Di tích lịch sử

Việt Nam

Di tích lịch sử Trường TaBerd

Khu di tích lịch sử - Văn hóa Trường Taberd Sóc Trăng Ngày nay nằm trong khuôn viên trường Trung học phổ thông Ischool tọa lạc tại số 19, Tôn Đức Thắng, Phường 6, thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng. Sở dĩ Khu di tích có tên gọi là Trường Taberd, vì xưa kia đây là trường Tiểu Học nội trú của tổ chức công giáo Pháp, được xây dựng vào năm 1912. Trường có khuôn viên rộng 11.128m2, có sức chứa vài ngàn người. Nơi đây đã ghi dấu một sự kiện cách mạng có ý nghĩa quan trọng, ghi nhận sự đóng góp to lớn của Đảng bộ, quân và dân Sóc Trăng trong công cuộc kháng chiến chống Pháp . Sau thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945, Đảng ta nhanh chóng củng cố xây dựng chính quyền cách mạng, ổn định xã hội, chăm lo đời sống cho nhân dân. Đồng thời, đối phó với âm mưu trở lại xâm lược của Thực dân Pháp. Tại Miền Nam, Xứ Uỷ Nam Kỳ giao cho Tỉnh Ủy Sóc Trăng một nhiệm vụ quan trọng và cấp bách, đó là việc tổ chức đón rước các cán bộ chiến sĩ từ Côn Đảo trở về. 7 giờ tối ngày 23/9/1945, đoàn tàu ghe chở khoảng 2.300 người, trong đó có hơn 1.800 người là tù Chính Trị từ Côn Đảo đã về tới Sóc Trăng cập bến Cầu Nổi cũng là cảng Cầu Tàu lục tỉnh. Và Trường Taberd với khuôn viên rộng rãi và ở cạnh bên cầu Nổi đã được chọn làm nơi dừng chân, nghỉ dưỡng của các chiến sĩ tù chính trị Côn Đảo từ ngày 23/9 đến ngày 30/9/1945. Tại đây các chiến sĩ tù chính trị Côn Đảo đã được hàng ngàn đồng bào Sóc Trăng chào đón nhiệt tình giữa rừng đuốc, rừng cờ và biểu ngữ. Hàng chục tấn gạo, đường muối, hàng trăm con heo, gà, vịt và hàng ngàn bộ quần áo, chăn, chiếu, mùng, ván… được nhân dân quyên góp để chuẩn bị đón đoàn, một đội phục vụ gồm hàng trăm nam nữ thanh niên đã ở trong tư thế sẵn sàng phục vụ. Sau ngày 30/9/1945, đoàn chiến sĩ tù chính trị Côn Đảo lên đường về Cần Thơ để nhận nhiệm vụ mới. Qua việc đón rước và chăm sóc Đoàn tù chính trị Côn Đảo, Đảng bộ và nhân dân Sóc Trăng đã hoàn thành xuất sắc một nhiệm vụ quan trọng có ý nghĩa, góp phần xây dựng và bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng, đưa cách mạng Việt Nam từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Với ý nghĩa và tầm quan trọng của sự kiện, ngày 11/6/1992, Bộ Văn hóa - Thông tin quyết định công nhận Trường Taberd Sóc Trăng là di tích Lịch sử cấp quốc gia, thuộc loại hình di tích lịch sử cách mạng. Trong phòng trưng bày được bố trí với 6 nội dung lớn : Nội dung thứ nhất là “Nhà tù Côn Đảo – Địa ngục trần gian” : gồm một số hình ảnh của nhà tù Côn Đảo và các tù nhân được chụp lại thể hiện một phần nào sự đày đọa, tra tấn dã man các tù chính trị trong nhà tù thực dân. Nội dung thứ hai là Sự kiện Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công : Nội dung thứ ba là : Sự kiện đón rước đoàn tù Chính Trị từ Côn đảo về đất liền. Nội dung thứ tư là : Quá trình 7 ngày chăm sóc cán bộ, chiến sĩ tại Trường Taberd. Nội dung thứ 5 là : Các nhân vật tiêu biểu. Nguồn: Cổng thông tin điện tử UBND Thành phố Sóc Trăng

Cần Thơ 4674 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di tích lịch sử Căn Cứ Tỉnh ủy Sóc Trăng

