Di tích lịch sử

Việt Nam

Đình Triều Khê

Đình Triều Khê được xây dựng từ năm 1901 (Tân Sửu), thờ hai vị Thành Hoàng làng là Trần Triều Khâm Minh Thánh Vũ Hiển Đạo An Sinh Vương Trần Liễu và Trần Triều Anh Tông hoàng đế. Hằng năm vào ngày 11-12 tháng Giêng, người dân làng Triều Khê tổ chức lễ hội truyền thống đình - chùa Triều Khê để kính trình với hai vị Thành Hoàng làng về thành quả dân làng gặt hái được trong năm và tôn vinh công trạng to lớn của nhà Trần đã lãnh đạo nhân dân đánh thắng quân xâm lược Mông Nguyên giữ yên bờ cõi lãnh thổ thế kỷ XIII. Đồng thời, gửi gắm những nguyện cầu của nhân dân mong sức khỏe dồi dào, bình an, hạnh phúc, thành đạt để tiếp tục góp sức bảo vệ và xây dựng quê hương, đất nước. Cụm Di tích lịch sử - văn hóa đình - chùa Triều Khê được xếp hạng di tích cấp tỉnh năm 2006. Trải qua 122 năm tồn tại, đến nay ngôi đình đã xuống cấp nghiêm trọng. Để gìn giữ truyền thống văn hóa, sự tôn kính nơi thờ cúng Thành Hoàng làng, phát huy giá trị di tích gắn với quần thể Khu di tích Quốc gia đặc biệt nhà Trần tại Đông Triều, được sự cho phép của UBND tỉnh, tháng 6/2023, lễ khởi công tôn tạo Di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh đình Triều Khê được thực hiện. Sau 6 tháng thi công, dự án tôn tạo đình Triều Khê đã hoàn thiện giai đoạn 1 với tổng kinh phí trên 6,2 tỷ đồng từ nguồn xã hội hóa. Đình Triều khê được khánh thành và đi vào sử dụng sẽ tiếp tục đáp ứng nhu cầu sinh hoạt văn hóa tâm linh, tín ngưỡng, bày tỏ lòng thành kính, tri ân công đức to lớn của nhân dân đối với hai vị Thành Hoàng làng trong công cuộc bảo vệ, xây dựng quê hương, đất nước, đồng thời tạo dấu ấn văn hóa lịch sử đặc sắc của địa phương. Qua đó, góp phần tăng cường giáo dục truyền thống văn hóa lịch sử cho thế hệ trẻ, thúc đẩy phát triển du lịch văn hóa tâm linh tại địa phương. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Quảng Ninh.

Quảng Ninh 2830 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

CHÙA LA

Chùa La, tên chữ là Tam Thánh Tự, nằm ở xóm Thầu Đâu, thôn Cẩm Liên xã Cẩm La. Chùa được xây dựng vào Thế kỷ XVI, dưới thời nhà Nguyễn và là nơi sinh hoạt văn hóa của các tín đồ Phật tử. Chùa La còn lưu giữ nhiều hiện vật là các tác phẩm điêu khắc nghệ thuật tiêu biểu mang phong cách thời Nguyễn. Ngoài các giá trị văn hóa được lưu giữ qua các tác phẩm điêu khắc nghệ thuật và các đồ thờ tự, Chùa La là trung tâm sinh hoạt tín ngưỡng của dân làng, vừa là trung tâm sinh hoạt cộng đồng văn hóa làng xã. Với những chức năng đó, Chùa La vừa là nơi phục vụ tín ngưỡng tâm linh của dân làng vừa đóng vai trò gắn kết, quy tụ các giá trị văn hóa truyền thống, là nơi diễn ra các giá trị văn hóa cộng đồng với lễ hội mang tính dân gian. Hội Chùa La hằng năm diễn ra từ mùng 5 đến mùng 6 tháng Giêng âm lịch. Ngoài lễ bái, vãn cảnh chùa, nhân dân còn được dự các trò chơi như đánh đu, hát đúm, đánh cờ. Với những giá trị văn hóa trên, ngày 28/12/2006 UBND tỉnh quyết định xếp hạng Chùa La là di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh theo Quyết định số 4225-QĐ/UBND. Đây là một sinh hoạt văn hóa của làng quê góp phần làm giàu bản sắc văn hóa dân tộc. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Quảng Ninh.

Quảng Ninh 2777 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Chùa Lái (còn gọi là Linh Ngai Tự)

Chùa Lái (còn gọi là Linh Ngai Tự) là một ngôi chùa nằm trên địa bàn thôn Vị Khê - xã Liên Vị, thị xã Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh, địa dư hành chính thuộc phường Phong Cốc. Chùa Lái tên chữ là Linh Ngai tự (chùa Linh Ngai), Ngai là thế tay ngai. Hai chữ Linh Ngai được giải thích là do sông Ván tỏa ra thành hai nhánh sông Cái Đỗng và sông Vị Khê tạo thành thế tay ngai ôm trọn vùng đất này, còn gọi là xứ Linh Ngai. Tên của chùa xuất phát từ tên gọi của làng. Làng Lái xưa là bãi bồi ở cửa sông Bạch Đằng. Dân ở đây quanh năm sống bằng nghề chài lưới, tối đến nghỉ ngay trên thuyền của họ. Khoảng thời vua Lê - niên hiệu Hồng Đức, Tiên công Phạm Thanh Lảnh quê ở Quang Lang chiêu tập những người dân vạn chài trong khu vực lại để quai đê, lấn biển, làm nhà, dựng cửa trên bờ, lập thành làng gọi là làng Lái. Khi cuộc sống đông vui, họ đã xây dựng chùa để đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng và lấy tên làng làm tên thường gọi cho chùa. Hai chữ "chùa Lái" cho đến nay vẫn không thay đổi và đã ăn sâu vào tâm thức của người dân nơi đây. Chùa Lái được xây dựng khá sớm, từ giữa thế kỷ XVI. Ban đầu làm bằng tranh tre, vách đất để thờ Phật. Đến năm Hưng Trị thứ 2 (1589), chùa được các hội chủ sĩ ni và tín thí hai xã Vị Dương, Vị Khê góp quả phúc trùng tu, tạo tác tượng Phật, xây dựng lại khang trang hơn. Chùa nằm trong khu đất có tổng diện tích 5.767 m², xung quanh là cánh đồng lúa phì nhiêu, màu mỡ, tấm bia "Linh Ngai tự bi ký" khắc năm 1589 có đoạn viết: "Chùa Linh Ngai được tọa lạc trên khu đất Linh Ngai, thôn Vị Khê, xã Vị Dương, huyện Yên Hưng, bốn phía xung quanh là ruộng Phật. Xưa kia cổ nhân đã dựng chùa, cấy ruộng, nhìn thấy một khu lâu đài trúc mọc tốt tươi như đường dẫn tới bát nhã, là vẻ giàu có vững vàng của đất nước, là thắng cảnh đệ nhất của xứ Hải Đông... Sau khi xây dựng lại, chùa Linh Ngai tráng lệ, tượng Phật tôn nghiêm, nhân dân kính thờ. Đây là bờ cõi rộng lớn ở trấn Tây, là thắng cảnh của nước Nam...". Tiếng lành đồn xa, sau khi chùa Lái hoàn thành thì nơi đây càng trở nên đông đúc, nhộn nhịp, linh thiêng, phật tử quy y, tăng ni trụ trì, tất cả đều hướng lòng thiện vào cõi Phật, góp công, góp của mong quả phúc đời đời cho con cháu. Chùa đã qua nhiều lần trùng tu, sửa chữa vào các năm: Vĩnh Hựu thứ 2 (1716), Thành Thái thứ 19 (1907), Khải Định thứ 3 (1918), Khải Định thứ 10 (1925), Bảo Đại thứ 3 (1928). Chùa Lái đã trải qua bảy lần sư trụ trì, các sư đều có lòng mộ đạo. Có những nhà sư còn tham gia hoạt động cách mạng, được Nhà nước tặng thưởng Huân, Huy chương trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Đến nay, mặc dù thời gian đã làm cho cảnh cũ chùa xưa thay đổi nhiều, nhưng nhìn tổng thể chùa Lái vẫn giữ được nét cổ kính của ngôi chùa cổ: năm gian chùa chính, năm gian nhà tổ, vườn, tháp được bố cục theo kiểu tiền Phật hậu Tổ. Chùa quay hướng tây bắc, tuy không theo hướng của các ngôi chùa Việt thường thấy, nhưng lại là một thế rất đẹp, có dòng sông Ván chia hai nhánh Cái Đỗng, Vị Khê ôm trọn vùng đất như thể tay ngai vững chãi. Hai nhánh sông này uốn lượn mềm mại như thể hai con rồng đang vờn nước quanh chùa (lưỡng long vờn Thủy). Mặt khác, khi triều lên, nước ở biển qua hai dòng sông Cái Đỗng và Vị Khê hội tụ và gặp nhau ở sông Ván (trước cửa chùa). Khi triều xuống, nước ở dòng sông Ván lại tỏa ra hai sông Cái Đỗng, Vị Khê để chảy ra biển. Cứ ngày lại ngày, tỏa ra rồi lại tụ vào cửa dòng nước theo sự vận hành của trái đất như thể bánh xe luân hồi của đạo Phật. Chùa Lái hiện còn lưu giữ được 125 hiện vật nguyên vẹn, trong đó có 6 pho tượng gỗ được tạc vào thời Mạc (3 pho Tam Thế, 1 pho A di dà, 1 pho Quan Âm chuẩn đề, 1 pho Thích Ca Mâu Ni), 1 tấm bia đá thời Mạc được làm vào năm Hưng Trị thứ 2 (1589), 1 cây hương đá năm Vĩnh Thịnh thứ 12 (1716), 28 pho tượng được tạc vào thời Nguyễn (2 pho Quan Thế Âm, 4 pho Thiên Vương, 1 pho Di Lặc, 2 pho Tuyết Sơn, 1 pho Thích Ca sơ sinh, 1 pho Đức Ông, 2 pho trợ thủ của Đức Ông, 1 pho tượng Mẫu, 7 pho tượng Cô, Cậu..., 6 tấm bia đá, 1 tòa Cửu long bằng đồng) và một chuông đồng to thời Nguyễn đúc năm Thành Thái thứ 19 (1907) cùng nhiều đồ thờ tự thời Lê, Nguyễn có giá trị. Tương truyền, bên trong khuôn viên chùa có một đường hầm ngầm dưới lòng đất để cất giấu nhiều thư từ, vũ khí và nơi ẩn náu của cán bộ cách mạng những năm kháng chiến chống Pháp. Với những giá trị lịch sử, văn hoá, chùa Lái đã được Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh công nhận là Di tích kiến trúc nghệ thuật theo Quyết định số 1870/QĐ-UBND, ngày 27-7-2000. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Quảng Ninh.

Quảng Ninh 2871 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Chùa Yên Mỹ - Phúc Khánh Tự

Chùa Yên Mỹ hay còn được gọi là chùa Phúc Khánh nằm sâu trong làng Từ Xá, nay là thôn Tân Tiến (xã Lê Lợi, thành phố Hạ Long). Đây được đánh giá là một trong những ngôi chùa cổ còn giữ được nhiều nét độc đáo cho đến ngày hôm nay. Theo hồ sơ di tích thì chùa được xây dựng khoảng cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX. Đến năm Tự Đức thứ 8 (1854), cai phó tổng hương lý dịch cùng với nhà sư trụ trì chùa đã cho sửa lại hậu cung. Bà Đồng Thị Diều, một người dân trong thôn đã ứng xuất 30 quan tiền cộng với 3 sào ruộng của gia đình để làm kinh phí chi dùng cho việc sửa chữa chùa. Từ đó về sau, chùa còn trải qua nhiều lần tu sửa nữa, một lần vào thời Thành Thái thứ 16, một lần vào thời Bảo Đại thứ 6... Chùa Yên Mỹ tọa lạc trên một khu đất cao với địa thế vô cùng đắc địa, hội tụ linh khí của đất trời. Chùa quay hướng Nam, hướng Phật pháp “Thánh nhân nam diện trị thiên hạ” nghĩa là thánh nhân quay mặt hướng nam mà nghe lời tâu bày của thiên hạ. Phía trước là hai ngọn núi chầu và một con sông ở giữa đổ ra sông Cửa Lục. Phía Bắc, phía Đông giáp khu nhà dân, phía Tây giáp ruộng. Địa thế này theo phong thuỷ có thuỷ tụ ở trước mặt, phía sau có hậu chẩm, bên phải có tả phù, bên trái có hữu bật, là thế đất lý tưởng mà không phải ngôi chùa nào cũng có. Chùa được thiết kế theo kiểu chữ đinh (giống chữ T), toà tiền đường gồm 3 gian, phía sau là hậu cung gồm 2 gian chạy dọc. Trước kia, chùa có một hệ thống nhà hậu Phật, nhà Tăng và các công trình kiến trúc khác tương đối bề thế và quy mô. Trải qua thời gian và chiến tranh, đến nay chùa chỉ còn có nhà tiền đường và hậu cung. Chùa hiện đã được xây dựng lại nhưng vẫn giữ được kiến trúc truyền thống trên nền kết cấu cũ. Trải qua gần 2 thế kỷ, đến nay chùa Yên Mỹ vẫn còn giữ được một hệ thống tượng Phật, đồ thờ tương đối đầy đủ, trong đó có 23 pho tượng gỗ, 1 pho tượng thạch cao và 1 pho bằng đá. Các pho tượng được chạm khắc tinh vi mang đậm phong cách chạm nông thời Nguyễn. Các bộ tượng Tam Thế, Thích Ca sơ sinh, bộ tượng Ngọc Hoàng, Nam Tào, Bắc Đẩu, tượng Ananđa, Ca Diếp, Thái Thượng Lão Quân, Quan Âm Bồ Tát ... mỗi pho tượng đều mang một dáng dấp, phong cách riêng. Ngoài tòa chính thờ Phật, hiện nay chùa Yên Mỹ còn được xây dựng thêm nơi thờ Mẫu với kiến trúc cũng gần tương tự với nơi thờ Tam bảo. Khuôn viên chùa cũng được mở rộng với tổng diện tích khoảng 1000m² bao gồm sân vườn và các công trình phụ trợ khác. Chùa Yên Mỹ đã được UBND tỉnh công nhận là di tích lịch sử văn hoá cấp tỉnh vào năm 1999 và là một điểm đến tâm linh được nhiều du khách lựa chọn khi đến với xã Lê Lợi, thành phố Hạ Long. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Quảng Ninh.

Quảng Ninh 3259 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Đình chùa Hoàng Xá

Đình chùa Hoàng Xá hay còn gọi là đình Nhị. Trước đây xã Hoàng Xá có hai ngôi đình, đình ở xóm dưới được gọi là đình Hạ hay đình Nhị, bên trái đình có chùa tên chữ là Hoàng Hoa tự. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đình chùa Hoàng Xá là căn cứ cách mạng, nơi đã diễn ra các trận giao tranh quyết liệt giữa ta và địch. Năm 1954, đơn vị cuối cùng của giặc đã rút khỏi đất Đông Triều. Để tưởng nhớ các anh hùng liệt sỹ trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, chính quyền đã xây dựng đại tưởng niệm tại nơi đây. Hiện nay đình Hoàng Xá thờ Ngũ vị Cao sơn Đại vương qua các triều vua được sắc phong làm thành hoàng của làng là: Đương cảnh Ngũ lôi nội đình đại vương; Đương cảnh Thượng đình đại vương; Đương cảnh thần hoàng đại vương; Hồng cư sỹ đại vương; Lương Hồng Châu Ngọc Thị Nương. Cụm di tích đình chùa Hoàng Xá gồm các công trình: tam quan; đình; chùa và đài tưởng niệm liệt sỹ. Hiện nay, đình chùa Hoàng Xá đang trong quá trình bảo tồn, tôn tạo. Sau nhiều lần trùng tu, năm 2001 đình được xây dựng lại trên nền móng cũ, kiến trúc chữ đinh (J) gồm ba gian tiền đường và một gian hậu cung, lợp ngói tây. Chùa tôn tạo năm 1997, cũng có kiến trúc chữ đinh (J), ba gian tiền đường và một gian hậu cung. Đài tưởng niệm liệt sỹ xây dựng năm 1997 giữa đình và chùa. Trải qua thời gian và chiến tranh, tượng phật và đồ thờ tự trong đình, chùa hỏng và bị thất lạc nhiều. Hiện nay, còn tổng số 15 tấm bia đá, trong đó có 4 bia mang niên hiệu Cảnh Hưng, triều vua Lê Hiển Tông (1740-1786), 11 bia mang niên hiệu các vua triều Nguyễn. Do để lau ngày ngoài trời nên các bia trên đã mòn, chữ mờ, khó đọc và còn rất nhiều tảng đá kê chân cột còn nguyên vẹn hoặc nhiều tảng đá đã bị vỡ. Đây là những bằng chứng khẳng định dấu ấn văn hóa của ngôi đình chùa cổ ở Hoàng Xá. Lễ hội đình chùa làng Hoàng Xá được tổ chức trong 2 ngày 9-10 tháng Giêng hàng năm. Ngoài ra còn có ngày Thượng điền, Hạ điền, các tuần rằm, mùng một, các ngày lễ Phật… đều được dân làng dâng lễ cúng. Tại lễ hội còn diễn ra các trò chơi dân gian và hoạt động thể thao như kéo co, thi đấu bóng đá thu hút đông đảo nhân dân và du khách tham dự. Với giá trị của cụm di tích đình chùa Hoàng Xá, ngày 28/12/2016, Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh đã ban hành Quyết định số 4423/QĐ-UBND, xếp hạng Đình, Chùa Hoàng Xá là di tích lịch sử cấp Tỉnh. Hiện nay đình chùa Hoàng Xá đang trong quá trình bảo tồn tôn tạo, rất cần sự quan tâm công đức của Phật tử gần xa và các nhà hảo tâm để cụm di tích này được khang trang, tố hảo. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Quảng Ninh.

Quảng Ninh 3237 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Chùa Nhuệ Hổ ( Chùa Quảng Phúc)

Chùa Nhuệ Hổ có lịch sử tồn tại khoảng 400 năm. Như hệ thống bia đá trùng tu của chùa còn lưu giữ được cho thấy, ngày 20 tháng 2 năm Chính Hoà thứ 17 (1696) chùa đã được trùng tu sửa chữa. Như vậy chí ít chùa phải có từ trước thời điểm này. Theo những người già kể lại, tuy là chùa làng song chùa Nhuệ Hổ luôn được quan viên bản thôn quan tâm công đức, tu sửa. Bia công đức còn ghi lại cuối thế kỷ 17 nhiều người dân dâng tiền, đất cúng tiến công đức vào chùa. Năm 1786, quan viên Nhuệ Hổ đóng góp thay cũ đổi mới, trồng nhiều cây cối cho cảnh chùa thêm thoáng mát. Sư thầy Hải Nha, người Quỳnh Côi, Thái Bình đã cúng tiến 7 sào ruộng để làm ruộng hương hoả. Ngày 15 tháng 12 năm Minh Mệnh thứ 14 (1833), hương lão, nhân dân Nhuệ Hổ cùng sư trụ trì bỏ vào 15 chuỗi tiền xanh tô thếp tượng phật... Bởi vậy trong lịch sử chùa Nhuệ Hổ đã từng có quy mô to rộng, khang trang, bao gồm nhà bái đường, nhà tổ, nhà mẫu, nhà tăng, nhà sắp lễ, nhà bếp, vườn tháp, vườn bia, tam quan, sân chùa, ruộng chùa, vườn cây ăn quả của nhà chùa... Chùa được toạ lạc trên khu đất rộng, xung quanh là cánh đồng lúa toả hương lúa ngan ngát quanh năm. Ngày ngày chùa không lúc nào vắng tiếng chuông ngân, làm cho cảnh chùa trang nghiêm, ấm cúng. Tuy nhiên, trải qua bao thăng trầm của lịch sử, một thời gian chùa đã bị hư hỏng nhiều. Với lòng tín tâm, coi trọng ngôi chùa thiêng của làng, đến năm 1995 phật tử gần xa công đức, xây dựng lại chùa theo mô hình chùa cũ. Đến nay chùa vẫn giữ được nét cổ kính, trầm mặc của một ngôi chùa cổ với kiến trúc gồm bái đường theo kiểu chữ đinh (T), 5 gian tiền đường, gian hậu cung, nhà bếp, vườn bia, tháp và đình thờ thành hoàng làng mới xây theo kiểu tiền phật, hậu thần. Hiện chùa Nhuệ Hổ còn lưu giữ được 98 hiện vật cổ xưa. Trong đó quý nhất là hệ thống tượng phật rất độc đáo, gồm 15 pho tượng được làm bằng chất liệu đất nung từ thời Lê. Theo sư thầy trụ trì chùa, Thích Thanh Hải, đây là bộ tượng đất nung còn nguyên vẹn hiếm hoi trong hệ thống tượng phật bằng đất nung tại các chùa Quảng Ninh. Các pho tượng đều được chạm khắc tỉ mỉ với đủ các tư thế, hình dáng, nét mặt, thể hiện nội tâm khác nhau. 3 pho tượng Tam Thế, 1 pho Adiđà cao 145cm, vai rộng 60cm. Tuy đã bị hỏng phần đầu và vai bên phải, song đây vẫn được coi là pho tượng có kích thước lớn nhất trong các pho tượng Adiđà ở Quảng Ninh. 4 pho tượng Tứ Thiên Vương, 1 pho Quan Âm, 1 pho Tuyết Sơn, 2 pho Quan Âm Bồ Tát, 1 pho Thích Ca sơ sinh, 1 pho tượng Hộ Pháp. 4 pho tượng khác được làm vào thời Tây Sơn, 2 pho tượng được làm vào đầu thời Nguyễn. Ngoài ra chùa Nhuệ Hổ có còn hệ thống bia đá giá trị được sắp xếp đúng ngôi vị cùng nhiều đồ thờ tự cổ, khiến ngôi chùa càng tăng thêm vẻ cổ kính. Trong đó bia đá có niên đại lâu nhất làm năm Minh Mệnh thứ 14 (1833) và 1 bia đá làm năm Minh Mệnh thứ 20 (1839). Chùa Nhuệ Hổ mở hội từ ngày 20 đến 23 tháng giêng hằng năm. Vào ngày hội tại đây diễn ra nhiều trò chơi dân gian, nhiều đoàn tế từ khắp nơi đến cúng tế, dâng hương. Những năm gần đây chùa Nhuệ Hổ thu hút đông đảo du khách thập phương đến dâng hương, thăm thú cảnh quan chùa và tham gia các hoạt động hội. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Quảng Ninh.

Quảng Ninh 2939 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Đình Mỹ Cụ

Di tích lịch sử đình Mỹ Cụ toạ lạc tại Khu Mỹ Cụ 1, phường Hưng Đạo, thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh. Theo Thần tích-Thần sắc làng Mỹ Cụ, tổng Mễ Sơn, huyện Đông Triều, đình làng Mỹ Cụ thờ tám vị Thành Hoàng làng là: (1).Tam Giang Khước Địch (tên húy là Trương Hát), (2). Kiêm Tri Tôn Đạo, (3).Cao Sơn Cây Mét, (4). Cư Sĩ Tôn thần, (5). Cao Sơn Đống Giác, (6). Minh Mẫn chi thần, (7). Cao Sơn Cây Vy, (8). Ngọc Trinh công chúa. Cũng theo thần tích thần sắc thì đình Mỹ Cụ có 14 đạo sắc phong của các đời vua phong cho các vị Thành hoàng được thờ phụng ở đình, riêng ba vị Thần làng là Cao Sơn Cây Mét, Cao Sơn Đống Giác, Cao Sơn Cây Vy là những vị Nhiên thần (các vị thần tự nhiên) mang tính chất địa phương, được thờ với quan niệm "Vạn vật hữu linh đa thần giáo", không được ban cấp sắc phong. Việc tôn vinh, thờ phụng các vị thành hoàng vừa là nhân thần, vừa là Nhiên thần tại đình Mỹ Cụ đã tạo nên nét riêng khác biệt giữa làng Mỹ Cụ với các địa phương khác trong tỉnh. Đình Mỹ Cụ quay hướng Tây, kiến trúc chữ Đinh và được xây dựng theo kiến trúc truyền thống của đình làng Việt gồm Bái đường và Hậu cung. Sân đình được lát gạch đỏ. Từ sân bước lên Chính điện phải qua hai bậc thềm bằng đá xanh (cũng là bậc thềm của đình trước đây) và một khoảng hiên rộng cũng được lát gạch đỏ. Đình hiện còn các di vật Thần tích - Thần sắc làng Mỹ Cụ, kiệu bát cống, kiệu long đình, các bài vị, hòm đựng sắc phong… là những căn cứ khoa học quan trọng cho thấy sự xuất hiện, tồn tại của đình Mỹ Cụ trong lịch sử. Những di vật ấy không chỉ cho thấy được quy mô, tầm quan trọng của di tích, sự quan tâm của các triều đại phong kiến Việt Nam đối với vị Thần Thành hoàng được thờ ở di tích mà còn chứa đựng những thông tin về quá trình hình thành, phát triển của di vật và di tích cũng như về điều kiện kinh tế, xã hội trong một giai đoạn phát triển nhất định của địa phương. Các bài vị hiện còn ở đình Mỹ Cụ là những di vật quý, mang tính đặc sắc, riêng biệt, đặc trưng của nghệ thuật tạo hình thời Nguyễn, các đường nét chạm trổ có tính thẩm mỹ cao mà ít các di tích khác trên địa bàn toàn tỉnh có được. Theo Thần tích - Thần sắc làng Mỹ Cụ: Hàng năm, đình Mỹ Cụ tổ chức tế lễ vào các ngày mùng 10 tháng Giêng và mùng một tháng tư (âm lịch). Hiện nay, nhân dân làng Mỹ Cụ chỉ còn duy trì lễ hội đình Mỹ Cụ vào ngày mùng 9 tháng Giêng (âm lịch) hàng năm. Lễ hội đình được tổ chức gồm phần lễ và phần hội. Lễ hội đình Mỹ Cụ là một nét đẹp văn hóa với nhiều nghi lễ, trò chơi sống động của người dân. Mỗi dịp lễ hội là cơ hội để nhân dân tham gia sáng tạo và hưởng thụ văn hóa, ôn lại và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống trong cuộc sống đương đại. Với những giá trị đó, di tích lịch sử đình Mỹ Cụ, xã Hưng Đạo, thị xã Đông Triều đã được xếp hạng di tích cấp tỉnh tại Quyết định số 606/QĐ-UBND ngày 09/3/2023 của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh. Việc xếp hạng di tích cấp tỉnh đối với di tích đình Mỹ Cụ tạo thêm cơ sở pháp lý cho việc quản lý, bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị di tích góp phần bảo tồn những giá trị văn hóa phong tục tập quán của nhân dân, bảo vệ những giá trị lịch sử trong quá trình hình thành và phát triển của di tích, góp phần giáo dục truyền thống “uống nước nhớ nguồn”. Nguồn Sở Văn hóa và thể thao tỉnh Quảng Ninh.

Quảng Ninh 2760 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Đình Bình Lục

Đình Bình Lục nằm ở khu Bình Lục Hạ, phường Hồng Phong, thờ Khâm Minh Thánh Vũ Hiển Đạo An Sinh vương Trần Liễu, thân phụ của Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn. Các văn bia trong khuôn viên di tích đều là bia hậu thần, trong đó bia có niên đại sớm nhất là năm Chính Hòa thứ 17 triều Lê (1696), cho thấy đình được xây dựng trước năm này. Đình Bình Lục là một trong những ngôi đình được xây dựng sớm nhất tại vùng Đông Bắc, mang đậm phong cách kiến trúc đình làng thời Lê Trung Hưng. Các dấu vết kiến trúc và di vật cho thấy đình từng được trùng tu dưới thời Nguyễn. Theo lời kể của các cụ cao tuổi, đến giữa thế kỷ XX, đình xuống cấp nghiêm trọng nhưng do điều kiện kinh tế khó khăn, không thể trùng tu. Vào những năm 70 - 80 của thế kỷ XX, đình bị cháy và sụp đổ hoàn toàn. Năm 1995, nhân dân đã xây dựng một ngôi đình nhỏ, kiến trúc đơn sơ trên nền hậu cung đình cổ để thờ cúng và phục vụ nhu cầu tín ngưỡng tâm linh của cộng đồng. Ngôi đình nhỏ này tồn tại đến nay. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Quảng Ninh .

Quảng Ninh 2897 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Đền thờ Đức Thánh Hang Son

Đền thờ Đức Thánh Hang Son thuộc quần thể di tích lịch sử văn hóa danh thắng, cách mạng có giá trị nổi bật trên địa bàn xã Yên Đức như núi Đống Thóc, núi Con Chuột, núi Con Mèo, núi Canh, Hang 73, chùa Cảnh Huống, Thiên Long Uyển... Các di tích trên đã được đưa vào quản lý và xếp hạng di tích các cấp. Theo truyền thuyết và lịch sử ghi chép sự hình thành Đền thờ Đức Thánh Hang Son cho thấy, tương truyền có một chàng trai tên là Phạm Chấu, khôi ngô tuấn tú, hết mực thông minh, làm mưa cứu giúp dân, sau đó hóa thành cá chép trôi theo dòng sông Ma về động Hang Son, báo mộng cho chức sắc làng Yên Khánh và Quì Khê (Quảng Yên) đến Hang Son tìm. Để tưởng nhớ công ơn, nhân dân hai làng đã thờ Thánh ở trong Hang Son và gọi là Đức Thánh Hang Son. Đền thờ nằm trong mối liên hệ tương quan với Cụm di tích lịch sử, văn hóa và danh thắng Hang Son thuộc phường Phương Nam, thành phố Uông Bí. Đền được khởi dựng từ thời Trần, tại đây còn được thờ Phật và thờ Mẫu, đây là sự kết hợp giữa Phật giáo với sự thiêng liêng trong tín ngưỡng thờ Thần, thờ Mẫu của người Việt. Đền được xây trên gò đất cao hơn so với các công trình xung quanh. Phía Tây là núi Thung, phía Đông là núi Canh, phía trước Đền là cánh đồng lúa rộng lớn. Hiện vật gốc của đền hiện nay có bát hương đá đời vua Lê Hiển Tông niên hiệu Cảnh Hưng năm 1772; 5 bản sắc phong được phục chế của các triều vua Nguyễn gồm Tự Đức, Đồng Khánh và Duy Tân sắc cho bốn vị Thành Hoàng làng trong đó có vị thứ ba là Đức Thánh Hang Son. Ngoài ra tại đây còn có các bản ghi chép Thần tích, Hương ước của làng và các cấu kiện đá trong khuôn viên sân, thềm bậc và bó nền... Những hiện vật, di vật và tư liệu đó đã minh chứng cho quá trình tồn tại của đền, cho thấy quy mô và sự quan tâm của các triều đại phong kiến trước kia. Trải qua thời gian, sự khắc nghiệt của thiên nhiên, chiến tranh tàn phá…ngôi đền chỉ còn lại phế tích. Năm 1992, nhân dân trong xã đã cùng nhau quyên góp, dựng lại ngôi đền trên nền cũ, sau này ngôi đền tiếp tục được tu bổ, chỉnh trang và giữ nguyên hiện trạng cho đến ngày nay. Với những giá trị nổi bật của di tích, ngày 09/3/2023, UBND tỉnh Quảng Ninh đã ban hành Quyết định xếp hạng di tích cấp tỉnh đối với Đền thờ Đức thánh Hang Son. Việc Đền thờ Đức thánh Hang Son được xếp hạng di tích cấp tỉnh là niềm vinh dự, tự hào của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân xã Yên Đức đồng thời qua đó góp phần vào việc tuyên truyền, vận động nhân dân địa phương nâng cao ý thức bảo vệ và tham gia bảo tồn, phát huy giá trị Đền thờ nói riêng và các cụm di tích danh thắng khác trên địa bàn nói chung, làm cho quần thể di tích xứng tầm với vị thế của vùng đất di sản văn hóa. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Quảng Ninh.

Quảng Ninh 3147 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Cụm di tích lịch sử danh thắng Vũng Đục

Khu di tích và danh thắng Vũng Đục thuộc phường Cẩm Đông (TP Cẩm Phả), rộng khoảng 10.000m2, là một quần thể gồm đền, đài, hang động, quy tụ tại núi Bàn Cờ, nằm bên bờ vịnh Bái Tử Long thơ mộng. Đây là nơi ghi nhớ công ơn của những chiến sĩ cách mạng đã ngã xuống cho sự nghiệp giải phóng Vùng mỏ, nơi giáo dục lòng yêu nước, tinh thần đấu tranh anh dũng quật cường của cha ông. Người dân nơi đây kể lại rằng, sở dĩ khu di tích, danh lam thắng cảnh này có tên gọi là Vũng Đục là bởi trước kia, đây là một khu vực có nhiều vũng sâu, nước xoáy, là nơi quần tụ của hàng ngàn loài sinh vật biển và một điều đặc biệt là ở đây có rất nhiều cá đục. Có lẽ vì thế người dân vạn chài xưa đã đặt tên cho khu vực này là Vũng Đục. Trong những năm 1948-1949, thực dân Pháp đã bắt hàng trăm anh chị em là đoàn viên công đoàn, thanh niên cứu quốc và những người dân khu mỏ yêu nước, chúng cho vào bao tải, dùng thuyền chở ra Vũng Đục và dìm sống họ xuống biển. Trong số họ có người là lãnh đạo cốt cán, có người là quần chúng yêu nước, một số người tuổi đời còn rất trẻ, có người còn đang tuổi đôi mươi tràn đầy sức sống. Để tưởng nhớ và ghi nhận sự dũng cảm của những công nhân mỏ ưu tú, đã chịu đựng những đòn tra tấn dã man và chấp nhận cái chết để bảo vệ tổ chức Đảng, bảo vệ phong trào cách mạng, Đảng bộ và nhân dân TP Cẩm Phả đã xây dựng đài tưởng niệm ngay dưới chân núi Bàn Cờ, bên cạnh nơi mà thực dân Pháp đã dìm các chiến sĩ xuống biển. Đài tưởng niệm được xây dựng khá cao, ốp đá granit, mặt gắn những bức phù điêu. Đứng trên đài tưởng niệm Vũng Đục, du khách có thể phóng tầm mắt quan sát Vịnh Bái Tử Long xinh đẹp, tàu bè ra vào bến Vũng Đục tấp nập. Ngay cạnh đài tưởng niệm, du khách sẽ được tham quan ngôi đền Vũng Đục được quy hoạch trong khu vực sát Tượng đài Vũng Đục. Ngôi đền được xây dựng khá khang trang, quy mô, với diện tích rộng khoảng 3.000m2 trên khuôn viên 11,5ha, gồm 3 gian 2 chái với thiết kế hình chữ đinh, khung bằng gỗ tường gạch, cổng tam quan, có 2 nhà đối xứng hai bên là Tả vu và Hữu vu dành làm nơi sắp lễ, 2 nhà bia để ghi sự kiện và công lao đóng góp của các cá nhân và tổ chức có công xây dựng đền. Công trình đền thờ các liệt sĩ Vũng Đục là nơi quy tụ linh hồn các liệt sĩ đã ngã xuống cho sự nghiệp giải phóng Vùng mỏ, nơi ghi nhớ công ơn của những chiến sĩ cách mạng và là nơi giáo dục lòng yêu nước của các thế hệ công dân TP Cẩm Phả về tinh thần đấu tranh anh dũng quật cường của cha ông. Đồng thời, ngôi đền cũng gợi nhớ một thời kháng chiến hào hùng mà oanh liệt của lớp lớp thế hệ quân và dân Vùng mỏ kiên cường. Cùng với ý nghĩa về lịch sử, khu Vũng Đục còn được thiên nhiên ưu ái ban tặng một vẻ đẹp tự nhiên hiếm nơi nào có được. Đến đây, du khách còn được chiêm ngưỡng những cảnh đẹp thiên nhiên độc đáo. Đó là hệ thống khu hang động Vũng Đục nằm ngay cạnh khu đền và đài tưởng niệm Vũng Đục. Hệ thống hang động Vũng Đục được liên kết bởi 5 hang động hoành tráng và kỳ vĩ với các tên gọi như: Động Thiên Đăng - Long Vân - Ngỡ Ngàng - Hang Kim Quy - Hang Dơi. Để lên được các hang động du khách có thể đi men theo sườn núi. Đi sâu vào trong các hang động này là các rèm đá rủ xuống, uốn lượn mềm mại, đặc biệt là lớp nhũ đá ánh bạc khá dày, tạo ra những hình thù khá thú vị theo trí tưởng tượng phong phú của con người như: Con thiên nga, con voi, đài sen... Khi các luồng ánh sáng chiếu từ phía bên ngoài vào càng tôn thêm vẻ đẹp lung linh của động. Trong hành trình khám phá, một trong những hang động mà du khách không nên bỏ qua, đó là động Thiên Đăng, nằm ở độ cao trên 46m so với mực nước biển, động có diện tích khoảng 300m2. Từ động Thiên Đăng, du khách có thể phóng tầm mắt chiêm ngưỡng vẻ đẹp của Vịnh Bái Tử Long, xa xa là những đảo đá nhấp nhô trên mặt nước, những con tàu ra vào bến Vũng Đục. Một điều khá thuận tiện cho du khách khi đến với khu di tích Vũng Đục, đó là ngay cạnh khu di tích là bến tàu Vũng Đục. Từ đây du khách có thể lên tàu tham quan một số tuyến đảo du lịch trên Vịnh Bái Tử Long... Khu di tích và danh thắng Vũng Đục được xếp hạng Di tích lịch sử cấp tỉnh năm 1999. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Quảng Ninh.

Quảng Ninh 3269 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa