phong tục ăn sâu vào đời sống văn hoá tinh thần của người dân nơi đây. Lễ hội thu hút nhiều du khách đến dâng hương và tỏ lòng thành kính với các vị vua nhà Lý.
Bắc Ninh 3601 lượt xem
Tháng 4
Vào mỗi dịp đầu xuân, ai nấy cũng hứng khởi và chờ đón những lễ hội diễn ra hàng năm tại nhiều nơi. Và một trong số những lễ hội truyền thống nổi tiếng ai cũng biết chính là Hội Lim Bắc Ninh. Hội Lim là hội của những làng xã cổ nằm quanh núi Lim và đôi bờ sông Tiêu Tương, là lễ hội lớn của vùng, thể hiện một cách sâu nhất văn hóa nghệ thuật và tín ngưỡng tâm linh của người dân xứ Kinh Bắc. Lịch sử Hội Lim được truyền miệng lại với rất nhiều phiên bản khác nhau. Có quan niệm cho rằng: Hội Lim có nguồn gốc từ hội chùa, hội hát, liên quan đến tiếng hát của chàng Trương Chi mà dấu xưa để lại là hình vết dòng sông Tiêu Tương khá rõ ở các làng quê vùng Lim. Giả thuyết này căn cứ vào truyền thuyết Trương Chi – Mỵ Nương. Hội Lim vốn có lịch sử rất lâu đời, và phát triển tới quy mô hội hàng tổng (tổng Nội Duệ). Trên cơ sở lễ hội truyền thống của các làng trong tổng Nội Duệ (bao gồm 6 xã phường: Nội Duệ (Đình Cả và Lộ Bao), Nội Duệ Khánh, Nội Duệ Nam, Lũng Giang, Xuân Ổ và phường hát cửa đình Tiên Du (sau là Duệ Đông) với nhiều nghi lễ rước, tế lễ và các hoạt động nghệ thuật dân gian hết sức phong phú. Như: hát trống quân, hát chèo, ca trù, hát tuồng và hát quan họ…, viên quận công Đỗ Nguyên Thụy – người thôn Đình Cả, Nội Duệ, xứ Kinh Bắc đã tự hiến nhiều ruộng vườn và tiền của cho tổng Nội Duệ trùng tu đình chùa, mở mang hội hè, gìn giữ thuần phong mỹ tục. Ông đã quy định lễ nhập tịch cầu phúc vào dịp tháng Giêng hàng năm, theo truyền thống “xuân thu nhị kỳ”. Như vậy, quận công Đỗ Nguyên Thụy là người có công phát triển từ lễ hội đình tế thần cầu phúc của các làng xã vùng Lim lên lễ hội hàng tổng Nội Duệ vào dịp mùa thu, tháng Tám, với những quy định chung, đồng thời ông cũng chính là người xây dựng bước đầu những lệ tục của lễ hội vào mùa xuân, tháng Giêng. 40 năm sau, vào nửa sau thế kỷ XVIII, cũng chính người làng Đình Cả, tướng công Nguyễn Đình Diễn lại tiếp tục phát triển và đổi mới hội Lim. Ông đã cấp ruộng và tiền cho hàng tổng để chuyển hội hàng tổng từ mùa thu tháng Tám sang hẳn mùa xuân tháng Giêng. Ông cũng bỏ tiền mua nửa quả núi Hồng Vân (tức núi Lim) để xây lăng mộ của mình trên đỉnh núi. Hội Lim được duy trì trong suốt thế kỷ XIX và nửa đầu thế kỷ XX. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống Mỹ cứu nước, hội Lim không được mở trong nhiều thập kỷ cho đến tận những năm sau đổi mới. Ngày nay, hội được mở vào ngày 13 tháng Giêng âm lịch hàng năm. Do được mở rộng cả về diện tích lẫn quy mô nên phải nói rằng hội Lim là một lễ hội lớn và được tổ chức công phu, hoành tráng. Không gian lễ hội lấy đồi Lim làm trung tâm, có chùa Lim – nơi thờ ông Hiếu Trung Hầu – người sáng lập tục hát Quan họ và diễn ra tại 3 địa phương bao quanh là: xã Nội Duệ, xã Liên Bão và thị trấn Lim. Hội Lim thường được kéo dài trong khoảng 3 ngày (từ ngày 12 đến 14 tháng Giêng âm lịch hàng năm), trong đó ngày 13 là chính hội với nhiều hoạt động tập trung. Bởi vậy mà du khách cũng tập trung du lịch Bắc Ninh vào ngày 13 để có mặt tại hội Lim trong chính hội. Hội Lim bắt đầu bằng một lễ rước. Thành phần đoàn rước là những người dân được mặc bộ lễ phục thời xưa với màu sắc sặc sỡ. Trong ngày lễ chính (ngày 13 tháng Giêng) với các nghi thức rước, tế lễ các thành hoàng các làng, các danh thần liệt nữ của quê hương tại đền Cổ Lũng, lăng Hồng Vân, lăng quận công Đỗ Nguyên Thụy, dâng hương cúng Phật, cúng bà mụ Ả ở chùa Hồng Ân. Ngoài phần lễ, hội còn có nhiều trò chơi dân gian như đấu võ, đấu vật, đấu cờ, đu tiên, thi dệt cửi, nấu cơm… và đặc sắc hơn cả là phần hát hội. Truyền thống xa xưa để lại một phong tục cuốn hút và say mê đặc biệt mà chỉ Bắc Ninh mới có, đó là các sinh hoạt văn hóa hát dân ca Quan họ – loại hình dân ca đã trở thành tài sản văn hóa chung của dân tộc. Hát dân ca Quan họ diễn ra từ ngày 12 tháng Giêng tại Lim (sân chùa Hồng Ân và các trại Quan họ) và khắp tại các chùa, đình. Hội hát Quan họ Bắc Ninh diễn ra ở bất cứ nơi đâu: trong nhà, trên sân đình, trước cửa chùa hay bồng bềnh trên những thuyền thúng giữa ao, hồ – dấu tích xưa của dòng Tiêu Tương đã một thời vang vọng tiếng hát Trương Chi làm say đắm nàng Mỵ Nương xinh đẹp. Chỉ cần nơi đó có các liền anh, liền chị. Liền anh khăn xếp áo the, liền chị áo mớ ba mớ bẩy, nón thúng quai thao đến hẹn lại lên, gặp gỡ, đón tiếp nhau thân tình, nồng hậu, tinh tế và lịch lãm theo lề lối của người hát Quan họ, bằng làn điệu dân ca đạt tới trình độ nghệ thuật cao, là sự kết hợp nhuần nhuyễn, mê đắm của thơ cà và nhạc điệu nhằm bảy tỏ tình yêu trong sáng, hết lòng vì người kia, chung thủy một lòng ngóng chông của tình yêu đôi lứa. Nếu bạn có dịp được thưởng thức những khúc quan họ do chính những nghệ nhân mảnh đất Kinh Bắc hát, chắc hẳn sẽ là một trải nghiệm khiến bạn “nhớ mãi không quên”.
Bắc Ninh 3432 lượt xem
Tháng 2
Nhắc đến Bắc Ninh không chỉ là nhắc đến những làn điệu dân ca đi sâu vào tiềm thức của người dân Kinh Bắc, mà còn là nhắc đến mảnh đất cổ lâu đời với nét truyền thống văn hóa đặc sắc. Nét văn hoá đó thể hiện qua các làng nghề như Tranh Đông Hồ, làng nghề Đúc Đồng, Gốm Phù Lãng… hay các địa điểm tâm linh như đền Đô, chùa Dâu, chùa Phật Tích, chùa Bút Tháp. Đình làng Đình Bảng là một ngôi đình nằm ở làng Đình Bảng (xưa là làng Cổ Pháp) - quê hương Lý Công Uẩn (tức Lý Thái Tổ), người lập ra triều Lý và khai sáng kinh đô Thăng Long (năm 1010). Đây được coi là là ngôi đình cổ kính và nổi tiếng nhất của đất Kinh Bắc. Từ xa xưa, dân gian xứ Bắc đã có câu: "Thứ nhất là đình Đông Khang/ Thứ nhì đình Báng, vẻ vang đình Diềm" cũng là để ca ngợi vẻ đẹp kiến trúc và giá trị lịch sử văn hoá mà Đình Bảng đem lại. Đình làng Đình Bảng được xây dựng năm 1700. Người hưng công là quan Nguyễn Thạc Lương (từng làm trấn thủ Thanh Hóa) và vợ là Nguyễn Thị Nguyên. Ông bà đã mua gỗ lim, một loại gỗ quý và bền đem về cúng để dựng ngôi đình. Công trình này đã mất gần 40 năm để xây dựng. Cũng như nhiều đình làng Việt Nam dựng vào cuối thế kỷ 17, đầu thế kỷ 18, đình Báng có kiến trúc bề thế, hòa hợp với thiên nhiên Việt Nam. Nguyên trước có cả tam quan, cửa giữa xây hai trụ gạch kiểu lồng đèn cao, hai bên có cửa cuốn tò vò giả mái, phía sau là khoảng sân rộng, hai bên là hai dãy tả vu và hữu vu. Đình có mái dài, cao, các đầu đao uốn cong vút, lợp ngói mũi hài dày bản, rộng khổ. Góc mái tức "tàu đao" làm cong uốn ngược. Đình làng Đình Bảng gồm tòa đại đình đồ sộ nối với hậu cung phía sau theo dạng mặt bằng hình chuôi vồ. Công trình đồ sộ nhất và quan trọng nhất là Đại đình (Bái đường). Đại đình hình chữ nhật, dài 20 m, rộng 14 m. Đình có kết cấu hệ kèo chồng rường, gồm bảy gian hai chái (gian phụ). Nội thất đình được trang trí với rất nhiều chủ đề phong phú như tứ quý, tứ linh, thanh gươm, bầu rượu. Nghệ thuật điêu khắc thể hiện xu hướng của thời điểm cuối thế kỷ 17, đầu 18 là nghệ thuật cung đình lấn át nghệ thuật dân gian.
Bắc Ninh 3395 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Chùa Dâu còn có tên là chùa Cả, Cổ Châu tự, Diên Ứng tự, Pháp Vân tự. Chùa Dâu tọa lạc tại xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành. Chùa Dâu là công trình văn hóa tín ngưỡng có giá trị lịch sử về văn hóa hết sức lớn lao và sâu sắc, bao gồm giá trị lịch sử văn hóa, tôn giáo tín ngưỡng và kiến trúc nghệ thuật. Năm 2013, chùa Dâu được công nhận là Di tích Quốc gia đặc biệt. Quá trình hình thành và tồn tại của chùa Dâu gắn bó mật thiết với lịch sử phát triển của nước ta. Cùng với một số chùa lân cận, chùa Dâu tạo nên một trung tâm Phật giáo lớn nhất của Việt Nam và khu vực. Đây là trung tâm Phật giáo được hình thành sớm hơn cả hai trung tâm Phật giáo nổi tiếng của Trung Quốc thời kỳ nhà Hán là Bành Thành và Lạc Dương. Nhiều đại sư danh tiếng thời xưa đã từng tu hành, trụ trì ở chùa Dâu như: Mâu Bác ở thế kỷ II, Khương Tăng Hội, Chi Cương Lương ở thế kỷ III và Thiển sư Tỳ Ni Đa Lưu Chi ở thế kỷ VI. Chùa Dâu còn là chùa Cả trong hệ thống chùa thờ Tứ Pháp, chùa Dâu thờ Thần Mây (Pháp Vân), chùa Thành Đạo thờ Thần Mưa (Pháp Vũ), chùa Phi Tướng thờ Thần Sấm (Pháp Lôi), và chùa Phương Quan thờ các lực lượng thiên nhiên của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước và cũng là sự biểu hiện của cả tục thờ Mẫu, một tôn giáo bản địa thuần Việt. Chùa còn thờ “Đức Thạnh Quang” – biểu tượng của thần SiVa trong Ấn Độ giáo. Như vậy, chùa Dâu đã dung hội, cải tiến một cách điển hình các tín ngưỡng, tôn giáo bản địa với các tôn giáo lớn trong khu vực nhưng vẫn mang đậm đà bản sắc dân tộc. Hội Dâu tổ chức vào ngày 8 tháng 4 Âm lịch hàng năm, đây là lễ hội lớn của cả tổng Dâu xưa với nhiều nét văn hóa truyền thống độc đáo vẫn được duy trì. Trải qua trường kỳ lịch sử, chùa Dâu đã trải qua nhiều lần trùng tu tôn tạo. Đại tu toàn bộ các hạng mục công trình, tu sửa tháp Hòa Phong, sơn thếp hệ thống tượng, khôi phục Tam quan, giải phóng mặt bằng phía trước chùa để kè hồ, xây dựng tường bao bảo vệ di tích. Chùa Dâu gồm các hạng mục công trình: Tiền thất, tháp Hòa Phong, Tiền Đường, nhà Tả vu – Hữu vu, Tam Bảo, Hậu đường, hành lang và các công trình phụ trợ. Nhà Tiền thất gồm 7 gian, 2 chái, bên trong bày một số bộ bàn ghế để khách thập phương sắp lễ trước khi vào lễ Phật. Nổi bật nhất trong các công trình của chùa là tòa tháp Hòa Phong. Theo thư tịch cổ, vào thời Trần, Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi cho trùng tu chùa Dâu, xây tháp cao 9 tầng. Nhưng kiến trúc của tòa tháp hiện còn là của thời Lê Trung Hưng. Tháp được xây bằng gạch nung già, với 3 tầng, cao 15m. Bên ngoài tháp có tượng một con cừu làm bằng đá dài 1,33 m, cao 0,8 m. Trong tháp có 4 tượng Thiên Vương - 4 vị thần trong truyền thuyết cai quản 4 phương trời. Trong tháp, treo một quả chuông đồng đúc năm 1793 và một chiếc khánh đúc năm 1817. Nhà Tiền đường gồm 7 gian, 2 chái. Trước nền nhà là tam cấp chạy suốt 5 gian giữa. Ở gian chính giữa có 2 thành bậc đá chạm rồng, mang phong cách nghệ thuật thời Trần. Tại Tiền đường có các ban thờ Hộ Pháp, Đức Ông, Đức Thánh Hiền, Bát Bộ Kim Cương. Tượng Pháp Vân được thờ trong nhà Thượng điện. Đây là một trong 4 pho tượng trong hệ thống tượng Tứ pháp vùng Dâu -Luy Lâu được công nhận là Bảo vật quốc gia. Tượng Pháp Vân uy nghi, trầm mặc, màu đồng hun, cao gần 2m. Tượng có gương mặt đẹp với nốt ruồi to đậm giữa trán gợi liên tưởng tới những nàng vũ nữ Ấn Độ, tới quê hương Tây Trúc. Khu vực nối Tiền thất và Hậu đường là nơi thờ Thập bát La Hán (18 đệ tử đắc đạo của Phật đã tu đến cảnh giới La Hán). Ngoài ra, các pho tượng Bồ Tát, Tam Thế, Đức Ông, Thánh Tăng được đặt ở phần hậu điện. Trải qua bao biến đổi, thăng trầm của lịch sử. Chùa Dâu là điểm đến của Phật tử của cả nước, du khách đến với chùa Dâu là về với đạo Phật và cùng chiêm ngưỡng những vẻ đẹp, giá trị mà ngôi chùa mang lại. Như cái tên bình dị, chùa Dâu ngôi chùa cổ bậc nhất xứ Kinh Bắc.
Bắc Ninh 3377 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Bắc Ninh là nơi nổi tiếng với những ngôi chùa linh thiêng lâu đời. Một trong số đó chắc chắn không thể không nhắc tới Chùa Bút Tháp. Chùa có kiến trúc vô cùng độc đáo sẽ là điểm đến lý tưởng nếu du khách muốn tìm về một chốn dung dị. Chùa nằm ngay khu vực ven sông Đuống, quanh chùa có dòng sông uốn lượn quanh co là khung cảnh vô cùng nên thơ. Chùa còn có tên khác là Ninh Phúc tự, thuộc xã Đình Tổ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Đây là một trong số ít những ngôi chùa còn giữ được vẻ đẹp sơ khai lúc ban đầu. Chùa Bút Tháp là một ngôi chùa cổ với nét kiến trúc vô cùng độc đáo tại Bắc Ninh. Ninh Phúc tự được cho xây dựng vào khoảng thế kỷ thứ 17 thời Hậu Lê. Kiến trúc xây dựng của chùa theo kiểu “Nội công ngoại quốc”.Tuy đã trải qua hàng trăm năm lịch sử nhưng chùa vẫn giữ nguyên vẻ đẹp cổ kính. Đây cũng là một trong những di tích lịch sử Quốc Gia mà du khách nên ghé tới. Đặc biệt bạn sẽ không muốn bỏ lỡ cơ hội tham gia lễ hội chùa Bút Tháp. Kiến trúc xây dựng chính của chùa quay về hướng Nam. Theo đạo phật đây là hướng thể hiện trí tuệ. Chùa được xây dựng theo bày trí cân xứng chặt chẽ. Khu trung tâm của tháp được xây dựng bao gồm 8 nếp nhà chạy song hành với một trục dọc theo mô hình đường thần đạo. Khu vực ngoài cùng tháp bút là Tam Quan, rồi đến Gác Chuông và các tòa thờ khác. Bên trái của chùa là nơi thờ tự Chiết Tuyết và tháp đá Báo Nghiêm bao gồm 8 mặt và 5 tầng cao đến 13m. Dọc hai bên tòa Tiền Đường là hai nhà bia và hai dãy hành lang được xây dưng chạy dọc theo chiều dài của ngôi chùa. Nếu có cơ hội được đến tham dự lễ hội chùa Bút Tháp, du khách nên dành thời gian tham quan một số địa điểm được đề xuất. Đảm bảo bạn sẽ có một chuyến du lịch tâm linh trọn vẹn. Đầu tiên là Tượng phật Quan Âm. Tượng phật là 1 trong 4 bảo vật quốc gia được Nhà nước công nhận được đặt tại chùa. Ngoài tượng Phật Quan Âm, du khách sẽ có cơ hội chiêm ngưỡng: Bộ Tượng Phật Tam Thế, cùng Hương Án và tòa Cửu Phẩm Liên Hoa.Một trong những địa điểm được nhiều du khách đặc biệt quan tâm trong Chùa Bút Tháp đó chính là tượng Quan Âm nghìn tay nghìn mắt. Pho tượng này đã có tuổi đời rất lâu năm được xác nhận điêu khắc vào năm 1656. Tượng có bề ngang là 2.1m và chiều cao 3.7m, độ dày là 1.15m. Được gọi là tượng phật nghìn tay nghìn mắt bởi tượng Quan Âm có tất cả là 11 đầu với 952 cánh tay ngắn và 42 cánh tay dài. Đây thật sự là một tác phẩm nghệ thuật độc nhất mang đậm ý nghĩa Phật Giáo. Thứ hai là Tháp Báo Nghiêm, Một địa điểm mà du khách nhất định phải ghé đến khi thăm Chùa Bút Tháp đó là tháp Báo Nghiêm. Tháp được đặt nằm ngay bên trong khuôn viên của chùa. Đây chính là nơi thờ tự Hòa thượng Chuyết Chuyết. Tháp Báo Nghiêm được tiến hành xây dựng từ năm 1647 thời vua Lê Chân Tông. Đây cũng là công trình được công nhận có tuổi đời lâu năm. Cửa chính của tháp cũng được xây dựng quay về hướng Nam với dòng chữ “Báo Nghiêm Tháp” ngay tại thân của công trình. Tháp có kiến trúc tương đối độc đáo xây dựng nhỏ dần từ thấp đến cao. Nhìn từ trên cao trông tháp Báo Nghiêm như một chiếc bút khổng lồ giữa bầu trời xanh.
Bắc Ninh 3191 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Khu lăng mộ và đền thờ các vị Vua triều Lý là chứng tích lịch sử về làng Cổ Pháp xưa và Đình Bảng ngày nay; là đất phát tích, tôn miếu thờ các vị vua triều Lý và còn là nơi an táng của các vị tiên vương và hoàng tộc nhà Lý. Triều Lý (1009 - 1225), từ khi Thái Tổ (Lý Công Uẩn) lên ngôi, dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long (1010), trải qua 8 đời vua, truyền ngôi được 216 năm, là giai đoạn nhà nước phong kiến độc lập tự chủ,vững mạnh, nhân dân được sống trong cảnh thái bình, thịnh trị. Khu di tích là công trình kiến trúc đặc sắc, với nghệ thuật điêu khắc đá, điêu khắc gỗ, tạc tượng thờ, kỹ thuật xây dựng đều đạt ở mức tinh xảo và nhiều giá trị di sản văn hóa phi vật thể được bảo lưu: tín ngưỡng thờ cúng, lễ hội, phong tục, tập quán.... Khu lăng mộ các vị vua triều Lý còn là di chỉ khảo cổ đặc biệt quan trọng phục vụ cho công tác nghiên cứu khoa học. Di tích có nhiều tên gọi khác, như Đền Đô, Cổ pháp Điện/Đền thờ Lý Bát Đế và Khu lăng mộ các vị Vua triều Lý (Thọ lăng Thiên Đức hay Sơn lăng cấm địa); bao gồm 2 khu vực chính là: Đền Đô và Khu lăng mộ các vị Vua triều Lý (Sơn lăng cấm địa). 1. Đền Đô: tổng diện tích 31.250m2, được phân chia thành khu nội thành và ngoại thành. Ngoại thành: rộng 26.910m2, gồm các hạng mục hồ bán nguyệt, nhà thủy đình, nhà văn chỉ bên phải, nhà võ chỉ bên trái. Nội thành: rộng 4.340m2, được chia thành khu nội thất và ngoại thất. Nội thất gồm: hậu cung, nhà chuyển bồng, nhà tiền tế, nhà bia và nhà để 8 kiệu thờ, nhà để 8 ngựa thờ ở hai bên. Ngoại thất gồm: phương đình, đền Vua bà, nhà chủ tế, nhà khách, nhà trưng bày, hội trường, ngũ long môn, sân đền, tượng voi, sấu đá… 2. Khu lăng mộ các vị Vua triều Lý (Sơn lăng cấm địa) Khu lăng mộ là nơi an nghỉ cuối cùng của các vua triều Lý, cách đền Đô khoảng 800m về phía Đông Bắc, nằm ở khu Ao Sen, thuộc cánh đồng phường Đình Bảng, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Ngày nay, khu lăng mộ các vị vua nhà Lý bao gồm những công trình sau: - Lăng vua Lý Thái Tổ - Lăng Lòng Chảo - Lăng Cả (vua Lý Thái Tông) - Lăng Hai (còn gọi là lăng Con) thờ vua Lý Thánh Tông - Lăng Con Voi (vua Lý Nhân Tông) - Lăng Đường Gio (vua Lý Thần Tông) - Lăng Đường Thuấn (vua Lý Anh Tông) - Lăng vua Lý Cao Tông - Lăng vua Lý Huệ Tông - Lăng bà Nguyên Phi Ỷ Lan - Lăng Phát Tích (lăng Bà Phạm Thị) Hiện vật ở di tích đền Đô và Khu lăng mộ các vị vua triều Lý còn lại không nhiều, có thể kể đến như 8 bài vị ghi tên các vua Lý được sơn son thếp vàng, chạm khắc vào thời Lê, đỉnh đồng, hạc đồng và một số bát đĩa có niên đại thời Lê. Đặc biệt còn một bia đá, niên đại 1604 do Tiến sỹ Phùng Khắc Khoan soạn ghi công đức các vua Lý. Ngoài ra, các sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng dân gian và thờ các vị vua triều Lý vẫn được duy trì và trở thành truyền thống ở đền Đô. Hằng năm ở Đình Bảng diễn ra 3 lễ hội chính: - Hội chùa vào ngày mùng 7 tháng Giêng. - Hội đình vào ngày 15 tháng Hai, diễn ra 2 ngày chính (từ ngày 14 đến ngày 15 tháng Hai). - Hội đền vào ngày 15 tháng Ba, được diễn ra tại đền Đô. Với giá trị đặc biệt, di tích lịch sử Khu lăng mộ và đền thờ các vị vua triều Lý được xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt ngày 31/12/2014 của Thủ tướng Chính phủ. Nguồn: Cục Di sản văn hóa
Bắc Ninh 3619 lượt xem
Đình Vân Cốc hay còn có tên nôm là đình Bài Cả, nhân dân trong vũng thường gọi là đình Bài. Ngôi đình Bài Cả xưa kia thờ chung thành hoàng đức thánh Cao Sơn Đại Vương với đình Bài Xanh, vì có một lý do nào đó nên đã chia ngôi đình này ra (thượng đình thôn Xanh, hạ đình thôn Bài. Cả hai ngôi đình đều nằm dưới chân núi phía tây núi Bài một trong những dãy núi thuộc dải Nham Biền Sơn hay núi neo 99 ngọn. Làng nằm trải dài theo triền núi như hình con Cốc đang tung cánh bay, mắt nhìn xuống đồng chiêm trũng vốn là hồ Lãng Bạc ngày xưa. Nhìn từ trên cao làng Vân Cốc như một con Cốc Lớn, thân là núi Bài, đầu là núi Đồn, hai cánh dài sải rộng ra hai bên là làng Vân Cốc. Ngôi đình nằm gọn dưới hai mắt con cốc. Đình Vân Cốc thuộc xã Vân Trung, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang. Là nơi thờ Thành hoàng làng là đức thánh Cao Sơn Đại Vương. Đức Cao Sơn quê ở Động Lăng Xương, huyện Thanh Châu, phủ Gia Hưng, đạo Sơn Tây. Ông là con của hai cụ Nguyễn Hành và Đẩu Thị Loan, ông sinh ra là do bố mẹ được báo mộng-người thần đầu thai. Cho nên lớn lên ông rất thông minh võ nghệ, am hiểu thiên thư. Khi đất nước có giặc ngoại xâm, vua Duệ Vương đã hạ chiếu đi khắp nơi tìm người tài giỏi, đức hiền ra giúp nước. Ông liền về triều ứng tuyển và được trọng dụng ngay, ông được Tản Viên Sơn Thanh phong làm tiền đạo thượng tướng quân. Được nhân dân địa phương hết lòng giúp đỡ- thần nhân âm phù, chẳng mấy thời gian Ngài đã làm xong, khi gặc Thục tới nơi liền bị quân tướng của Ngài đánh cho tơi tả (sau đó phải cầu hoà với nhà Hùng). Giặc Thục bình xong, ông trở lại tráng khi khi trước đã đóng luỹ đồn để báo đáp lòng dân. Xong xuôi ông lại được lệnh hồi triều. Rồi vua cho ông về ăn lộc ở Thanh Hoá và ở đó triều đình có sắc phong cho ông làm Thượng Đẳng Phúc thần và sức cho các nơi mà khi trước đi đánh giặc đã qua được dân trợ giúp phải lập nơi thờ phụng mãi mãi về đức thánh Cao Sơn Đại Vương. Theo ngọc phả của Đình thì Trang Vân Cốc trước đây có một ngôi miếu cổ tại khu đất đình thông, sau đó chuyển rời về giữa làng. Ngôi đình hiện tại dựng năm Mậu Tý- triều Lê Cảnh Hưng (1788) do Dương Tướng Công – Tự Quốc Cơ hưng công xây dựng. Đình hiện còn 5 gian 2 trái 1 ống muống 2 gian, 3 gian hậu cung có sàn gỗ cao rộng. Trước đình còn 2 tấm bia vuông. Di vật hiện còn là 8 bức cửa võng vững chắc uy nghi, 4 đôi câu đối, 10 bức hoành phi, 2 sập thờ long phù hổ phục, 2 cỗ đài nước, 2 giá quán tẩy, 2 hòm sắc phong, 1 quyển sắc phong thần hiệu, 1 quyển ngọc phả , 1 cây hương đá, 1 hòm đựng bộ đòn bát cống, 2 xương quạt, 2 xương tàn lọng, 2 ngựa thờ lớn, 1 bộ chấp kích hơn 20 chiếc, một bộ bát bửu, một mui luyện, 1 long đình, 1 hương án cổ, 2 ngai thờ, 2 bài vị. Tất cả đều được sơn son thiếp vàng lộng lẫy. Một trống, một chiêng và một số cây đèn đá, giá nến… Cùng với chiến công chói lọi trên chiến tuyến sông Như Nguyệt, địa điểm lịch sử Núi Đồn là nơi riễn ra những trận chiến đấu vô cùng ác liệt của quân dân ta thời Lý chống quân xâm lược Tống xâm lược.Đây cũng là nơi đón đánh thắng lợi và truy đuổi kẻ thù dân tộc ra khỏi bờ cõi. Bởi sau trận quyết chiến lược thần tốc, dũng mãnh của quân dân ta vào tập đoàn quân do chánh tướng Quách Quỳ chỉ huy ở đây, âm mưu xâm lược của kẻ thù đã bị đập nát, Quách Quỳ cam chịu thất bại cay đắng. Nhằm đêm tối hạ lệnh rút tàn quân về nước, dẫm đạp lên nhau (như chính sử nhà Tống đã phải thừa nhận). Đình Vân Cốc đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng Di tích lịch sử, kiến trúc nghệ thuật quốc gia , ngày 21/01/1989). Nguồn: Cổng Thông Tin Điện Tử Thị Xã Việt Yên Tỉnh Bắc Giang
Bắc Ninh 3565 lượt xem
Đình Phúc Long thuộc xã Tăng Tiến, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang. Đình Phúc Long là trung tâm sinh hoạt tín ngưỡng và văn hoá truyền thống của nhân dân làng Phúc Long xưa cũng như nay. Đình làng là nơi thờ phụng của toàn dân, đồng thời cũng là trung tâm tổ chức lễ hội của làng trong các dịp tết, lễ thể hiện lịch sử lâu đời và truyền thống văn hiến của làng Phúc Long. Căn cứ vào thần tích khắc trên bia đá chiều vua Tự Đức, đồng thời theo truyền thuyết của nhân dân địa phương, cho thấy đình làng Phúc Long thờ các vị thần âm phù, linh ứng, giúp vào việc đánh giặc cứu nước, bảo vệ quê hương. Ngoài ra, nhân dân Phúc Long còn thờ Nhuệ Quận Công Lê Tướng Công, vị quan triều Lê đã có công giúp dân tu dựng lại chùa và đình làng Phúc Long. Đó là ngôi đình, chùa còn lại đến ngày nay. Nhớ ơn ông dân làng đã khắc bia ghi công đức của ông và thờ quan tướng công làm hậu thần, hàng năm cúng tế ông và ngày giỗ 10 tháng 7, gọi là giỗ đức cụ. Văn tế quan tướng công đọc trong ngày giỗ. Có chung tín ngưỡng là thờ Trời, Đất và Nước- những yếu tố gắn bó mật thiết đến cuộc sống của người dân làm nông nghiệp lúa nước. Giá trị của đình Phúc Long không chỉ ở niên điểm khởi dựng cổ xưa, trên 300 năm cách ngày nay, mà điểm chủ yếu là ở quy mô to lớn và kiểu thức kiến trúc độc đáo và nghệ thuật chạm khắc, trang trí tài nghệ, tinh xảo. Điều cuốn hút nhất ở đình Phúc Long là phần trang trí, trạm khắc trên các bộ phận kiến trúc: như trên các đầu dư, đẩy bẩy, ở các bức cuốn, ở cửa võng trước hậu cung đình, ở các mi môn, ở các yếm cột (hay còn gọi là côn tai cột), đều được trạm khắc các hình trang trí với nhiều đồ án khác nhau. Khác với nhiều đình khác, toàn bộ khung gỗ của đình Phúc Long đều để trần, không sơn son thiếp vàng, phô diễn tất cả sự tinh tế, tài khéo của những người thợ dựng đình. Điều rễ nhận biết ở kết cấu kiến trúc và nhất là phần chạm khắc, biểu lộ hai hiệp thợ mộc tham gia xây dựng ngôi đình. Vì vậy phong cách kiến trúc, nhất là phần chạm khắc, biểu lộ hai phong cách khác nhau, trạm khắc tinh tế, tỉa tót, đường nét trau chuốt, mềm mại. Song tất cả đều hoà quyện vừa thống nhất, vừa phong phú, đa dạng, phản ánh những nét chung nhất của nghệ thuật kiến trúc, trạm khắc thời Lê giai đoạn cuối thế kỷ XVII, mang đậm nghệ thuật dân gian: Hồn nhiên, phóng khoáng. Các hình trang trí phổ biến là chạm nối, chạm kênh bong các hình “tứ linh”, “tứ quý” với các biến thể rồng, nghê, phượng, mặt hổ phù, long hoá, lý hoá… vô cùng phong phú. Đình Phúc Long chính thức được Bộ Văn hoá và Thông tin công nhận là di tích lịch sử nghệ thuật cấp quốc gia năm 1993. Nguồn: Cổng Thông Tin Điện Tử Thị Xã Việt Yên Tỉnh Bắc Giang
Bắc Ninh 3458 lượt xem
Chùa Hàm Long (hay Long Hạm) thuộc khu Thái Bảo, phường Nam Sơn, thành phố Bắc Ninh, được khởi dựng từ thời Lý (khoảng thế kỷ XII). Theo con mắt dân gian thì chùa nằm ở thế hàm rồng, nghĩa là dưới hàm một con rồng lớn dài 9 khúc, đó chính là cả dãy Lãm Sơn. Đây là trung tâm Phật giáo lớn, tương truyền là chỗ tu hành của sư Dương Không Lộ. Tọa lạc trên diện tích đất hơn 9.000m2, chùa có vị trí cảnh quan đẹp, hòa hợp với thiên nhiên, được mệnh danh là danh lam cổ tự có lịch sử lâu đời, các công trình kiến trúc được thiết kế, trang trí theo lối truyền thống, chạm khắc tinh xảo, nghệ thuật. Ngày nay, Chùa Hàm Long là trung tâm sinh hoạt tâm linh của nhân dân địa phương và thập phương quanh vùng, nơi tôn thờ phật pháp, là nơi hướng chúng sinh đến với điều thiện tránh xa điều ác, sống từ bi hỷ xả. Ngôi chùa hiện nay có quy mô lớn gồm các công trình: cổng Tam Quan, Tam Bảo, nhà Tổ, nhà Mẫu, nhà Khách, nhà Tăng và các công trình phụ trợ. Tam bảo chùa được làm bằng gỗ lim, kết cấu hình chữ Đinh, gồm Tiền đường 7 gian, kết cấu vì nóc “chồng rường giá chiêng”, vì nách “kẻ ngồi cốn mê” và 3 gian Thượng điện kết cấu vì nóc “chồng rường giá chiêng”, vì nách “kẻ ngồi”. Chùa thờ 7 vị Tổ, thờ Mẫu, thờ ông Đỗ Trọng Vỹ, ông nổi tiếng là người thông minh hiếu học và sau trở thành vị quan thanh liêm, nhà giáo, nhà văn hóa, đặc biệt ông là người có công khởi dựng Văn Miếu Bắc Ninh. Sau khi về già ông về chùa Hàm Long tu trì, sau khi ông mất được thờ phụng tại đây. Hiện nay, chùa Hàm Long vẫn duy trì nghi thức gửi vong cho các vong linh mất vào các giờ hung, giờ phạm. Để tránh tai ương, tật ách, gia đình của vong linh thường gửi vong lên chùa Hàm Long để sớm được trì trú, phổ độ, để các vong linh sớm được vãng sinh, siêu thoát về cõi cực lạc. Các công trình kiến trúc trong khuôn viên Chùa được chạm khắc trang trí tinh xảo, nghệ thuật với một diện mạo khang trang tố hảo. Chùa có ngày hội vào ngày 14 tháng 2 âm lịch, ngoài ra trong năm còn các ngày như: lễ Phật Đản, lễ Vu Lan, tuần Rằm, Mùng một, dịp lễ hội truyền thống, Tết nguyên đán. Chùa cũng đón nhiều đoàn khách trong nước và nước ngoài, các lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước về thăm lễ Phật. Chùa được Bộ Văn hóa Thông tin xếp hạng di tích lịch sử văn hoá, ngày 18/01/1988. Nguồn: Cổng Thông tin điện tử tỉnh Bắc Ninh
Bắc Ninh 3390 lượt xem
Văn Miếu Bắc Ninh là 1 trong 6 văn miếu ở Việt Nam, có giá trị lịch sử, văn hóa, phản ánh truyến thống khoa bảng của vùng quê Kinh Bắc qua các thời kỳ dựng nước và giữ nước thuộc các triều đại phong kiến. Văn Miếu Bắc Ninh là niềm tự hào về truyền thống khoa bảng của quê hương và là một điểm du lịch hấp dẫn đối với du khách trong và ngoài tỉnh. Văn Miếu Bắc Ninh được xây dựng trên núi Phúc Sơn, thuộc khu 10 phường Đại Phúc, thành phố Bắc Ninh. Văn miếu được xây dựng trước thời Nguyễn (muộn nhất vào thời Lê), để thờ phụng và tế lễ “Đức Khổng Tử” - người được tôn vinh là “Thánh sư” hay “Vạn thế sư biểu” và Tứ phối - các chư hiền của đạo Nho là Nhan Hồi, Tăng Sâm, Tử Tư, Mạnh Tử (các vị được phối thờ với Khổng Tử). Tổng thể công trình Văn Miếu Bắc Ninh hiện nay gồm: Cổng Nghi môn, toà Tiền tế 5 gian 2 dĩ, 2 bên hồi Hậu đường là 2 toà Bi đình 5 gian 2 dĩ, 2 bên hồi Tiền tế là 2 toà Tả vu - Hữu vu, tại sân chính giữa cổng Nghi môn và toà Tiền tế dựng bia bình phong. Hàng năm, vào ngày rằm tháng Giêng, tại Văn Miếu tổ chức lễ dâng hương có sự tham gia của các đồng chí lãnh đạo tỉnh để tưởng niệm các bậc tiền nhân, cầu mong quốc thái dân an, tỉnh Bắc Ninh ổn định phát triển, sự nghiệp giáo dục ngày càng tiến bộ. Nơi đây cũng thường đón tiếp các Đoàn học sinh giỏi quốc gia, quốc tế của tỉnh Bắc Ninh đến dâng hương, báo công sau mỗi kỳ thi. Cổng di tích được xây dựng Tam môn, cột trụ lồng đèn, hai trụ giữa đình đắp phượng tạo thành trái giành, hai trụ bên đặt nghê chầu. Xung quanh lồng đèn, các ô chính đắp nổi kênh bong Tứ linh Tứ quý. Tấm bia đá (bia bình phong) dựng giữa sân Văn miếu “Bắc Ninh tỉnh trùng tu Văn miếu bi ký” (Bia ghi việc trùng tu Văn miếu Bắc Ninh); có kích thước lớn gần 10m2, được coi là bảo vật của Văn miếu. Trên tấm bia ca ngợi vai trò, ý nghĩa của Văn Miếu, cũng như tôn vinh những bậc hiền tài. Trung tâm di tích là tòa Tiền tế gồm 5 gian 2 dĩ, dựng trên nền bó gạch cao hơn sân 55 cm. Phía trước mở cửa bức bàn 3 gian giữa, hai gian bên trổ cửa hình chữ Thọ. Hai hồi tường xây gạch kiểu bình đầu dật cấp, nối cánh phong, cột trụ lồng đèn, đình trải giành. Bờ nóc xây chỉ, hai đầu đắp rồng hóa, chính giữa là đôi rồng chầu mặt nguyệt. Hậu đường kế tiếp sau Tiền đường và nối với nhau bằng một gian giải muống tạo thành chữ Công. Nhà Hậu đường 5 gian được đục chạm Tứ quý. Hậu đường là nơi tôn thờ Chu Công, Khổng Tử, Tứ Phối. Nối liền hai đầu hồi nhà Hậu đường, bên phải dựng nhà bia, bên trái nhà Tạo soạn, mỗi công trình 4 gian, dựng trên nền bó gạch thấp hơn Hậu đường. Kiến trúc theo lối kéo kìm, qua giang vợt. Hai nhà Tả vu, Hữu vu dựng dọc hai bên sân trước Tiền đường, mỗi dãy 4 gian, hai dĩ, kiến trúc đơn giản kiểu bình đầu bít đốc, tường xây gạch, mái lợp ngói mũi, mở cửa cánh ván gian giữa. Nét đặc sắc nổi trội trong số toàn bộ những giá trị còn tồn tại của Văn miếu Bắc Ninh chính là 15 tấm bia đá. Trong đó, 12 bia “Kim bảng lưu phương” được dựng năm 1889, lưu danh gần 700 vị đại khoa quê hương Kinh Bắc là những người làm rạng rỡ truyền thống hiếu học khoa bảng và có công trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, phát triển nền văn hóa Việt Nam. Nguồn: Cổng Thông tin điện tử tỉnh Bắc Ninh
Bắc Ninh 3382 lượt xem
Chùa Vĩnh Nghiêm, còn được gọi là chùa Đức La, là một ngôi chùa cổ tại làng Đức La, xã Trí Yên, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang. Chùa Vĩnh Nghiêm là ngôi chùa cổ, là nơi lưu giữ lại bộ mộc bản gốc duy nhất của Phật phái Trúc lâm. Đã được UNESCO trao Bằng công nhận 3000 mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm là di sản tư liệu ký ức thế giới. Chùa được công nhận là một trung tâm Phật giáo, nơi đào tạo tăng đồ cho cả nước, nơi phát tích Tam Tổ phái Thiền Trúc Lâm của Phật giáo Việt Nam. Năm 2015, chùa được Nhà nước Việt Nam công nhận là Di tích quốc gia đặc biệt. Chùa Vĩnh Nghiêm tọa lạc nơi hợp lưu của sông Lục Nam và sông Thương (gọi là ngã ba Phượng Nhãn). Chùa nhìn ra ngã ba sông, phía Lục Đầu Giang - Kiếp Bạc, vùng Cẩm Lý cửa ngõ ra vào núi Yên Tử. Bao quanh chùa là núi non trong đó có núi Cô Tiên. Bên kia sông là vương phủ của Trần Hưng Đạo, đền Kiếp Bạc. Tương truyền chùa Vĩnh Nghiêm được khởi dựng vào thời Lý (thế kỷ XI). Cuối thế kỷ XIII, (1010-1028) Phật hoàng Trần Nhân Tông cho mở mang, xây dựng nơi đây thành trung tâm Phật giáo lớn của thời Trần, đổi tên chùa là Vĩnh Nghiêm, gắn liền với sự ra đời và phát triển của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Với vai trò là một trong chốn tổ của thiền phái, chùa Vĩnh Nghiêm được xây dựng với quy mô kiến trúc bề thế, nhiều hạng mục, mang tính quy chuẩn, mẫu mực của kiến trúc chùa tháp truyền thống. Đây là ngôi chùa cổ có kiến trúc giàu bản sắc Phật Việt nhất mà không ngôi chùa nào trong vùng có được, xứng danh là một “đại danh lam cổ tự”. Trong chùa còn thờ Tượng Phật, tượng các vị Tổ dòng Trúc Lâm, tượng các vị sư Tổ sau này, tượng Hộ pháp, tượng La Hán… Trong chùa còn có chiếc mõ dài gần nửa mét, được sơn đen bóng, lỗ thoát âm có đề hai dòng chữ Phạn. Chùa Vĩnh Nghiêm xưa là nơi đào luyện tăng đồ Phật giáo nên là nơi tàng trữ để các bộ ván kinh xưa rộng tới 10 gian nhà. Đó là những bộ ván kinh có từ 700 năm nay, là kho sách cổ vô cùng quý giá, như: Sa di tăng Sa di lì tỷ khiêu lỵ (348 giới luật), bộ Yên Tử nhật trình từ thế kỷ 15 (quá trình hình thành phái Trúc Lâm), Hoa nghiêm sớ, Di đà sớ sao, Đại thừa chỉ quán, Giới kinh ni... Ngày nay có nhiều kệ ván in kinh sử vẫn còn tại chùa. Người xưa gọi đây là khắc in, minh chứng chùa Vĩnh Nghiêm từng thống lãnh 72 chốn tùng lâm. Hiện nay, kho mộc thư vẫn lưu giữ được 34 đầu sách với gần 3000 bản khắc, mỗi bản có hai mặt, mỗi mặt 2 trang sách khắc ngược (âm bản) khoảng 2000 chữ Nôm, chữ Hán. Những bản khắc đó vẫn được lưu truyền tại nước ta với từng nét chữ sắc xảo, tinh tế. Ngày nay, những giá trị đó vẫn còn giữ nguyên bản, không bị hao mòn giá trị. Diện tích chùa khoảng 1 ha, bao quanh chùa là lũy tre dày đặc. Hiện nay, chùa được tu tạo và tạo điều kiện thuận lợi cho du khách đến du lịch và lễ bái. Du khách có thể đi theo lộ trình như: cổng tam quan, đi sâu vào khoảng 100m nữa là bái đường hay còn gọi là chùa Hộ. Hai bên đường chùa được xây dựng những khóm thông khoảng tầm 1m để tạo thành tùng lâm. Trên sân chùa có một bia đá to, gồm 6 mặt dựng năm Hoằng Định thứ 7 (1606). Ngay trước mặt tấm bia cổ là vườn tháp mộ của 5 vị sư: Phù Lãng Trung pháp (hiệu Sa môn), Thông Duệ ứng Duyên, Thanh Quý, Tịnh Phương Sa môn, Thanh Hanh và một số tháp khác. Lễ hội chùa Vĩnh Nghiêm được tổ chức vào ngày 14 tháng 2 âm lịch. Nguồn: Cổng Thông Tin Điện Tử Tỉnh Bắc Giang
Bắc Ninh 3298 lượt xem