Di tích Khu căn cứ Tỉnh ủy Sóc Trăng có diện tích 281 ha, nằm trong khu rừng tràm Mỹ Phước, thuộc địa phận xã Mỹ Phước, Huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng. Trung tâm của khu di tích là Hội trường, nơi diễn ra hàng ngàn cuộc họp của Đảng bộ và Ban Chấp Hành Tỉnh ủy Sóc Trăng trong thời kháng chiến. Trước đây, Hội trường được dựng tạm bằng vật liệu sẵn có trong rừng như: Tràm, lá dừa nước, ... Sau năm Mậu Thân 1968, để thích nghi với tình hình mới, đồng thời xây dựng căn cứ kiên cố để bám trụ kháng chiến lâu dài, Hội trường được xây dựng lại bằng gỗ dầu vuông, mái lợp lá chẻ, có chiều cao 4.7m, dài 20m, rộng 4m và chia làm 5 gian bằng nhau. Hai bên hông của Hội trường còn bố trí 4 căn hầm đúc bằng bêtông, dùng để ẩn nấp khi máy bay hay pháo của địch bắn phá. Trong đó có 2 hầm nổi, 1 cái có thể chứa 10 đến 15 người và 2 hầm chìm, 1 cái chứa 20 đến 25 người. Đặc biệt, nhằm đảm bảo an toàn cho lực lượng lãnh đạo nòng cốt, Khu căn cứ còn trang bị thêm 2 hầm bí mật cách Hội trường khoảng 300m, trong đó chuẩn bị sẵn lương thực dự trữ và các vật dụng cần thiết, mỗi hầm chứa khoảng 10 đến 13 người. Ngoài ra, Khu căn cứ còn có nhà làm việc của đồng chí Bí thư và nhiều lán trại của các cơ quan trực thuộc được xây dựng dưới hình thức dã chiến. Khu căn cứ Tỉnh ủy Sóc Trăng còn được nhân dân gọi tắt trong thời chiến là Căn cứ Mỹ Phước, bởi vì căn cứ này được hình thành và xây dựng trong khu rừng tràm thuộc xã Mỹ Phước. Trước đây, khu vực này chỉ là cánh đồng hoang vu đầy cỏ dại, rộng hàng chục ngàn hét ta, sau đó người dân đến đây khai phá, định cư và lập ấp. Đầu thế kỷ 20, sau khi chiếm 6 tỉnh Nam kỳ gồm Biên Hòa, Gia Định, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên - địa bàn Sóc Trăng thuộc tỉnh An Giang, Pháp đẩy mạnh khai thác tài nguyên, chiếm đất nông sản, bắt nhân dân đào kênh, rạch và trồng tràm. Lúc bấy giờ (1926), tỉnh Sóc Trăng có 4 quận là Châu Thành, Kế Sách, Long Phú và Phú Lộc, khi đó Mỹ Phước thuộc quận Châu Thành. Đến ngày 25/8/1945, sau khi nhân dân Sóc Trăng giành chính quyền thành công thì rừng tràm này là tài sản của nhân dân. Sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, cả nước khẩn trương xây dựng và củng cố lực lượng chuẩn bị kế hoạch kháng chiến, tiếp tục chống thực dân Pháp xâm lược, Tỉnh ủy Sóc Trăng đã chủ trương mở rộng công bình xưởng, nhằm chế tạo vũ khí trang bị cho lực lượng vũ trang, phục vụ kháng chiến, do đó tháng 4/1946 công binh xưởng Sóc Trăng ra đời tại khu rừng tràm. Để góp phần làm thất bại chiến lược “đánh nhanh thắng nhanh” của Pháp và bảo toàn lực lượng kháng chiến lâu dài, tháng 9/1947 Tỉnh ủy Sóc Trăng quyết định dời Căn cứ từ Cù Lao Dung (lúc bấy giờ thuộc huyện Long Phú) về rừng tràm Mỹ Phước. Tại đây, Ban Chấp Hành Tỉnh ủy đã triển khai Nghị quyết của Trung ương Đảng, trực tiếp chỉ đạo chiến lược tác chiến cho quân và dân Sóc Trăng trên các mặt trận từ vũ trang đến chính trị. Có thể nói Căn cứ Mỹ Phước lúc bấy giờ là nơi đứng chân chỉ đạo của Tỉnh ủy Sóc Trăng, góp phần quan trọng trong công cuộc kháng chiến chung của cả nước đánh bại chủ nghĩa thực dân Pháp. Sau năm 1954, khi Mỹ hất chân Pháp vào chiếm Đông Dương, dưới chính quyền bù nhìn của Ngô Đình Diệm, ngày 20/10/1956 tỉnh Sóc Trăng được đổi tên thành tỉnh Ba Xuyên. Bằng chính sách “tố công, diệt cộng” bọn ngụy quyền ra tay sát hại dã man những người cộng sản. Trước tình hình đó, quán triệt tư tưởng trong nghị quyết 15 của Trung ương Đảng (1959), từ Căn cứ rừng tràm Mỹ Phước, Tỉnh ủy Sóc Trăng đã phát động phong trào đồng khởi trong toàn tỉnh, bắt đầu con đường cách mạng bạo lực chống đế quốc Mỹ và tay sai. Cũng từ đây, Tỉnh ủy Sóc Trăng tiếp tục đưa phong trào đấu tranh của quân và dân đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác cho đến ngày tỉnh Sóc Trăng hoàn toàn giải phóng (1/5/1975). Với những giá trị và ý nghĩa ấy, ngày 16/6/1992, Bộ Văn hóa Thông tin công nhận Khu căn cứ Tỉnh ủy là Di tích Lịch sử Cách mạng cấp quốc gia. Nguồn: Trung tâm Xúc Tiến Du Lịch Sóc Trăng

Cần Thơ 4201 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Chùa Khleang

Chùa Khleang nằm ngay trung tâm thành phố, tọa lạc trên đường Tôn Đức Thắng, thuộc khóm 5, phường 6, Thành phố Sóc Trăng. Chùa được xây dựng cách đây gần 500 năm gắn liền với những truyền thuyết của địa danh Sóc Trăng. Chính điện chùa được xây trên nền đất cao rộng, không gian trong xanh, đặc biệt có nhiều cây thốt nốt là cây đặc trưng của người khmer. Chùa đã qua nhiều lần trùng tu, nhưng mãi đến 1918, Chính điện và Sala được xây dựng lại, đồng thời cũng được thay toàn bộ chất liệu. Vẫn là đặc trưng kiến trúc của người Khmer Nam bộ với hình tượng rồng trên mái. Trong tích Phật, đồng bào Khmer thường kể rằng: Rồng là con vật linh thiêng, tự nó biến mình thành thuyền để đưa Phật vượt bể tới các nơi giảng kinh cứu độ chúng sinh. Do đó, Rồng được đưa lên mái chùa với ý đồ mong muốn đức Phật dừng lại để cứu vớt họ thoát khỏi cảnh trầm luân. Tiếp giáp với mái chánh điện là hình tượng chim thần Krud đang nâng đỡ mái thật khỏe khoắn. Với truyền thuyết dân tộc Khmer, chim thần Krud là vua của các loài chim. Còn phía trước và phía sau chính điện chùa đều có hình tượng Chằn đứng bảo vệ chùa, trong các chuyện cổ tích khmer hay trong Dù-Kê, nhân vật Chằn là biểu tượng của cái ác, cái xấu, gây ra cảnh đau khổ cho mọi người. Tuy nhiên trong nghệ thuật tạo hình khmer, Chằn đã được thu phục bởi đức Phật. Việc đặt tượng Chằn bên ngoài chính điện hàm ý cái ác, cái xấu đã được biến cải để phục vụ, để bảo vệ cho cái đẹp cái thiện. Bên trong chính Điện là một gian phòng rộng dành riêng cho việc hành lễ. Ngoài 12 cột tròn, phần quan trọng nhất bên trong chính điện là bệ thờ tượng Phật Thích Ca, tượng cao 2,5m đặt ở giữa hai gian trong cùng, không những quý về chất liệu mà còn cả về nghệ thuật điêu khắc. Trên bệ thờ dày đặc những hoa văn họa tiết với các mảng điêu khắc tinh xảo, các hoa văn hình ngọn lửa rất đặc trưng nét văn hóa khmer. Nổi lên một cảm thức thẩm mỹ tinh tế vào cảm hứng. Vì theo hệ Phật giáo tiểu thừa, nên chùa của đồng bào Khmer Nam bộ chỉ thờ duy nhất Phật Thích Ca Mâu Ni với nhiều tư thế khác nhau: ngồi thiền định, mới khai sinh, đi khất thực, lúc niết bàn,. Phần nội thất của chánh điện chùa là sự giao thoa của 3 nền văn hoá: Kinh, Khmer, Hoa trong một không gian kiến trúc, thể hiện rõ trên những cây cột gỗ: nghệ thuật sơn mài Việt, cách phối hợp màu sắc truyền thống người Khmer và nét vẽ đặc trưng của người Hoa, tạo nên một tuyệt tác mà có lẽ chỉ riêng ở chùa Khleang mới có. Ngoài vai trò là cơ sở tín ngưỡng, ở chánh điện chùa còn lưu giữ, bảo tồn bộ sưu tập về tượng phật với nhiều tư thế, kích cỡ, chất liệu khác nhau được ví như một bảo tàng nghệ thuật cổ về hiện vật. Các hiện vật này do nhiều thế hệ cao tăng đã gìn giữ hàng trăm năm qua, từ sự đóng góp gửi gắm của nhiều phật tử. Từ khi bắt đầu xây dựng chùa cho đến nay, Chùa Khleang đã trải qua 21 vị đại đức trụ trì và vị trụ trì hiện nay là đại đức Tăng Nô (1943). Có vị không những chăm lo xây dựng chùa mà còn tham gia tích cực vào hoạt động cách mạng như chống bắt lính, nuôi chứa cán bộ cách mạng có tên tuổi... có vị phải hi sinh trước nòng súng của địch như Đại Đức Trần Kế An, vị sư cả trụ trì đã bị bọn địch sát hại ngay tại hậu viên chùa. Vì thế, vào những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước, chùa vừa là nơi tổ chức sinh hoạt tôn giáo vừa là nơi hoạt động cách mạng có hiệu quả nhất của Đảng. Trải qua năm tháng, với ý nghĩa lịch sử quan trọng cùng với lối kiến trúc giá trị nghệ thuật còn lưu giữ, chùa Khleang đã được Bộ Văn hóa công nhận là di tích lịch sử văn hoá cấp Quốc gia vào ngày 27/04/1990. Nguồn: Cổng thông tin điện tử UBND Thành phố Sóc Trăng

Cần Thơ 3694 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Khu di tích lịch sử - Địa điểm thành lập Tiểu đoàn Tây Đô

Di tích Địa điểm thành lập Tiểu đoàn Tây Đô, nằm bên bờ kinh xáng Lái Hiếu thuộc ấp Phương An, xã Phương Bình, huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang, cách thành phố Vị Thanh trung tâm tỉnh là 25 km, cách thị xã Ngã Bảy 16 km, đi bằng đường bộ và đường thủy đến di tích đều thuận tiện. Cuối năm 1959, Nghị quyết 15 của Trung ương và Nghị quyết của Liên tỉnh ủy Miền Tây đã được triển khai thực hiện, các lực lượng vũ trang của toàn Miền lần lượt ra đời, trong đó có Tiểu đoàn Tây Đô. Được thành lập vào ngày 24 tháng 6 năm 1964 tại xã Phương Bình, huyện Phụng Hiệp, tỉnh Cần Thơ (nay là tỉnh Hậu Giang). Do Ban quân sự tỉnh tổ chức lễ ra mắt Tiểu đoàn rất long trọng, có 1000 dân, cán bộ, chiến sĩ đến dự, Ban quân sự tỉnh có đồng chí Lê Hoàng Lâu, Tỉnh đội trưởng đến dự và công bố Quyết định thành lập Tiểu đoàn Tây Đô, đồng thời giao nhiệm vụ cho Đảng ủy, Ban chỉ huy Tiểu đoàn, đồng chí Bùi Quang Đơ thay mặt Ban chấp hành Đảng bộ Tiểu đoàn đọc lời đáp và hứa hẹn, nguyện trung thành với Đảng, với nhân dân. Đồng chí hô to khẩu hiệu “Tiểu đoàn Tây Đô ra đi là chiến thắng, đánh là tiêu diệt”. Tất cả cán bộ và chiến sĩ Tiểu đoàn đồng thanh hô “Quyết thắng”. Ra đời giữa thời điểm cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đang diễn ra ác liệt, Tiểu đoàn Tây Đô đã nhanh chóng trưởng thành, anh dũng chiến đấu, lập nên nhiều chiến công vang dội, góp phần cùng quân dân cả nước giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, làm tròn nghĩa vụ quốc tế tại Campuchia... được Đảng và Nhà nước hai lần tuyên dương danh hiệu “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”. Với các thành tích của Tiểu đoàn Tây Đô, ngày 26 tháng 7 năm 2006 Ủy ban nhân dân tỉnh Hậu Giang đã ra Quyết định xếp hạng di tích lịch sử - văn hóa “Địa điểm thành lập Tiểu đoàn Tây Đô” là di tích cấp tỉnh. Di tích được quy hoạch và đầu tư xây dựng các hạng mục công trình như: tượng đài hoành tráng, nhà trưng bày hình ảnh hiện vật của Tiểu đoàn Tây Đô, sân, đường nội bộ, cây xanh,…trên diện tích 01 ha đất cũng tại ấp Phương An, xã Phương Bình, huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang. Công trình đã hoàn thành đưa vào sử dụng năm 2012, có ý nghĩa rất to lớn trong việc giáo dục truyền thống cách mạng cho thế hệ trẻ, nơi đây đã trở thành một trong những điểm di tích quan trọng của tỉnh thường xuyên mở cửa phục vụ khách tham quan, học tập, họp mặt, sinh hoạt văn hóa, vui chơi giải trí của nhân dân trong và ngoài tỉnh. Nguồn: Phòng Quản lý Di sản văn hóa

Cần Thơ 3880 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Chùa Phổ Minh

Ngày 5 tháng 10 năm 2021, Ủy ban nhân dân tỉnh Hậu Giang đã ban hành Quyết định xếp hạng di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh đối với Chùa Phổ Minh (toạ lạc tại số 135/2 đường Nguyễn Thị Minh Khai, khu vực 1, Phường 4, thành phố Vị Thanh, tỉnh Hậu Giang). Chùa Phổ Minh được xây dựng trước năm 1908 (trước thế kỷ 20) là một trong những ngôi chùa khá lâu đời tại thành phố Vị Thanh.. Ngôi chùa vừa mang dấu ấn lịch sử tôn giáo, vừa là địa chỉ đỏ trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, từng là nơi để cán bộ cách mạng thời chống Pháp, Mỹ trú ngụ. Ban đầu, chùa chỉ được cất bằng lá kiểu nhà sàn, vì thời ấy nơi đây rắn rết, cọp beo nhiều vô kể. Trải qua nhiều đời trụ trì, đến năm 1967 chùa được xây lại nhưng cũng bằng lá. Lúc này, tình hình kháng chiến chống Mỹ và bè lũ tay sai hết sức ác liệt. Trong khi đó, địch tăng cường bắt quân dịch nên nhiều thanh niên địa phương tự nguyện “xuống tóc” để vào chùa nhằm tránh sự ép buộc của chúng. Từ năm 1908, nhà chùa thường xuyên góp lúa, gạo, tiền bạc ủng hộ cách mạng, làm hầm bí mật che giấu cán bộ, đùm bọc cho hàng trăm thanh niên địa phương trốn quân dịch. Trong khuôn viên chùa được xây dựng khang trang với nhiều tượng khá đẹp và hoành tráng, trong khuôn viên hơn 1 ha có vườn cây xanh, cảnh quan tôn nghiêm, tĩnh lặng, đặc biệt là ao sen khá rộng và đẹp. Phần chánh điện rất khang trang to rộng với nhiều thiết chế như bàn thờ Phật, tiên thánh; trống, chuông, mõ quý hiếm cùng nhiều hiện vật rất cổ kính và có giá trị văn hóa. Từ năm 1968 đến 1975, chùa đã che chở, đùm bọc gần 130 người. “Trong số này có nhiều trường hợp hoạt động cách mạng bí mật. Hàng ngày, họ ở trong chùa, nhưng đến mùa vụ thì ban ngày về tiếp gia đình, ban đêm trở lại chùa. Để chở che, đùm bọc những cán bộ cấp trên xuống nắm tình hình địch và bàn về những trận đánh, cố hòa thượng Thích Huệ Giác bí mật cho đào hầm trú ẩn ở sau chùa. Chưa kể, nhằm qua mắt Mỹ ngụy, cố hòa thượng Thích Huệ Giác còn dùng be bồ bằng tre bao xung quanh miệng hầm, rồi lấy vỏ dừa lấp xung quanh. Nhờ vậy mà không ít lần cán bộ hoạt động cách mạng lánh vào đây khi bị Mỹ ngụy càn quét đều được bảo vệ an toàn. Đến ngày 30-4-1975, tổng thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, Hồ Ngọc Cẩn tuyên bố tử thủ, nhiều “chư tăng” lột áo nhà sư đi nắm tình hình địch và tiếp đào công sự vì đề phòng phản công của chúng. Lúc này, nhiều vợ con của lính ngụy chạy về các đồn để tìm chồng, cha. Thấy vậy, cố hòa thượng Thích Huệ Giác vận động, tuyên truyền họ khuyên người thân buông súng đầu hàng. Nhờ đó, khoảng hơn giờ sau, dinh tỉnh trưởng kéo cờ 3 sọc xuống để treo cờ trắng lên đầu hàng. Sau ngày giải phóng thống nhất đất nước, tăng, ni chùa Phổ Minh tiếp tục sứ mệnh của mình là xây dựng và bảo vệ đạo pháp – dân tộc. Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, chùa Phổ Minh là cơ sở hoạt động bí mật, thường quyên góp lúa gạo, tiền bạc ủng hộ cách mạng. Đặc biệt, chùa là địa điểm hoạt động bí mật của gia đình phu nhân nguyên Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng; thiếu tướng Trần Quốc Liêm, Phó Tổng cục trưởng An ninh (Bộ Công an); ông Lê Việt Hùng, nguyên Phó Giám đốc Công an thành phố Cần Thơ; Đội an ninh, Đội biệt động thị xã Vị Thanh… Nguồn: Giáo hội phật giáo Việt Nam

Cần Thơ 3849 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Di tích lịch sử địa điểm khởi nghĩa nam kỳ 1940, ở Phú Hữu

Di tích Khởi nghĩa Nam kỳ 1940 trước đây tọa lạc tại làng Phú Hữu, tổng Định An, quận Phụng Hiệp, nay thuộc ấp Phú Thạnh, xã Phú Hòa, huyện Châu Thành, tỉnh Hậu Giang. Vào những năm 1930 - 1935, nông dân làng Phú Hữu sống trong cảnh bị áp bức, bóc lột nặng nề của thực dân Pháp, phong kiến địa chủ. Trong thời gian này, bên kia bờ tả ngạn sông Hậu chi bộ Đảng Trà Ôn, Vĩnh Xuân ra đời và lãnh đạo nhân dân đấu tranh chống địa chủ tăng tô, phong kiến, thực dân. Chi bộ Đảng ở Phú Hữu ra đời đã lãnh đạo phong trào đấu tranh của nông dân rất sôi nổi và xây dựng cơ sở cách mạng rất tốt. Từ cơ sở có chi bộ và nhà bà Ngô Thị Lụa (mẹ của đồng chí Nguyễn Phước Ngoạn và Nguyễn Văn Phúc) ở rạch Ngã Lá, ấp Phú Lễ, làng Phú Hữu nên Liên Tỉnh ủy Cần Thơ chọn làm nơi đặt cơ quan. Nơi đây Liên Tỉnh ủy Cần Thơ đã mở nhiều lớp huấn luyện, nhiều cuộc hội nghị của Liên Tỉnh ủy và in nhiều tài liệu cung cấp cho các tỉnh miền Hậu Giang. Dưới sự lãnh đạo của chi bộ phong trào đấu tranh đòi giảm tô, giảm tức, đòi dân sinh, dân chủ diễn ra mạnh mẽ, sôi nỗi; tổ chức cơ sở Đảng và quần chúng: Thanh niên, phụ nữ phản đế, Nông hội đỏ phát triển mạnh, nhất là từ khi nhận được “Đề cương khởi nghĩa” của Xứ ủy Nam Kỳ do Tỉnh ủy Cần Thơ triển khai vào tháng 4/1940. Chi bộ đã ráo riết chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa, tổ chức nhiều cuộc họp quần chúng tốt để phát động phong trào và chọn một địa điểm trong rừng sâu cất chòi dưới bóng những cây kè (nên có tên gọi chòi “Cây Kè”) để làm nơi học tập huấn luyện cho những thanh niên, nông dân có tâm huyết cách mạng trong làng. Các cuộc họp này thường có cán bộ cấp trên như: đồng chí Lưu Nhân Sâm, Ngô Hữu Hạnh (trong Tỉnh ủy Cần Thơ) thường đến nói chuyện về tình hình, tập những bài hát cách mạng và dạy võ nghệ. Những hoạt động của quần chúng dưới sự lãnh đạo của chi bộ, chuẩn bị cuộc khởi nghĩa tuy bí mật nhưng rất sôi nổi, ai cũng mong ngày khởi nghĩa giành chính quyền. Lệnh khởi nghĩa của Xứ ủy Nam Kỳ đến Cần Thơ vào lúc 12 giờ trưa ngày 22/11/1940, nhưng đến khuya ngày 23/11/1940 Quận ủy Phụng Hiệp mới nhận được lệnh khởi nghĩa. Tuy có muộn nhưng Quận ủy vẫn tiến hành khởi nghĩa. Nhiệm vụ của Quận ủy Phụng Hiệp là tổ chức lực lượng khởi nghĩa đánh vào quận lỵ, đánh cầu Phụng Hiệp và bao vây, kìm chân địch không cho đi tiếp viện nơi khác. Bọn địch ở Trà Ôn được tin báo, tên Chỉ quận trưởng đưa quân đến đàn áp cuộc khởi nghĩa. Những cán bộ lãnh đạo nòng cốt của cuộc khởi nghĩa và quần chúng yêu nước bị bắt, bị kết án từ tù chung thân đến 5 năm tù giam đày đi Côn Đảo. Do không chịu nổi cảnh lao tù nơi rừng thiên, nước độc nên đã hy sinh tại đây. Cuộc khởi nghĩa Nam kỳ ở Phú Hữu và một số nơi trong tỉnh tuy chưa giành thắng lợi, do tình thế cách mạng chưa chín muồi, kế hoạch khởi nghĩa bị lộ nên bị địch đàn áp dã man, nhiều cán bộ, đảng viên và quần chúng trung kiên của Đảng bị địch tàn sát, bắt bớ tù đày. Nhưng đó là cuộc nổi dậy có tổ chức của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, tấn công vào dinh lũy của kẻ thù, báo hiệu sự cố chung của chế độ thống trị. Đó là cuộc diễn tập quan trọng, Đảng bộ Cần Thơ rút ra bài học kinh nghiệm quý giá tổ chức cuộc khởi nghĩa cách mạng Tháng Tám năm 1945, giành thắng lợi vẻ vang. Cuộc khởi nghĩa Nam kỳ 1940 ở Phú Hữu được Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận di tích lịch sử văn hóa, cấp quốc gia. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Hậu Giang

Cần Thơ 4516 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di tích chiến thắng Vàm Cái Sình

Di tích Chiến thắng Vàm Cái Sình tọa lạc tại phường 7, TP Vị Thanh, tỉnh Hậu Giang. Từ 1949 vùng giải phóng huyện Long Mỹ rộng lớn nơi dự trữ người của trong kháng chiến chống thực dân Pháp, là nơi căn cứ của cơ quan cấp tỉnh, khu. Vào những năm 1951, 1952 địch bị thất bại nặng nề và bị động ở chiến trường chính, thực dân Pháp thực hiện chính sách 3 sạch “Đốt sạch, phá sạch, giết sạch”, phá hoại kinh tế, mở nhiều cuộc hành quân quy mô càn quét vào vùng giải phóng của ta ở huyện Long Mỹ, và mở rộng đánh phá vùng căn cứ địa cách mạng U Minh. Thực hiện âm mưu trên, thực dân Pháp mở chiến dịch càn quét quy mô vào vùng giải phóng căn cứ cách mạng Long Mỹ, Vị Thanh hòng tiêu diệt lực lượng của ta, phá hoại hậu phương cách mạng. Nắm chắc ý đồ của địch, đồng chí Huỳnh Thủ, Tỉnh đội trưởng Cần Thơ đã trực tiếp giao nhiệm vụ cho đơn vị 4053, thuộc tiểu đoàn 410 của tỉnh Cần Thơ, là đơn vị có nhiều kinh nghiệm đánh thủy lôi đã lập chiến công đánh nhiều tàu địch trên sông Phụng Hiệp, Châu Thành. Sau khi điều nghiên chiến trường, địch muốn đánh vào ruột vùng giải phóng Long Mỹ, hành quân bằng đường bộ, chỉ có con lộ từ Cầu Đúc vào Hỏa Lựu - Vị Thanh. Để chóng địch càn quét đánh phá vào vùng giải phóng, ta đã đánh phá các con lộ và đánh sập các cầu trên đường giao thông bộ, trên đoạn đường này có cầu sắt Cái Sình. Vào sáng ngày 22/12/1952, sau khi địch cho bắn pháo để dọn đường cho tiểu đoàn cơ động số 14 gồm: lính Pháp, Việt, Miên, do sĩ quan Pháp chỉ huy, thận trọng lần dò tiến vào xã Hỏa Lựu trên con đường bị phá hoại, cỏ, cây sầm uất. Đến 15 giờ địch mới đến Vàm rạch Cái Sình chúng dồn quân tại đây để chờ tàu đưa qua rạch Cái Sình, vì cầu bị ta đánh sập. Đúng như dự đoán của ta, đêm 21/12/1952 ta đã đặt hai trái thủy lôi, hằng ngàn ký thuốc nổ tại Vàm rạch Cái Sình và đưa một tổ công binh (3 đồng chí) của Tiểu đoàn 410, sẵn sàng chiến đấu. Đến gần 15 giờ, tiếng tàu sắt nổ máy vang rền, từ ngã ba Cầu Đúc chạy vào. Các chiến sĩ ta rất bình tĩnh chờ cho quân địch xuống đầy tàu sắt mặt dựng LCT (loại tàu chở quân), khi tàu lui ra giữa Vàm rạch để đưa quân về phía bờ Hỏa Lựu, chiến sĩ ta châm điện, phát ra tiếng nổ long trời, một cột nước trắng xóa dựng cao hằng trăm mét và đổ ập xuống nhấn chìm chiếc tàu mặt dựng xuống dòng sông, gần 400 tên địch, trong đó có một quan Ba (đại úy), hai quan Nhất (thiếu úy) bị tan xác, ta thu một súng ngắn 12 ly, một bản đồ hành quân, hai khẩu trọng pháo: 20 ly và 13,2 ly, 5 súng tiểu liên, 12 súng trường, làm thất bại hoàn toàn kế hoạch càn quét đánh phá vào vùng căn cứ giải phóng Long Mỹ - Vị Thanh. Trong kháng chiến chống Pháp trên chiến trường Hậu Giang - Cần Thơ, quân dân Hậu Giang - Cần Thơ đã lập hai chiến công hiển hách diệt nhiều địch nhất, đó là trận đánh xe cơ giới ở 4 trận Tầm Vu, lấy khẩu đại bác 105 ly ở trận Tầm Vu 4 và trận đánh tàu tại Vàm rạch Cái Sình, làm vang dội chiến công khắp miền Tây và cả nước. Chiến thắng Cái Sình có một ý nghĩa quan trọng đã góp phần tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch để phối hợp với chiến trường chính ở chiến dịch biên giới Việt Bắc 1951 - 1952 và cùng các chiến trường khác trong cả nước đẩy địch vào thế bị động, thất bại, tạo ra thế và lực mới thúc đẩy cuộc kháng chiến phát triển mạnh mẽ dẫn đến chiến thắng “Điện Biên Phủ” (7/5/1954) chấn động địa cầu, buộc thực dân Pháp phải ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ, chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam kết thúc chế độ thực dân cũ ở Việt Nam, nửa nước độc lập, ở miền Nam tiếp tục cuộc kháng chiến chống chế độ thực dân mới của đế quốc Mỹ. Từ ý nghĩa và giá trị lịch sử quan trọng của chiến thắng “ Vàm Cái Sình”. Ngày 3/8/2007, Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng Chiến thắng Vàm Cái Sình là di tích cấp Quốc gia. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Hậu Giang

Cần Thơ 4290 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di Tích Ủy Ban Liên Hợp Đình Chiến Nam Bộ

Thị trấn Phụng Hiệp, tỉnh Cần Thơ là nơi được chọn đóng trụ sở của Ủy ban Liên hợp Đình chiến Nam bộ, có vị trí chiến lược quan trọng, đây là trung tâm của hai điểm tập kết Cần Thơ và Cà Mau. Trụ sở Ủy ban Liên hợp Đình chiến Nam bộ nguyên là ngôi nhà của ông Hà Văn Phú (chủ tiệm chụp hình Việt Nam, ở chợ Phụng Hiệp), xây dựng vào năm 1928. Toàn khu di tích được xây dựng trên diện tích 1.635 m2. Từ ngoài nhìn vào trước cửa trụ sở có một bảng lớn, viết bằng hai thứ tiếng Pháp và Việt - Trụ Sở Ủy Ban Liên Hợp Đình Chiến Nam Bộ. Trước trụ sở chính có 2 cột cờ. Một cột cờ treo lá cờ đỏ sao vàng - Quốc kỳ Việt Nam. Cột thứ hai treo cờ Tam tài - Quốc kỳ của Pháp, dưới đuôi lá cờ Tam tài còn đeo thêm lá cờ Ba que của ngụy quyền, đã chứng tỏ sự lệ thuộc bám víu nhục nhã của ngụy quyền Sài Gòn. Phía trái của trụ sở là khu nhà sàn bán kiên cố được xây dựng theo kiểu chữ U, nhà của lực lượng bảo vệ phái đoàn Việt Nam ở. Dưới mé sông trước ngôi nhà sàn là một cầu tàu bằng gỗ để chiếc tàu Hòa Bình của phái đoàn ta cập bến. Mỗi lần chiếc tàu Hòa Bình có biểu tượng chim bồ câu trắng ở hai bên mạn tàu, trên nóc tàu có lá cờ đỏ sao vàng phất phới tung bay, chở phái đoàn ta từ căn cứ ở Hàng Điệp ra trụ sở họp, nhân dân hai bên bờ sông và chợ Phụng Hiệp vui mừng đón chào, vỗ tay vang dội … cổ vũ phái đoàn ta hằng ngày. Kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, bằng chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, buộc thực dân Pháp phải ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ đình chiến ở Đông Dương. Hiệp định Giơ-ne-vơ ký ngày 20/7/1954, gồm 6 chương, 47 điều. Nội dung quan trọng là Pháp công nhận nền độc lập của nước Việt Nam, lấy vĩ tuyến 17 (sông Bến Hải) làm giới tuyến quân sự tạm thời. Quân đội nhân dân Việt Nam ở miền Nam tập kết ra Bắc. Quân đội của thực dân Pháp phải chuyển vào miền Nam. Miền Bắc nước ta đã hoàn toàn giải phóng, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Sau hai năm, hai miền sẽ tổng tuyển cử thống nhất đất nước. Để giám sát và điểu hành việc thực hiện Hiệp định đình chiến giữa hai bên, theo chương 6 của Hiệp định (từ điều 28 đến điều 47) quy định cách tổ chức và hoạt động của ủy ban Liên hợp và Ủy ban giám sát quốc tế ở Việt Nam. Từ tinh thần trên, sau khi Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, Ủy ban Liên hợp đình chiến Trung ương được thành lập do thiếu tướng Văn Tiến Dũng làm trưởng đoàn. Hội nghị quân sự Trung Giã, Trung ương quyết định thành lập Ủy ban Liên hợp Đình chiến Nam bộ, do Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Tổng tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam ký ngày 22/7/1954, để Ủy ban Liên hợp Đình chiến chỉ đạo, theo dõi việc thi hành Hiệp định và bố trí lực lượng chuyển quân tập kết đúng thời hạn quy định. Phái đoàn của Pháp do đại tá Duque làm trưởng đoàn (sau đổi đại tá Colelen bazien), Phó đoàn là Trung tá magron. Ngoài ra còn có một số trung tá ngụy làm phiên dịch và một nữ thư ký người Pháp. Phái đoàn mỗi bên có khoảng 5 người thường trực gồm: Trưởng, phó đoàn, thư ký, phiên dịch… trong suốt thời gian làm việc của Ủy ban Liên hợp Đình chiến Nam bộ có sự bảo vệ, canh gác của Quân đội nhân dân Việt Nam và Quân đội Liên hiệp Pháp. Di tích lịch sử Ủy ban Liên hợp Đình chiến Nam bộ ở Phụng Hiệp - Cần Thơ có ý nghĩa quan trọng trong việc giáo dục truyền thống cách mạng và xây dựng niềm tin vào thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Từ ý nghĩa trên Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận trụ sở Ủy ban Liên hợp Đình chiến Nam bộ tại Phụng Hiệp, là di tích lịch sử cấp Quốc gia ngày 28/6/1996 . Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Hậu Giang

Cần Thơ 3627 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di tích khu trù mật Vị Thanh - Hỏa Lựu

Di tích lịch sử - văn hóa Khu trù mật Vị Thanh – Hỏa Lựu tọa lạc tại khu vực 4 (khu văn hóa Hồ Sen), phường 1, thành phố Vị Thanh trung tâm tỉnh Hậu Giang. Hiệp định Geneve được ký kết ngày 20-7-1954 chưa ráo mực, Mỹ Diệm đã ngang nhiên phá hoại. Chúng thực hiện âm mưu gom dân lập khu trù mật Vị Thanh – Hỏa Lựu, chiếm Long Mỹ - Vị Thanh làm chỗ dựa để đánh phá, bình định vùng căn cứ U Minh, mà địch gọi là: “Đại bản doanh của Cộng sản”. Để thực hiện âm mưu trên, Mỹ Diệm đã tập trung những tên tay sai ác ôn, đầu hàng phản bội hận thù cách mạng và huy động hàng ngàn quân mở nhiều cuộc càn quét, đánh phá, đuổi nhà, gom dân, bên cạnh đó Diệm đã ban hành Luật 10-59, với phương châm “thà giết lầm còn hơn bỏ sót”, lê máy chém về Long Mỹ để chém giết đồng bào ta. Chính Trần Lệ Xuân (vợ Ngô Đình Nhu) đích thân về đây động viên, khích lệ bọn tay sai thẳng tay chém giết những người bị tình nghi là “việt cộng” và ra giá mua một mật người từ 500 đến 700 đồng,.. oán hận ngất trời, máu chảy thành sông. Theo đồ án thiết kế, khu trù mật có chiều dài 7km, chiều ngang lấy kinh Xà No làm trung tâm, mỗi bên rộng 2km, có diện tích chung 28km vuông, chia làm 4 khu chính: 1 Khu Vị Thanh, 2 Khu Hỏa Lựu, 3 Khu Giữa, 4 Khu Bắc Xà No. Mỗi khu chia thành 4 tiểu khu, mỗi tiểu khu chia ra nhiều lô, mỗi lô chia ra nhiều ô, mỗi ô chia ra nhiều khoảnh đất nhỏ, mỗi khoảnh dài 90 mét, rộng 45 mét (diện tích bằng 4 công đất) cho mỗi gia đình, ngăn cách nhau bằng một con mương. Các lô cách nhau bằng một con kênh rộng từ 3 đến 4 mét, sâu 2 mét, ngoài ra còn có hàng rào, dây thép gai bao bọc. Người dân sống trong khu trù mật bị theo dõi, kiểm soát 5 khâu: ra vào, đi lại, ăn ở, thu nhập, giao tiếp. Để bảo vệ an toàn Khu Trù mật chúng bố trí lực lượng như sau: một đại đội biệt kích thuộc khu U-Minh đóng ở đầu cầu chợ Cái Nhum, một đại đội dân vệ canh gác vòng ngoài, bên trong chúng trang bị cho các cụm thanh niên Cộng hòa, phối hợp với cơ quan mật vụ lùng sục suốt ngày đêm; ngoài ra chúng còn tổ chức Đảng Cần Lao nhân vị, Thanh niên Cộng hòa, Phụ nữ Liên đới, cuộc sống của người dân bị kìm kẹp gắt gao, vì vậy bà con thường mỉa mai gọi là khu “trào mật”. Sống trong cảnh “cá chậu , chim lồng” nhân dân rất bất bình ngày càng uất hận, cùng dưới sự lãnh đạo của các chi bộ Đảng cách mạng đã tổ chức nhiều cuộc nổi dậy chống Mỹ Diệm gom dân lập Khu Trù mật. Trước tình hình khó khăn phức tạp đó, chỉ sau sáu tháng ráo riết thi công, tuy mới xây dựng được một phần ba công trình, nhưng ngày 12-3-1960 chúng vội vã tổ chức khánh thành Khu Trù mật Vị Thanh – Hỏa Lựu. Nghị quyết 15 của Trung ương Đảng ra đời như “nắng hạn gặp mưa” là động lực mạnh mẽ thúc đẩy phong trào đấu tranh trong huyện càng trở nên quyết liệt. Đêm 14-9-1960 lệnh Đồng Khởi được phát ra, lực lượng vũ trang của ta tập kích đánh chiếm nhiều nơi. Phối hợp với nhân dân và binh sĩ yêu nước trong khu trù mật và 12 điểm tập trung đã nhất tề nổi dậy lùng sục bắt bọn tay sai ác ôn giao cho cách mạng, đốt cờ, xé ảnh Diệm, lột bảng khẩu hiệu, phá rào, phá cổng trở về xóm ấp cũ. Tiếng reo hò, tiếng mõ, tiếng súng vang động, tạo nên một khí thế cách mạng, sức mạnh “tức nước vỡ bờ”. Ngoài đánh vào, trong nổi dậy làm cho kẻ thù ở khu trù mật bị tê liệt hoàn toàn. Để khắc sâu tội ác và giáo dục nhân dân ta nhất là thế hệ trẻ về lòng căm thù đối với Mỹ - Ngụy lập Khu Trù mật Vị Thanh – Hỏa Lựu, ngày 2 tháng 8 năm 1997 Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận “Khu Trù mật Vị Thanh – Hỏa Lựu di tích tội ác Mỹ Diệm tàn sát đồng bào” là di tích lịch sử - văn hóa cấp Quốc gia. Nguồn: Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Hậu Giang

Cần Thơ 4333 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Khu Di Tích Căn Cứ Tỉnh Ủy Cần Thơ

Di tích Căn cứ tỉnh ủy Cần Thơ tọa lạc ấp Phương Quới B, xã Phương Bình, huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang. Trong kháng chiến chống Mỹ xâm lược, thành phố Cần Thơ là trung tâm đầu não của vùng 4 chiến thuật của Mỹ ngụy, tòa lãnh sự Hoa Kỳ, cơ quan tình báo C-I-A, đủ các loại binh chủng, hậu cứ kho tàng, sân bay, cảng quân sự v.v… là nơi xuất phát quân đánh phá các tỉnh miền Tây Nam bộ. Địch chọn Cần Thơ là trọng điểm bình định đánh phá ác liệt, nhất là sau tổng tấn công 1968, vào những năm 1969 - 1970 - 1971 chúng huy động một lực lượng lớn quân chủ lực, bảo an, dân vệ và các loại máy bay, xe tăng, đại bác … dội bom, pháo bầy, B52 rải thảm, chất độc hóa học, phát quang vùng nông thôn giải phóng của ta, đi đôi chiêu dụ hàng, hòng tách dân ra khỏi Đảng “tát nước bắt cá”, nhằm tiêu diệt Đảng và cách mạng. Để đối phó âm mưu mới của địch, vào tháng 4/1971 Ban chấp hành Tỉnh ủy Cần Thơ họp tại khu rừng lá xã Xà Phiên huyện Long Mỹ. Ban Thường vụ Tỉnh ủy sau khi bàn bạc trao đổi kỹ lưỡng đã chọn địa điểm ở ấp Phương Quới B, xã Phương Bình, huyện Phụng Hiệp, làm căn cứ để Tỉnh ủy đứng chân chỉ đạo phong trào cách mạng trong tỉnh tấn công làm thất bại âm mưu bình định của địch. Căn cứ Tỉnh ủy Cần Thơ được khởi công xây dựng vào đầu tháng 2/1972, tại nền nhà của Bà Bái - một địa chủ ngày xưa, nên mọi người quen gọi là “Căn cứ Bà Bái”. Bước đầu căn cứ chỉ xây dựng vài căn nhà nhỏ, nơi làm việc của Ban Thường vụ, Văn phòng và đội phòng thủ (đội bảo vệ). Sau đó, cất thêm một số căn nhà khác cho các bộ phận: cơ yếu, điện đài, thông tin, nhà ở cho cán bộ nữ, nhà thường trực, nhà khách, nhà ăn, giao liên. Từ căn cứ này, Tỉnh ủy Cần Thơ đứng chân vững chắc lãnh đạo chỉ đạo quân dân tỉnh nhà đánh địch bằng 3 mũi giáp công, gỡ đồn bót địch, phát động quần chúng phá “ấp chiến lược”, giành quyền làm chủ mở rộng vùng giải phóng, tạo thế tạo lực mới cho tỉnh nhà. Hiệp định Paris được ký kết và có hiệu lực ngày 28/01/1973, nhưng địch với bản chất ngoan cố lật lộng phá hoại Hiệp định thực hiện âm mưu “bình định”, “tràn ngập lãnh thổ”, chiếm đất giành dân. Nhưng Tỉnh ủy Cần Thơ vẫn vững vàng đứng vững nơi căn cứ, lãnh đạo quân dân trong tỉnh vượt qua mọi khó khăn, gian khổ hy sinh, phát huy sức mạnh 3 mũi tấn công địch, bẻ gãy nhiều đợt càn quét, lấn chiếm, gỡ đồn bót của địch, giành lại vùng giải phóng của ta. Phát huy thắng lợi, đồng thời nghiêm chỉnh chấp hành mệnh lệnh của Bộ Chính trị Trung ương Đảng, mở cuộc tổng tấn công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thực hiện Di chúc thiêng liêng của Bác Hồ kính yêu “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”. Dưới sự lãnh đạo sáng suốt, linh hoạt, táo bạo của Tỉnh ủy, quân dân Cần Thơ xông lên tổng tấn công và nổi dậy như bão táp “Một ngày bằng hai mươi năm”. Chỉ trong 2 ngày 30/4 và 1/5/1975, đã giải phóng hoàn toàn tỉnh Cần Thơ, góp phần giải phóng miền Nam, viết nên những trang sử chói lọi nhất của dân tộc Việt Nam trong thế kỷ 20. Với những sự kiện lịch sử và thành tích quan trọng đó, ngày 27/4/1990, Bộ Văn hóa - thông tin ra Quyết định công nhận căn cứ Tỉnh ủy Cần Thơ là di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Hậu Giang

Cần Thơ 4590 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa