Di tích lịch sử

Việt Nam

Đền Tô Hiến Thành

Nằm trên núi Trường Lệ, đền thờ Tô Hiến Thành là một ngôi đền cổ nổi tiếng của thị xã Sầm Sơn nói riêng và tỉnh Thanh Hóa nói chung. Đền còn có tên gọi là Đền Đệ Nhị hay đền Trung, là một ngôi đền trong hệ thống ba đền của làng Núi hay Sầm Thôn (Đền Độc Cước là đền Thượng, đền Đệ Nhất; Đền Hoàng Minh Tự là đền Đệ Tam hay đền Hạ). Tương truyền ngôi đền đã có lịch sử trên 800 năm, là nơi thờ Tô Hiến Thành - quan đại thần phụ chính nhà Lý dưới hai triều vua Lý Anh Tông và Lý Cao Tông. Ông là viên quan văn võ song toàn, nổi tiếng là công minh chính trực, được vua phong tước vương mặc dù không phải tôn thất nhà Lý. Trải qua các thăng trầm lịch sử, ngôi đền đã trải qua nhiều lần trùng tu và xây mới. Hiện tại ngôi đền có cấu trúc hình chữ Đinh, gồm 3 cung: Bái đường, Trung đường và Hậu cung. Bái đường có ba gian thờ cộng đồng các quan, là nơi tổ chức các thể thức tế lễ vào ngày lễ hội, giỗ Ngài… Trung đường có gian, là nơi đặt khám thờ và tượng ngài Tô Hiến Thành. Hậu cung đặt khám thánh vị, sắc phong. Khuôn viên đền rộng rãi, có nhiều cây xanh che bóng. Nét cổ kính, rêu phong của ngôi đền. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Thanh Hóa .

Thanh Hóa 3104 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền Cô Tiên

Đền Cô Tiên nằm trên đỉnh hòn Đầu Voi cuối dãy núi Trường Lệ về phía Tây Nam. Hòn đầu voi là hòn thứ năm trong hệ thống phân loại dân gian. Nó có tên chữ là "Tượng Đầu Sơn" cũng có nghĩa núi Đầu Voi, vì dãy núi Trường Lệ đang chạy dài đến chỗ này chợt nhô ra một hòn hình dáng như đầu con voi đang cúi mình uống nước. Đền Cô Tiên được xây dựng vào thời Lý theo kiểu kiến trúc cổ, gồm 3 lớp: Tiền Đường, Trung Đường và Hậu Cung. Kiểu kiến trúc hình chữ Đinh (hay kiến trúc chuôi vồ). Trải qua bao độ mưa nắng, gió bão và sự tàn phá của chiến tranh ngôi đền đã bị hư hỏng nặng. Ngôi đền đã qua nhiều lần trùng tu tôn tạo. Những năm 90 của thế kỷ XX, Ban quản lý di tích thành phố Sầm Sơn cho sửa chữa lại một số hạng mục. Lần tu sữa gần đây nhất vào năm 2010 Thành phố Sầm Sơn đã trùng tu tôn tạo lại toàn bộ ngôi đền nhưng vẫn giữ nguyên nét cổ kính. Kinh phí xây dựng Đền là từ nguồn tiền công đức của nhân dân và du khách thập phương. Ngôi đền đã được xếp hạng Di Tích quốc gia năm 1962. Nguồn Cổng thông tin tỉnh Thanh Hóa .

Thanh Hóa 3253 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền Độc Cước

Đền Độc Cước là đền thờ vị thần mang cùng tên, một vị thần trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Đền Độc Cước nằm trên đỉnh núi mang tên hòn Cổ Giải thuộc dãy núi Trường Lệ ở thành phố Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa, ngay cạnh bãi biển Sầm Sơn. Đền được xây dựng vào thời nhà Trần, sang đến thời nhà Lê được được trùng tu lại nhiều lần. Đường lên đền là 45 bậc bằng đá. Tượng thần Độc Cước bằng gỗ chỉ có một tay, một chân. Phía sau đền có Môn Lâu dựng năm 1863 bằng gỗ. Năm 1962 đền được Bộ Văn hóa, Thông tin Việt Nam xếp hạng di tích cấp quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Thanh Hóa .

Thanh Hóa 3689 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Chiến khu Ba Đình

Khởi nghĩa Ba Đình (1886 – 1887) là một trong những cuộc đấu tranh lớn và tiêu biểu nhất trong phong trào Cần Vương chống thực dân Pháp xâm lược cuối thế kỷ XIX. Di tích lịch sử Ba Đình đã được công nhận là Di tích lịch sử cấp Quốc gia từ năm 1992. Tháng 3 năm 1886 các lãnh tụ phong trào Cần Vương ở Thanh Hóa tổ chức cuộc họp tại Đồng Biên (Bồng Trung nay thuộc xã Vĩnh Tâm, huyện Vĩnh Lộc, Thanh Hóa) bàn kế hoạch chống Pháp. Hội nghị đã quyết định giao cho Phạm Bành, Đinh Công Tráng, Hoàng Bật Đạt phụ trách xây dựng căn cứ Ba Đình ở vùng đồng bằng phía bắc huyện Nga Sơn. Căn cứ Ba Đình là nơi bảo vệ cửa ngõ miền Trung và là bàn đạp tỏa ra đánh địch ở đồng bằng. Ba Đình nằm ở phía Tây Bắc huyện Nga Sơn, gồm ba làng là: Thượng Thọ, Mỹ Khê, Mậu Thịnh nằm liền nhau. Mỗi làng có một ngôi đình và có chung một ngôi nghè. Ba Đình nằm giữa cánh đồng chiêm trũng và hai con sông là sông Hoạt, sông Chính Đại biệt lập với khu dân cư lân cận, nhất là vào mùa mưa. Đóng quân ở Ba Đình, nghĩa quân Cần Vương có thể kiểm soát được dòng sông, dễ dàng kéo lên Bỉm Sơn, Đồng Giao để khống chế quốc lộ 1. Địa thế Ba Đình rất thuận lợi cho việc xây dựng pháo đài phòng ngự vững chắc, Phạm Bành, Đinh Công Tráng, Hoàng Bật Đạt được phân công xây dựng và chỉ huy căn cứ Ba Đình. Chỉ trong 1 tháng, căn cứ Ba Đình đã được xây xong, bao quanh ba làng là một hệ thống thung lũng bằng đất, có nơi chân thành rộng 9-10 mét, mặt thành xếp bằng cọc tre, bên trong tạo lớp bùn và rơm rạ tạo thành chiếc bia đỡ đạt rất công hiệu. Bên ngoài không thể nhìn thấy được vào bên trong, phía trong có hào rộng 4m, sâu 3m, cắm cọc nhọn chông chà bằng tre. Qua cánh đồng trũng là một lũy tre dày đặc bao bọc cả 3 phía Bắc, Tây, Tây nam. Lúc đầu nghĩa quân Ba Đình chỉ có khoảng 300 người, nhưng sau đó được bổ sung thêm. Vũ khí của nghĩa quân là súng hỏa mai, súng trường, cung, nỏ, vài khẩu súng thần công tổ chức cho 10 cơ đội, mỗi cơ đội khoảng 30 người do một hiệp quân chỉ huy. Lãnh đạo tối cao của căn cứ Ba Đình là Cán lý quân vụ Phạm Bành, còn người trực tiếp chỉ huy là Đinh Công Tráng được coi là linh hồn của khởi nghĩa Ba Đình. Lực lượng nghĩa quân Ba Đình có lúc đông tới hai vạn người, tuyển từ ba làng và các vùng Thanh Hóa, bao gồm cả người Kinh, Thái, Mường. Nghĩa quân có 10 toán, mỗi toán có một hiệp quản chỉ huy. Về vũ khí, nghĩa quân tự trang bị bằng súng hỏa mai, giáo mác, cung nỏ. Năm 1886, nghĩa quân liên tiếp tiến công các phủ, thành, huyện lỵ, chặn đánh các đoàn xe, các toán quân lẻ, gây cho quân Pháp nhiều thiệt hại. Ngày 12 tháng 3 năm 1886 lợi dụng phiên chợ đã tấn công Tòa Công sứ Thanh Hóa. Và tiếp đó, nghĩa quân đã tấn công nhiều phủ thành, chặn đánh các đoàn xe, gây cho quân Pháp nhiều thiệt hại. Từ 18 tháng 12 năm 1886 đến 20 tháng 1 năm 1887 Đại tá Brissand thống lĩnh 76 sĩ quan và 3.500 quân vây hãm và tiến đánh căn cứ Ba Đình. Quân Pháp đã nã tới 16.000 quả đại bác trong vòng một ngày trời, biến căn cứ Ba Đình thành biển lửa. Nghĩa quân Ba Đình đã chiến đấu trong suốt 32 ngày đêm chống lại đối phương đông gấp 12 lần, được trang bị vũ khí tối tân hiện đại. Trong trận chiến đấu vô cùng ác liệt này, nghĩa quân đã tỏ ra mưu trí dũng cảm, nhưng vì hỏa lực mạnh của đối phương nên nghĩa quân Ba Đình bị thương vong nhiều. Để tránh khỏi bị tiêu diệt hoàn toàn, nghĩa quân Ba Đình đã mở một con đường máu vượt qua vòng vây dày đặc của quân Pháp, rút lên căn cứ Mã Cao. Đến sáng ngày 21 tháng 1 năm 1887, quân Pháp mới chiếm được Ba Đình. Sau đó, quân Pháp đã triệt hạ hoàn toàn cả ba làng của căn cứ Ba Đình, tiếp tục cho quân truy kích nghĩa quân ở Mã Cao, rồi triệt hạ luôn đồn này vào 2 tháng 2 năm 1887. Sau đó, một số đông nghĩa quân rút lên Thung Voi, Thung Khoai, rồi lên miền Tây Thanh Hóa sáp nhập với đội nghĩa quân của Cầm Bá Thước. Kết cục, thủ lĩnh Nguyễn Khế tử trận. Phạm Bành, Hà Văn Mao, Lê Toại tự sát... Hoàng Bật Đạt sau bị bắt và bị Pháp chém đầu vì tinh thần bất khuất, không hàng giặc. Đinh Công Tráng thì chạy về Nghệ An. Quân Pháp treo giải cái đầu ông với giá trị tiền thưởng rất cao. Tháng 10 năm 1887, vì tham tiền thưởng, viên lý trưởng làng Chính An đã mật báo cho quân Pháp đến bắt và sát hại Đinh Công Tráng. Cuộc khởi nghĩa Ba Đình và các lãnh tụ Ba Đình được lịch sử đánh giá rất cao. Chủ tịch Hồ Chí Minh sau này đã chọn tên Ba Đình để đặt cho Quảng trường Ba Đình, nơi đọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nguồn: Báo điện tử Thanh Hoá

Thanh Hóa 3850 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền thờ Chu Văn Lương

Đền thờ Chu Văn Lương (còn gọi là đình làng Nam Ngạn), xưa thuộc xã Nam Ngạn, tổng Thọ Hạc, huyện Đông Sơn, phủ Thiệu Thiên, nay là phường Nam Ngạn, thành phố Thanh Hóa. Đền thờ quan Đốc học Liệt hầu đồng bình chương sự Chu Văn Lương, người có công dạy chữ, bốc thuốc chữa bệnh, khai phá đất đai lập ra ấp Nam Sơn, trại Nam Ngạn và tổ chức nhân dân nơi đây đánh giặc giữ làng, có nhiều công trạng trong cuộc khánh chiến chống quân Nguyên Mông đầu thế kỷ XIII. Sau khi ngài mất, vua Trần đã ban sắc phong cho ngài là “Thượng đẳng Phúc thần” và y chuẩn cho nhân dân trại Nam Ngạn giữ gìn cúng tế. Dân làng suy tôn ông làm Thành Hoàng làng. Đền được khởi dựng từ thời Trần ở ngoài đê sông Mã, đến năm Bảo Thái thứ 4 triều Lê Dụ Tông (1723) được di dời cùng với chùa Mật Đa vào khu đất hiện nay. Trải qua các triều đại, ngôi đền đều được triều đình quan tâm tu sửa, ban thêm sắc phong, mỹ tự cho thần. Đền thờ Chu Văn Lương đã được Bộ Văn Hoá-Thể Thao xếp hạng di tích Lịch Sử Văn Hoá cấp Quốc gia ngày 6/11/1989. Hiện nay, đền thờ còn lưu giữ được nhiều mảng chạm độc đáo, đặc sắc có phong cách nghệ thuật thời Nguyễn (thế kỷ XIX), cùng nhiều hiện vật đồ thờ thời Lê, Nguyễn có giá trị lịch sử văn hóa như: Sắc phong, ngai thờ bài vị, bảng văn, bia đá… Lễ hội được tổ chức vào ngày sinh nhật 18 tháng 2 âm lịch và ngày giỗ 12 tháng 9 âm lịch của ngài, với nhiều trò chơi, trò diễn dân gian đặc sắc. Hiện nay, đền thờ có vị trí địa lý như sau: Phía bắc giáp đường ngõ Đúc Tiền, phía nam giáp chùa Mật Đa và nhà dân, phía đông và phía tây giáp nhà dân. Tổng diện tích đất theo biên bản khoanh vùng các khu vực bảo vệ của di tích đền Chu Văn Lương là 0,140 hét ta. Diện tích đất nghiên cứu Quy hoạch dự kiến là 0,142 hét ta. Nguồn: Trang thông tin điện tử thành phố Thanh Hoá

Thanh Hóa 4050 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Chùa Mật Đa

Chùa Mật Đa thuộc cụm Di tích lịch sử Nam Ngạn, phường Nam Ngạn (TP Thanh Hóa), đã được công nhận là Di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia năm 1989. Theo văn bia còn lưu giữ thì chùa Mật Đa lúc đầu ở ngoại đê sông Mã, thuộc ấp Hòa Bình, xã Nam Ngạn, được xây dựng vào thời Hậu Lê - đời Bảo Thái năm thứ tư, tức năm Quý Mão 1723. Thuở ban sơ, ngôi chùa chỉ là nhà tranh vách đất, dùng để thờ Phật. Tượng Phật được tôn tạo bằng đất nung rất đẹp, cung kính, trang nghiêm. Chùa Mật Đa là một ngôi chùa cổ của Thanh Hóa còn giữ được nguyên vẹn với kiến trúc đặc trưng của những ngôi chùa vùng đồng bằng Bắc bộ. Chữ “Mật Đa tự” mang hàm nghĩa là nơi có hoa thơm, quả ngọt của đất Phật, có nhiều phúc đức nên từ xa xưa chùa đã thu hút rất đông khách thập phương về chiêm bái, thể hiện tâm linh, cầu phúc, làm việc thiện giúp đời. Cảnh chùa phong quang, hoa văn trang trí rất độc đáo. Quy mô ngôi chùa mang kiến trúc hình chữ Đinh, gồm 5 gian tiền đường, 2 gian hậu cung. Bên trong chính điện có treo một bức đại tự sơn son thếp vàng chạm 3 chữ “Mật Đa tự”. Ở gian giữa có 4 chữ “Pháp giới mông huân”. Gian ngoài cùng treo một bức có 4 chữ “Tam giới độc tôn”. Hậu cung là cung Tam bảo nơi đặt tượng Phật. Phía Tây Nam ngôi chùa là nhà Tăng và nhà Tổ. Kết cấu của chùa với bộ khung gỗ vững chắc, cột bằng gỗ lim, chùa lợp bằng ngói đất nung mái cong. Trong chùa bài trí tượng pháp khá đầy đủ. Đặc biệt chùa có hai tượng hộ pháp khuyến thiện và trừ ác cao hơn 3m. Sau khi xây dựng tôn tạo nhiều lần, về mặt kiến trúc điêu khắc của chùa đã có sự thay đổi hài hòa đan xen giữa các nền nghệ thuật của các thời Trần, Lê, Nguyễn... Chùa có 4 pho tượng rất đẹp do thập phương công đức. Tại bia số 2 bên trái chùa có ghi ngôi chùa này được trùng tu vào thời Bảo Đại năm thứ 3 Mậu Thìn 1928. Mật Đa tự không chỉ là một ngôi chùa đẹp linh thiêng trong tâm nguyện của Nhân dân, mà còn mang dấu ấn của một di tích lịch sử, có công trong cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ xâm lược. Cán bộ, chiến sĩ và Nhân dân Hàm Rồng - Nam Ngạn không bao giờ quên hình ảnh các nhà sư trong chùa đã tích cực tham gia chiến đấu. Chùa Mật Đa trở thành sở chỉ huy của trận địa bảo vệ cầu Hàm Rồng, là nơi tập kết lương thực, thực phẩm, đạn dược, nơi cấp cứu nuôi dưỡng ban đầu cho thương binh. Chỉ nằm cách cầu Hàm Rồng gần 2km theo đường chim bay, nên chùa Mật Đa đã trở thành địa điểm cứu chữa thương binh quan trọng của trận địa bảo vệ cầu Hàm Rồng. Chùa Mật Đa sẽ sống mãi với những trang sử hào hùng của dân tộc và trong tâm thức tăng ni, đồng bào phật tử và Nhân dân cả nước cũng như của Nam Ngạn - Hàm Rồng, Thanh Hóa. Nguồn: Báo Thanh Hoá

Thanh Hóa 3972 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Thái miếu nhà Hậu Lê

Tọa lạc tại phố Kiều Đại, phường Đông Vệ, thành phố Thanh Hóa, Thái miếu nhà Hậu Lê nằm tĩnh lặng, yên bình bên những bóng cây cổ thụ hơn 200 năm tuổi. Nơi hậu thế tỏ lòng kính ngưỡng với vương triều Hậu Lê - một triều đại phong kiến dài nhất trong lịch sử Việt Nam. Thái miếu nhà Hậu Lê hay còn gọi là Đền Lê, Miếu Bố Vệ được xây dựng vào năm Gia Long thứ 4 (1805) là nơi thờ tự chung của các đời vua, các vị Hoàng hậu, Hoàng Thái hậu, Triệu tổ, Hiển tổ, Tuyên tổ cùng các vị vương công, đại thần triều hậu Lê. Điểm nhấn của Thái miếu được thể hiện ở lối kiến trúc nghệ thuật độc đáo, mang phong cách kiến trúc Hậu Lê và thời Nguyễn, với các công trình: Nghinh môn, sân điện, tiền điện, hậu điện. Qua Nghinh môn là bức cuốn thư (xây dựng năm 1805) một trong những hiện vật cổ còn lưu giữ. Thái miếu gồm 2 tòa: Tiền điện và Hậu điện được bố trí liền nhau theo lối trùng thềm (kiểu chữ Nhị) gồm 7 gian, mái được lợp ngói mũi hài, phía trên nóc được trang trí công phu với biểu tượng "lưỡng long chầu nguyệt". Phía trước Tiền điện có 2 cột nanh cao 6m và các con Nghê làm từ chất liệu gỗ mít, được chạm khắc tinh xảo, mang đậm chất nghệ thuật điêu khắc cổ. Tại gian giữa của Tiền Điện treo một bức hoành phi lớn có khắc 6 chữ: "Nam quốc sơn hà tự thử" (có nghĩa là nước Nam ta có từ đây), bên cạnh có hàng chữ nhỏ ghi năm dựng miếu là 1805. Trải qua biến thiên của thời gian cùng nhiều lần trùng tu, nhưng Thái miếu nhà Lê còn lưu giữ được nhiều hiện vật giá trị. Nơi đây hiện đang lưu thờ bài vị của 27 vua, Hoàng Thái Hậu cùng các vương công nhà Hậu Lê. Trong đó có 4 thánh vị cổ của các vua Lê Thái Tổ, Lê Thần Tông, Lê Huyền Tông và Lê Gia Tông. Với những giá trị về văn hóa, lịch sử, năm 1995, Thái miếu nhà Hậu Lê được công nhận là Di tích lịch sử văn hoá và kiến trúc nghệ thuật Quốc gia. Hơn 200 năm đã trôi qua, Thái miếu nhà Hậu Lê uy nghi đứng đó, cổ kính và linh thiêng, là nơi để hậu thế tìm về, chiêm ngắm, tỏ lòng tri ân các bậc tiền nhân, là nơi lưu giữ những giá trị lịch sử, văn hóa giúp hậu thế phần nào hiểu được về một chặng đường phát triển của lịch sử để từ đó thêm tự hào và yêu hơn mảnh đất nơi mình được sinh ra và lớn lên. Nguồn: Đài phát thanh và truyền hình Thanh Hoá

Thanh Hóa 4370 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền thờ Mai An Tiêm

Đền thờ Mai An Tiên thuộc xã Nga Phú, huyện Nga Sơn, cách huyện lỵ Nga Sơn 5km về phía Đông Bắc. Ngôi đền nhỏ đơn sơ nép mình bên sườn núi nhưng chứa đựng cả một huyền thoại đẹp được lưu truyền bao đời nay. Kiến trúc của ngôi đền khá đơn giản, đền được kết cấu theo hình chữ Đinh gồm 5 gian Tiền Bái và 4 gian Hậu cung được mô phỏng theo kiến trúc đình, đền Việt Nam, có cổng tứ trụ truyền thống. Nội thất trong đền được bố trí trang nghiêm, gọn gàng. Đến thăm ngôi đền của nhân vật huyền sử - Mai An Tiêm, người khai sinh ra quả dưa hấu đỏ ai cũng có tâm trạng xúc động về một biểu tượng về tinh thần vượt khó, cần cù, sáng tạo trong lao động. Tương truyền: Vào thời vua Hùng Vương thứ 6, Mai Yển - hiệu An Tiêm nguyên Thượng thư Lại Bộ Xuân Thu, do có nhiều công trạng nên được nhà vua rất yêu mến và gả con gái cho. Được vua yêu quý nên chàng bị các lạc hầu, lạc tướng ghen ghét, gièm pha tìm cách hãm hại;một lần vì làm phật ý vua nên chàng và gia đình bị đày ra đảo hoang sinh sống. Nhờ có loài quạ tha quả về ăn, Mai Yển đã tìm cách đuổi quạ đi và ăn thử thấy ngon, ngọt lạ thường bèn đem hạt gieo, mùa đầu đã cho nhiều quả và thứ quả đó đã nuôi sống gia đình Mai Yển, sau này người ta gọi đó là quả dưa hấu. Vụ này tiếp nối vụ kia, dưa hấu ngày càng nhiều, gia đình Mai Yển dùng không hết liền nghĩ cách, khắc chữ vào vỏ quả, bỏ xuống biển, thủy triều đã đẩy những quả dưa vào bờ, quan quân thấy vậy liền tâu lên nhà vua, mọi người cùng ăn và vui mừng khen ngon. Vua biết Mai Yển và vợ con không chết mà còn nhớ đến nhà vua, tìm cách dâng quả ngon; vua liền ra lệnh đưa Mai Yển về đất liền để phong lại chức tước. Với ý nghĩa dân gian sâu sắc, vào năm Duy Tân thứ nhất, vua sắc phong cho thôn Ngoại, huyện Nga sơn thờ phụng Mai Yển hiệu An Tiêm Dực Bảo Trung Hưng linh phù chi thần. Đến năm Khải Định thứ 9, vua gia phong Đoan túc tôn thần, sắc cho thôn Ngoại tiếp tục thờ phụng. Đặc biệt chuẩn phong cho phép phụng thờ, dùng theo lễ quốc khánh. Năm 1989, đền thờ Mai An Tiêm thuộc xã Nga Phú, huyện Nga Sơn đã được xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh. Hàng năm, vào ngày 12 đến 15 tháng 3 âm lịch, tại đền thờ Mai An Tiêm, chính quyền và nhân dân địa phương thường tổ chức lễ hội để tưởng nhớ, tri ân Mai An Tiêm, người có công khai phá, mở mang bờ cõi, thủy tổ của nghề canh nông cho dân trong vùng. Hình ảnh Mai An Tiêm và sự tích quả dưa hấu là sức sống mãnh liệt của dân tộc ta trong buổi đầu dựng nước. Nguồn: Du lịch Thanh Hoá

Thanh Hóa 4484 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Cầu Hàm Rồng

Cầu Hàm Rồng lịch sử nằm trên tuyến đường Bắc – Nam của vùng đất xứ Thanh “địa linh nhân kiệt”, sơn thủy hữu tình bắc qua sông Mã, với lối kiến trúc độc đáo, gắn liền với lịch sử phát triển của mảnh đất Xứ Thanh hào hùng, ý chí quật cường của người Thanh Hóa. Cầu Hàm Rồng là cây cầu đầu tiên được bắc ngang qua dòng sông Mã ở Thanh Hóa, cách trung tâm Thành phố Thanh Hóa gần 5km về phía Bắc... Đây cũng là cây cầu đường sắt duy nhất đi qua dòng sông Mã do Pháp xây dựng năm 1904 theo kiểu cầu vòm thép không có trụ, hiện đại nhất Đông Dương thời bấy giờ. Năm 1946, cầu bị phá hủy theo chủ trương tiêu thổ kháng chiến của Việt Minh nhằm ngăn chặn bước tiến của quân xâm lược. Năm 1963, cầu được các chuyên gia Liên Xô và Trung Quốc giúp đỡ thiết kế và thi công khôi phục lại, trở thành cầu có trụ như hiện nay, với chiều rộng 17 mét, gồm 2 nhịp dầm thép, ở giữa là đường sắt, hai bên là đường ô tô và đường dành cho người đi bộ. Trong chiến tranh leo thang đánh phá miền Bắc nước ta, Không quân Mỹ đã tập trung đánh phá cầu Hàm Rồng nhằm cắt đứt huyết mạch giao thông quan trọng, ngăn chặn sự chi viện của hậu phương miền Bắc cho chiến trường lớn miền Nam. Việc đánh phá Hàm Rồng được Nhà Trắng và Lầu Năm Góc chọn là mục tiêu quan trọng nhất trong cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ nhất. Với âm mưu cắt đứt sự chi viện Bắc - Nam, cô lập Hàm Rồng và tập trung đánh dứt điểm Hàm Rồng, vào 8 giờ 45 phút ngày 3/4/1965, 16 chiếc máy bay đầu tiên của Mỹ ném bom vào địa phận Thanh Hoá với một loạt địa điểm đánh phá như cầu Đò Lèn (Hà Trung), cầu Cun (Nông Cống), ga Văn Trai (Tĩnh Gia)... Chỉ trong 2 ngày 3 và 4/4/1965, quân Mỹ đã sử dụng 174 lần tốp, 454 lần máy bay; ném xuống địa bàn tỉnh Thanh Hoá 627 quả bom phá, 58 quả bom nổ chậm (gồm các loại từ 500 đến 1.000kg), hàng trăm tên lửa, rốc-két vào các khu vực trọng điểm của Thanh Hoá. Riêng khu vực Hàm Rồng - Nam Ngạn - Yên Vực, địch bổ nhào 85 lần, cắt bom bắn phá 80 lần, ném 350 quả bom, bắn 149 quả đạn rốc-két. Để bảo vệ cầu Hàm Rồng, về phía ta, trong buổi làm việc với Ban Thường vụ Tỉnh ủy Thanh Hóa tháng 12 năm 1967, đồng chí Lê Duẩn khẳng định: “Nếu như Quân khu IV là quan trọng thì Thanh Hóa là quan trọng nhất bởi vì Thanh Hóa là hậu phương trực tiếp của mặt trận Bình - Trị - Thiên và Lào”. Tỉnh ủy Thanh Hóa nhận định: “Trọng điểm đánh phá quân khu vào lúc này là Thanh Hóa, trọng điểm Thanh Hóa là Hàm Rồng, bảo vệ cầu Hàm Rồng là góp phần bảo vệ giao thông thông suốt”. Do vị trí đặc biệt quan trọng của cầu Hàm Rồng là ở hai đầu Bắc vào Nam của cầu có hai ngọn núi, núi Ngọc và núi Rồng có thể chắn được hầu hết bom rơi xuống. Sau 2 ngày chiến đấu kiên cường, Thanh Hoá đã bắn rơi 47 máy bay giặc Mỹ, bắt sống nhiều giặc lái, bảo vệ an toàn cầu Hàm Rồng. Điều này đã chứng minh đường lối chiến tranh nhân dân, nghệ thuật quân sự của Đảng và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của nhân dân ta đã đi vào lịch sử như một huyền thoại khiến dư luận nước Mỹ xôn xao, bạn bè yêu chuộng công lý và hòa bình trên toàn thế giới khâm phục. Năm tháng qua đi. Cầu Hàm Rồng cùng hai chữ “Quyết Thắng” uy nghiêm tạc vào sườn núi như một biểu tượng sáng ngời về chủ nghĩa yêu nước và anh hùng cách mạng của dân tộc Việt Nam. Với mỗi người con Thanh Hóa, Hàm Rồng - Sông Mã còn là hiện thân của quê hương, vừa gần gũi, thân thuộc, vừa rất đỗi thiêng liêng, tự hào. Nguồn: Trường Chính Trị Thanh Hóa

Thanh Hóa 6829 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền Thờ Lê Hoàn

Đền Lê Hoàn ở làng Trung Lập, xã Xuân Lập, huyện Thọ Xuân (Thanh Hóa) là di tích lịch sử quốc gia đặc biệt và được ví là ngôi đền cổ nhất xứ Thanh. Đền Lê Hoàn ở ngôi làng hàng trăm năm tuổi, nơi đã sinh ra vị khai quốc của Triều Tiền Lê hiển hách trong lịch sử dân tộc - Lê Đại hành Hoàng đế. Hiện nơi đây vẫn còn một ngôi đền thờ Vua nằm ở cuối làng được mệnh danh là một trong những ngôi đền cổ bậc nhất xứ Thanh và được công nhận là di tích lịch sử Quốc gia đặc biệt. Theo sử sách, Lê Hoàn sinh ngày 15 tháng 7 năm Tân Sửu (941) tại trang Kẻ Xốp, huyện Di Phong Châu Ái (nay là làng Trung Lập, xã Xuân Lập, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa) trong một gia đình nông dân nghèo. Cha là Lê Mịch, mẹ là Đặng Thị. Năm lên 6 tuổi, Lê Hoàn mồ côi cả cha lẫn mẹ, làm con nuôi cụ Lê Đột ở trang Kẻ Mía (nay là làng Phong Mỹ, xã Trường Xuân, huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa). Lớn lên, Lê Hoàn tòng quân phò giúp Đinh Tiên Hoàng dẹp loạn 12 xứ quân, lập nhiều công trạng và được phong Thập đạo Tướng quân. Ông một lòng phò tá góp phần cùng Vua Đinh vỗ yên trăm họ, đất nước thái bình. Mùa Đông tháng 10 năm Kỷ Mão (979), vua Đinh Tiên Hoàng và con trai cả Nam Việt Vương Đinh Liễn bị Đỗ Thích sát hại. Lê Hoàn được cử làm nhiếp chính, giúp ấu Chúa nhà Đinh giữ yên biên cương xã tắc, dẹp tan nội phản, được Thái hậu Dương Vân Nga trao áo long bào. Năm Canh Thìn 980 Lê Hoàn lên ngôi Hoàng đế, đặt niên hiệu là Thiên Phúc. Vua đánh tan quân Tống, giữ yên bờ cõi, chinh phạt Chiêm Thành từng bước khẳng định chủ quyền đất nước dân tộc, cho đúc tiền Thiên Phú chú trọng đến việc phát triển nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp giao thông, thương mại. Sau đó, Lê Hoàn mất ngày 8 tháng 3 năm Ất Tỵ (1005) tại Cố Đô Hoa Lư - tỉnh Ninh Bình, thi hài Lê Hoàn được an táng tại Sơn Lăng, châu Trường Yên, ở ngôi 24 năm, thọ 65 tuổi, miếu hiệu là Đại Hành Hoàng đế. Nguồn: Cổng thông tin điện tử Huyện Thọ Xuân

Thanh Hóa 4819 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa