Theo Thần tích, Thần sắc của huyện Kim Động và những tư liệu tại địa phương, đình Thọ Nham Hạ thờ Thánh Tam Giang hay còn gọi là Tam Giang Đại Vương. Ông sinh ra trong một gia đình có 5 anh em vào đời vua tiền Lý Nam đế, từng theo Triệu Quang Phục đánh giặc Lương. Đình được khởi dựng từ rất sớm. Ban đầu, ngôi đình có quy mô nhỏ, làm bằng vật liệu tranh tre, nứa, lá đơn giản. Trải qua thời gian, đình được trùng tu, tôn tạo nhiều lần dưới thời Hậu Lê và thời Nguyễn. Dấu ấn kiến trúc hiện tại của ngôi đình là từ lần trùng tu lớn dưới thời Nguyễn niên hiệu Bảo Đại thứ 15 (1940) với quy mô kiến trúc bề thế, gồm nhiều hạng mục công trình: Đại bái, Hậu cung, nghi môn, giếng đình, giải vũ, nhà bia,... Nghi môn đình Thọ Nham Hạ gồm ba cổng: Cổng giữa xây dạng cột trụ biểu rộng và cao hơn hẳn so với hai cổng phụ. Đỉnh cột trụ chính đắp “tứ phượng tụ vĩ” (4 con chim phượng chụm đuôi vào nhau). Phần ô lồng đèn trang trí tứ linh (long, lân, quy, phượng), hổ phù ngậm chữ Thọ. Thân trụ xây vuông, đắp gờ, kẻ nổi và đắp câu đối chữ Hán. Hai cổng phụ làm kiểu chồng diêm hai tầng tám mái, đường bờ nóc đắp con kìm ngậm đầu bờ nóc, chính giữa là hình tượng mặt trời với các đao lửa. Mái trên và dưới đắp giả ngói ống, các đầu đao trang trí hoa văn mềm mại. Phần cổ diêm đắp nổi chữ Hán. Thân cổng phụ xây vuông, đắp gờ, kẻ nổi và đắp câu đối chữ Hán. Qua khoảng sân rộng là đến khu thờ chính có kết cấu kiểu chữ Đinh (丁) gồm 05 gian 02 chái Đại bái và 03 gian Hậu cung, mặt tiền hướng Tây Nam, các cấu kiện kiến trúc được làm bằng gỗ mang đậm nét kiến trúc thời Nguyễn. Đại bái làm kiểu tường hồi bít đốc, mái lợp bằng ngói ta. Bờ nóc là một đường xây bằng gạch, phủ vữa áo tạo những đường gờ chạy song song. Trung tâm bờ nóc đắp hình lưỡng long chầu nhật, rồng uốn ba khúc khỏe mạnh, đầu vươn cao. Kết thúc đường bờ nóc là hai đấu vuông thót đáy và hai con kìm dạng đầu rồng há miệng ngậm bờ nóc, đuôi là một vân xoắn có dạng dấu hỏi “?” ngược lớn chạy từ đầu vươn ra phía sau, toàn thân chầu về phía trung tâm bờ nóc. Bờ dải được xây vuông góc với đường bờ nóc theo kiểu giật cấp để nguyên không trang trí. Cuối bờ dải là hai bức tường lửng và hai cột trụ biểu. Cột đồng trụ cao 7m, đỉnh cột đắp long cuốn ổ cách điệu quả dành dành, 4 chân quỳ, 4 góc đắp 4 phượng. Phần ô lồng đèn đắp nổi tứ linh (long, lân, quy, phượng). Thân cột xây vuông, đắp gờ, kẻ nổi và thể hiện 3 đôi câu đối chữ Hán. Ngăn cách giữa Đại bái và hiên là ba luồng cửa. Cửa đình được làm theo lối cửa bức bàn. Mỗi cửa gồm bốn cánh dựng song song với nhau trên bậu cửa nối hai cột quân lại tạo ra sự kết nối liên hoàn, chắc chắn giữa các thành tố bộ phận trong tổng thể kiến trúc ngôi đình. Các cánh cửa đều có trụ xoay, cài then, chốt gióng. Đỡ cửa bức bàn là ngưỡng để hệ thống cửa không tiếp xúc với đất gây ẩm mốc, hư hỏng, trang trí hoa văn triện tàu lá mái. Phần trên khuôn cửa để hàng chấn song con tiện và các khoảng ô sa chạm trang trí tứ linh, tứ quý. Nền Đại bái lát gạch vuông. Bộ khung chịu lực toà này được định vị vững chắc bởi hệ thống cột cái, cột quân, xà, vì,... Hệ thống cột đứng song hàng thành từng cặp (gồm 12 cột cái và 12 cột quân). Các cột trong vì đều có kết cấu “thượng thu hạ thách”, được kê lên chân tảng. Các bộ vì tòa Đại bái được làm theo kiểu “vì chồng rường”. Các con rường được tạo tác nổi khối, to khỏe tạo sự vững chắc, trang trí hoa văn lá lật mềm mại, kê trên các đấu vuông trang trí chữ Thọ. Vì nách làm kiểu cốn mê, trang trí tứ linh (long, lân, quy, phượng), tứ quý (tùng, trúc, cúc, mai) rất sinh động. Dưới quá giang là hai đầu dư được trang trí thành hai đầu rồng với các đao mác lượn sóng, râu tóc dài bay ra phía sau và cá hóa long. Bộ phận này có tác dụng chịu lực và trang trí làm giảm bớt đi sự thô cứng cho các bộ vì. Hậu cung đình gồm 03 gian, được chia thành hai phần, ngăn cách bằng hệ thống cửa gồm: Hậu cung ngoài 01 gian và cung cấm 02 gian. Cũng giống như tòa Đại bái, các bộ vì Hậu cung được làm theo kiểu “vì chồng rường”. Toàn bộ phần mái Hậu cung được đặt trực tiếp lên hệ thống cột, tường bao xung quanh và được lợp ngói ta. Hậu cung ngoài thông phong với tòa Đại bái. Đặc biệt, tại đây còn lưu giữ một bát hương sứ men xanh ngọc, nổi rõ các vân mây, 5 ô hoa văn long hóa giữa chữ Thọ, có niên đại thời Lê Cảnh Hưng. Bên phải ban thờ Tam Giang Đại vương đặt ban thờ Quế Hoa Công chúa. Tượng bà Quế Hoa được đặt trong khám thờ chạm trang trí kiểu khám trúc, lèo kép, lồng khung kính. Tượng làm bằng đồng, cao 61cm, dày vai 32cm, dày hông 43cm. Tượng được tạc trong tư thế ngồi trên bệ sơn son thiếp vàng hình bát giác, dáng thư thái như bà chúa trong triều, gương mặt đẹp; cổ kiêu 3 ngấn, tai đeo nụ vàng, đầu đội mũ vương miện, cổ đeo dây chuyền 4 vòng, mình mặc áo gấm, trên áo trang trí chạm đúc nổi các đồng tiền vàng giữa chữ Thọ. Tay trái để úp vào đùi, tay phải để trên đùi nghiêng vào lòng. Ngoài ra, trên ban thờ còn bài trí nhiều đồ thờ có giá trị như: đỉnh đồng, chân nến đồng, bát hương sứ,… Hiện nay, đình Thọ Nham Hạ còn lưu giữ được một số hiện vật, đồ thờ được chạm khắc đẹp, có giá trị về mặt lịch sử và mỹ thuật có niên đại thời Hậu Lê và Nguyễn như: bát hương sứ men ngọc, 04 bức đại tự, 03 đôi câu đối, 03 bức châm, 04 sắc phong (1 Thành Thái, 3 Khải Định), 02 khám thờ, 01 đỉnh đồng, tượng Quế Hoa công chúa,… Với những giá trị tiêu biểu trên, đình Thọ Nham Hạ, xã Thọ Vinh, huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên được Bộ trưởng Bộ Văn hóa – Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) xếp hạng là Di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia theo Quyết định số 78/2004/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thông Tin ngày 23/8/2004./. Nguồn Cục di sản văn hóa .
Hưng Yên 2455 lượt xem
Đình Đồng Hạ nằm trên một thế đất cao ráo, thoáng mát ngay trung tâm của làng, phía trước là ao đình - nơi hội tụ những điều may mắn. Căn cứ vào bia ký niên hiệu Cảnh Trị thứ 4 sắc phong di tích có từ thời Hậu Lê (1783) do nhân dân xã Đức Chiêm xây dựng đã trùng tu lần 1 vào năm Canh Ngọ đời Nguyễn và lần 2 vào năm 1991. Đình Đồng Hạ thờ Lưu Lang đại vương có công cùng Đinh Bộ Lĩnh dẹp yên 12 xứ quân. Đình còn ghi lại nhiều sự kiện lịch sử của địa phương trong thời kỳ cách mạng kháng chiến chống Pháp và Mỹ. Kiến trúc đình được xây dựng theo kiểu chữ Đinh gồm: Đại Bái và Hậu Cung. Đứng từ xa ta có thể nhìn thấy 4 mái của di tích với 4 đầu đao cong vút nhờ một hệ thống kết cấu đặc biệt gọi là tầu đao lá mái. Để tạo nên sự uy linh cho di tích, các nghệ nhân xưa đã đắp nổi hình rồng chầu, phượng mớm và nghê nằm soài chầu nhau. Bờ nóc, bờ dải, bờ guột của đình được trang trí hình ô hoa chanh, đây là đặc điểm nghệ thuật thường xuất hiện ở thế kỷ XVII. Đại Bái có 5 gian 2 dĩ dài thông thủy, mỗi gian rộng 4m, mỗi dĩ rộng 0,7m với tổng diện tích 300m2. Toàn bộ hệ thống cột được làm bằng gỗ lim nguyên cây theo kiểu “thượng thu hạ thách” và đặt trên các tảng đá kê theo kiểu âm dương “dưới vuông trên tròn”. Hai gian giữa có hai bộ vì làm theo kiểu giá chiêng chồng giường và được cách điệu hóa hình hoa văn guột lá, hình đao mác; những đấu kê chạm khắc hình chữ Thọ; các mảng cốn được chạm khắc nổi hình đuôi rồng và nối tiếp với các đầu dư. Các đầu dư thời Lê hình đao hỏa uy nghi, uy quyền. Vì vậy, đứng ở dưới nhìn lên sẽ thấy hình một con rồng nguyên vẹn. Hậu cung gồm 3 gian với kiểu kiến trúc giá chiêng đơn giản bằng gỗ lim. Ở giữa là một ban thờ được bài trí hai ngai thờ Lê, chân ngai quỳ theo kiểu hổ phù. Hai tay ngai cách điệu phượng bay. Bài vị trang trí rồng, hoa chanh... Hiện nay, Đình Đồng Hạ còn lưu giữ được một số hiện vật quý giá như bia lưu lễ ghi niên hiệu Cảnh Trị thứ 4, bia hậu Khải Định thứ 5, kiệu bát cống, long ngai, bài vị, đỉnh, nến đồng, sắc phong... Đình vẫn được bảo quản, giữ gìn tốt, là nơi sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng của nhân dân địa phương. Với những giá trị trên, đình Đồng Hạ, xã Đức Hợp, huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên được Bộ trưởng Bộ Văn hóa – Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) xếp hạng là Di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia theo Quyết định số 78/2004/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thể Thao ngày 23/8/2004./. Nguồn Cục Di Sản Văn Hóa .
Hưng Yên 2640 lượt xem
Đền Phù Ủng toạ lạc ở làng Phù Ủng, xã Phù Ủng. Đây là một quần thể kiến trúc đồ sộ, phong phú và độc đáo gồm phần chính đền và nhiều công trình phụ trợ hợp thành, được phân bố dải rác, xen kẽ với khu dân cư. Theo thuyết phong thuỷ, cụm di tích được xây dựng trên khu đất đầu rồng, là nơi dương trạch tốt với thế đất “Thất linh ứng hậu, hình nhân bái tướng, voi quỳ ngựa phục, bên bút bên nghiên, bên cờ bên kiếm, ở giữa có mô hòn ngọc, cạnh dòng sông Cửu Yên như rồng uốn khúc, mà đầu rồng là khu đất dựng đền nhô hẳn ra khỏi làng”. Đền Phù Ủng thờ Phạm Ngũ Lão (1255 - 1320), một danh tướng văn võ song toàn, được Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn hết sức tin cậy, rèn luyện, tiến cử với triều đình và trở thành vị tướng phò tá 3 đời vua nhà Trần. Ông sinh ra tại làng Phù Ủng, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, tỉnh Đông (nay là thôn Phù Ủng, xã Phù Ủng). Cuộc đời ông gắn liền với chiến trận và những chiến công vang dội, hiển hách góp phần cùng với quân dân nhà Trần đánh thắng giặc Nguyên Mông xâm lược, đem lại thái bình cho đất nước và cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho Nhân dân. Phạm Ngũ Lão mất tại phủ đệ vua ban ở Thăng Long và được nhà vua phong là “Thượng đẳng phúc thần”. Ngôi đền là một quần thể di tích có kiến trúc đồ sộ, quy mô rộng lớn khá hoàn chỉnh được chia làm hai khu: Khu trong và khu ngoài. Khu ngoài gồm đền thờ chính Điện súy thượng tướng quân Phạm Ngũ Lão. Chính điện gồm 5 gian Tiền tế, ống muống và 03 gian Hậu cung đặt tượng thờ tướng quân Phạm Ngũ Lão, được đúc bằng đồng có niên đại thời Nguyễn nặng 300kg ở tư thế ngồi; Bên trái là Lăng thờ Đức Tiên Công, bên kia đường là điện thờ Nhũ mẫu; Khuê Văn Các kết cấu hình bát giác… Khu trong được bố cục theo kiểu “Tiền Thần hậu Phật” gồm đền thờ công chúa Tĩnh Tuệ (con gái Phạm Ngũ Lão), chùa Bảo Sơn (Cảm Ân tự), lăng Quốc công Vũ Hồng Lượng được làm bằng đá xanh với kiến trúc nghệ thuật chạm khắc đá tiêu biểu, đặc sắc thời Hậu Lê thế kỷ XVII. Hiện nay, tại quần thể di tích đền Phù Ủng còn lưu giữ một số hiện vật có giá trị về mặt lịch sử cũng như nghệ thuật đó là hệ thống điêu khắc đá, tượng đồng, đại tự, câu đối, chén bạc thời Nguyễn, sắc phong,… Lễ hội truyền thống đền Phù Ủng được tổ chức từ ngày 11 đến ngày 13 tháng Giêng âm lịch, để kỷ niệm ngày ra quân của tướng quân Phạm Ngũ Lão. Trong lễ hội bao gồm phần lễ và phần hội kết hợp vừa trang trọng, tôn nghiêm, vừa rộn ràng, vui tươi. Đây là một trong những lễ hội đầu xuân lớn của tỉnh thu hút đông đảo Nhân dân tham gia. Phần hội có tổ chức các trò chơi dân gian như: Cờ tướng, chọi gà, múa rối, kéo co, hát quan họ, xin chữ đầu xuân, hội thi vật cù, nhảy mô đống… thu hút đông đảo du khách đến xem và tham gia. Bên cạnh các trò chơi dân gian, một số hoạt động thể thao như: bóng chuyền, cầu lông, cờ tướng… diễn ra sôi nổi giúp người dân được hòa mình vào lễ hội cũng như có dịp vui chơi, nghỉ ngơi, cầu mong một năm làm việc may mắn. Lễ hội mang đậm giá trị văn hóa sâu sắc, đây không chỉ là dịp tưởng nhớ công lao của danh tướng họ Phạm mà còn giáo dục cho những thế hệ sau về ý chí vươn lên, về lòng yêu nước, minh chứng về nền văn hiến lâu đời của dân tộc. Từ những giá trị tiêu biểu, đặc sắc đó khu di tích đền Phù Ủng được Bộ Văn hóa xếp hạng là di tích “Lịch sử” cấp Quốc gia theo Quyết định số 1288-Văn Hóa /Quyết Định ngày 16/11/1988. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Ân Thi , tỉnh Hưng Yên.
Hưng Yên 2803 lượt xem
Đền Trà Phương (tên nôm là đền Chè Nhang, đậu Chè) toạ lạc ở trung tâm thôn Trà Phương, xã Hồng Vân, nơi có thế đất đẹp và thoáng mát, mặt tiền quay hướng Nam. Theo tương truyền thì đền được xây dựng trên thế đất “rồng chầu, hổ phục” nên nhiều người con của quê hương thành danh trên mọi miền đất nước. Đền được xây dựng để thờ thiên thần là Ngọc Hoàng thượng đế, Thái Thượng Lão quân; thờ vọng Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn - người có công lãnh đạo quân dân nhà Trần ba lần đánh thắng quân Nguyên - Mông xâm lược nước ta. Ngoài ra, đền còn thờ Thành hoàng bản thổ, gia tiên 12 dòng họ và các vị danh nhân có công lập ấp dựng làng, chống ngoại xâm. Thời chiến tranh, ngôi đền còn là căn cứ địa cách mạng của một vùng rộng lớn thuộc phía Nam Hưng Yên, là trung tâm truyền bá cách mạng, một cơ sở giáo dục truyền thống yêu nước qua nhiều thế hệ, là nơi che dấu bảo vệ nhiều cán bộ trung ương, tỉnh, huyện về chỉ đạo kháng chiến và phục vụ nhiều hội nghị tại đền lúc bí mật cũng như lúc công khai. Đền được khởi dựng dưới thời vua Lê Trang Tông và được trùng tu vào thời Nguyễn. Hiện nay, đền có kiến trúc kiểu “nội Công ngoại Quốc” gồm: Tiền tế, Ống muống, Hậu cung và hai dãy Giải vũ. Tiền tế được trùng tu lại vào năm Thành Thái thứ 18 (1906), toà này còn lưu giữ nhiều mảng chạm khắc đẹp nhất là các bộ vì nách gian trung tâm chạm các đề tài tứ quý hoá rồng, tứ linh với đường nét tinh xảo. Toà Ống muống gồm 05 gian, kết cấu dọc được xây dựng vào năm Minh Mệnh thứ nhất (1820), các bộ vì được tạo tác kiểu con chồng đấu sen, các bức cốn chạm nổi đầu rồng chầu, đề tài tứ linh. Hậu cung gồm có 03 gian dài, kiến trúc đơn giản nhưng đây là hạng mục còn lưu giữ dấu tích từ khi khởi dựng đền. Hiện nay, tại đền còn lưu giữ một số hiện vật rất có giá trị như: chén sứ, bát hương, lục bình, nhang án,…Để tưởng nhớ đến công lao các vị thần, dân làng thường tổ chức lễ hội vào 02 dịp là ngày mồng 09 tháng 11 và mồng 08 tháng 03 âm lịch hằng năm. Trong lễ hội thường có lễ cầu phúc, cầu lộc, lễ tế nước, đốt cây bông và nhiều trò chơi dân gian. Ngày nay, lễ hội diễn ra đơn giản hơn nhưng vẫn đảm bảo được các nghi thức truyền thống và thu hút đông đảo nhân dân, khách thập phương tham gia. Từ những giá trị vốn có, đền Trà Phương được xếp hạng là di tích “Lịch sử và kiến trúc - nghệ thuật” cấp Quốc gia theo Quyết định số 68-Văn Hóa /Quyết Định ngày 29/1/1993 của Bộ Văn hóa- Thông tin. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên.
Hưng Yên 2632 lượt xem
Đình Đào Quạt toạ lạc trên một khu đất cao ráo, thoáng đãng giữa thôn Đào Quạt, xã Bãi Sậy. Xưa kia người dân thôn Đào Quạt nổi tiếng với nghề làm quạt và họ rất tự hào về ngôi đình làng truyền thống của thôn mình. Theo thần tích, đình Đào Quạt là nơi tôn thờ Đào Công Chí, một võ tướng thời Lý có công giúp đánh giặc Chiêm Thành đầu thế kỷ XI, đem lại cuộc sống thanh bình, ấm no cho Nhân dân. Khi mất, vua Lý vô cùng thương xót vị tướng tài của mình, sai quần thần hành lễ điếu văn, ban thưởng nhiều vàng bạc để làm hương hỏa, lập miếu thờ và phong ông là bậc Đại vương. Ông được Nhân dân địa phương tôn thờ làm Thành hoàng làng. Tương truyền, đình Đào Quạt được khởi dựng sau khi tướng quân Đào Công Chí mất, ban đầu chỉ là một ngôi miếu nhỏ. Thời Hậu Lê, Nhân dân đã tiến hành tu sửa lại. Đến thời Nguyễn, đình được trùng tu với quy mô lớn. Hiện nay, đình có kiến trúc kiểu chữ Công gồm 05 gian Tiền tế, kiến trúc kiểu con chồng đấu sen. Trung từ 03 gian, các bộ vì kiểu chồng rường giá chiêng. Hậu cung 03 gian, kết cấu vì đơn giản kiểu chồng rường. Trên các bức cốn, hệ thống đầu dư chạm khắc cầu kỳ, tinh xảo các đề tài tứ linh và quần long,...Đình còn lưu giữ nhiều hiện vật có giá trị như: 18 đạo sắc phong từ thời Lê đến thời Nguyễn, bia đá niên đại năm 1758, phỗng đá, 03 tảng đá hoa sen thời Lê với 09 cánh sen cách điệu rất sinh động. Hằng năm, vào ngày mồng 10 tháng Giêng âm lịch, Nhân dân lại tổ chức lễ hội long trọng để tưởng nhớ ngày mất của tướng quân. Trước kia, trong lễ hội có tổ chức tế lễ, rước kiệu, rước ngai và tượng của thần, rước sắc và có hát trống quân. Ngày nay, lễ hội được tổ chức đơn giản song vẫn đảm bảo các nghi thức văn hoá truyền thống. Với những giá trị tiêu biểu về kiến trúc, đình Đào Quạt đã được Bộ Văn hóa - Thông tin ban hành Quyết định số 141-Quyết Định/Văn Hóa ngày 23/01/1997 xếp hạng là di tích “Kiến trúc - nghệ thuật” cấp Quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên.
Hưng Yên 2545 lượt xem
Đình Đào Xá xây dựng trên một khu đất cao, thoáng đãng ở phía Bắc làng Đào Xá, xã Đào Dương. Vùng đất này do dòng họ Đào khai phá, mở mang từ thủa sơ khai. Đình có mặt tiền của đình quay hướng Nam. Đình Đào Xá thờ Linh Lang Đại Vương là Hoàng tử con Vua Lý Thánh Tông. Ngài có công cùng các tướng sỹ thân chinh cầm quân đánh đuổi giặc giã, giữ yên bờ cõi, bảo vệ cuộc sống bình yên cho Nhân dân. Khi mất, ngài được Nhân dân ở nhiều nơi tôn thờ, trong đó có làng Đào Xá tôn ngài làm Thành hoàng làng. Đình được xây dựng từ thời Hậu Lê, trùng tu thời Nguyễn với kết cấu kiểu chữ Đinh gồm Đại bái 05 gian 02 dĩ và Hậu cung 04 gian. Các bộ vì làm kiểu chồng rường đấu kê. Tại đình còn bảo lưu được nhiều mảng cốn, cấu kiện chạm khắc hoa văn thời Hậu Lê còn rất đậm nét như: long quần tụ, đầu dư, đao lửa,… thể hiện trình độ cao của các nghệ nhân xưa với các chi tiết vô cùng đặc sắc và tinh xảo. Đình còn lưu giữ một số hiện vật, đồ thờ rất có giá trị như: 01 kiệu bát cống thời Lê, ngai thờ, câu đối, đỉnh đồng, bát hương sứ. Hằng năm, vào ngày 10 tháng 3 và ngày 10 tháng 10 âm lịch dân làng tổ chức lễ hội để tưởng nhớ tới công lao của thần là người có công cứu nước giúp dân. Đình Đào Xá được Bộ Văn hóa - Thông tin ban hành Quyết định số 22/1999-Quyết Định - Bộ Văn Hóa Thông Tin xếp hạng là di tích “Kiến trúc nghệ thuật” cấp Quốc gia ngày 6/4/1999. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên.
Hưng Yên 2542 lượt xem
Đình Đanh Xá được xây dựng hướng Tây Nam trên khu đất cao thoáng giữa làng Đanh Xá, xã Hoàng Hoa Thám. Theo truyền ngôn của dân làng, đình xây trên thế đất “Rồng chầu”, do vậy thôn Đanh Xá từ xa xưa đến nay đời nào cũng có nhiều người hiển danh, thành đạt. Đình thờ Ngũ Vị Đại Vương gồm: Cao Sơn Hiểu Công Đại Vương, Cao Sơn Hựu Công Đại Vương, Quý Công Đại Vương, Minh Công Đại Vương và Uy Công Đại Vương. Các vị có công giúp Thục An Dương Vương dẹp giặc cứu nước, đem lại cuộc sống ấm no, thanh bình cho nhân dân. Trong thời kỳ lịch sử Cách mạng, nơi đây diễn ra nhiều sự kiện quan trọng như tuyên truyền đường lối Cách mạng trong quần chúng Nhân dân. Năm 1948, bộ đội chủ lực đóng quân và hoạt động tại đây. Đình được xây dựng từ thời Nguyễn niên hiệu Thành Thái thứ 12 (1900) với kiến trúc kiểu chữ Công gồm: 05 gian Đại bái, 03 gian Ống muống và 03 gian Hậu cung. Hệ thống các bộ vì có kết cấu kiểu con chồng đấu sen. Các mảng chạm khắc được tập trung chủ yếu tại gian trung tâm Đại bái với các đề tài mang điển tích dân gian như: tứ linh, tứ quý, long quần… Tại đình còn lưu giữ một số hiện vật quý như: Kiệu long đình thời Nguyễn được sơn son thếp vàng với nét chạm khắc rồng, phượng tinh xảo, đại tự, câu đối... Hằng năm, ngày 10 tháng 03 âm lịch, Nhân dân địa phương tổ chức lễ hội tưởng nhớ người có công với quê hương, đất nước. Với những giá trị còn hiện hữu, đình Đanh Xá được Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng vào loại hình di tích “Kiến trúc nghệ thuật” cấp Quốc gia ngày 6/4/1999 theo Quyết định số 22/1999-Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thông Tin. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên.
Hưng Yên 2517 lượt xem
Khu di tích nằm tại thôn Liêu Xá, xã Liêu Xá, huyện Yên Mỹ, có quan hệ tới Hải Thượng Lãn ông Lê Hữu Trác - Đại y tôn Việt Nam. Ông sinh năm 1720 mất năm 1791, quê tại Liêu Xá. Ông là nhà y học vĩ đại, nhà thơ, nhà văn xuất sắc, một nhà tư tưởng tiến bộ thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân đạo. Sau khi ông mất, nhân dân và giới y học cả nước suy tôn là bậc Y Thánh của Việt Nam. Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác (1720-1791), người làng Liêu Xá, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, xứ Hải Dương (nay là thôn Liêu Xá, xã Liêu Xá, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên). Ông tự đặt cho mình là Hải Thượng Lãn Ông, và không màng danh lợi, vinh hoa phú quý. Ông trở thành một thầy thuốc, một danh y nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam. Cuộc đời Hải Thượng Lãn Ông là một dẫn chứng hùng hồn về y đức mà không cần cao giọng giảng giải, thuyết lý nhiều. Ông là người đặt nền móng xây dựng y thuật, một ngôi sao sáng trong làng Y học cổ truyền Việt Nam, người đã để lại cho hậu thế một kho tàng kinh nghiệm về Y học cổ truyền, không những về y lý mà cả thực tiễn hành nghề. Suốt 40 năm trong nghề y, ông đã đem hết tâm tư của mình vào việc chữa bệnh phục vụ nhân dân, nêu cao đạo đức nhân thuật, tận tụy, cần cù nghiên cứu, biên soạn, giảng dạy và đúc kết kinh nghiệm, xây dựng truyền thống y học nước nhà. Người còn là một nhà bác học tài năng, một nhà thơ lỗi lạc của thế kỷ 18, một nhà văn hóa với tư tưởng nhân văn lớn. Trong suốt cuộc đời làm thuốc của mình, ông đã để lại cho đời một bộ sách đồ sộ quý giá là bộ "Hải thượng Lãn ông Y tông tâm lĩnh" gồm 28 tập, 66 quyển. Năm 1791, ông qua đời tại Nghệ Tĩnh, “ngôi sao sáng trên bầu trời y học” khuất bóng nhưng gương sáng của ông còn mãi giữa trời. Sau khi mất, con cháu dòng họ cùng dân làng đã xây dựng nhà tưởng niệm Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác. Ban đầu quy mô khá nhỏ, đến năm 1992, Bộ Văn hóa Thông tin cùng với Bộ Y tế đã cấp kinh phí đầu tư trùng tu mở rộng thành Nhà tưởng niệm. Du khách tới thăm sẽ thấy đây không chỉ là nơi thờ tự mà còn là nơi trưng bày giới thiệu về thân thế sự nghiệp cũng như nhiều tác phẩm y thuật tiêu biểu của ông. Với diện tích 200m2 trưng bày trong khuôn viên rộng 1000m2, có nhiều di tích phụ cận xung quanh tạo nên một quần thể di tích rộng lớn. Gian giữa nhà tưởng niệm đặt khám thờ cùng các câu đối ca ngợi ông. Năm 2006, khu lưu niệm được trùng tu, tôn tạo, trong đó hạng mục nhà lưu niệm được dựng lại thành khu đền thờ chính. Năm 1990, khu di tích lưu niệm Đại danh y Hải Thượng Lãn Ông được Bộ Văn hoá Thông tin xếp hạng cấp Quốc gia. Hàng năm cứ vào rằm tháng giêng, nhân dân cùng những người hành nghề Đông y và các thầy thuốc lại tề tựu về đây để tưởng nhớ và tôn vinh y đức lớn lao của Lê Hữu Trác. Nơi đây đã trở thành điểm đến tâm linh của nhiều du khách thập phương đã đến du xuân đầu năm và thắp hương nguyện cầu cho một năm mới sức khoẻ dồi dào, may mắn, thành công trong cuộc sống. Điều làm nên sức hấp dẫn không chỉ bởi cảnh quan mà đây còn là nơi để hậu thế nhìn lại cùng học tập về đạo đức cũng như y thuật của bậc đại danh y. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Yên Mỹ , tỉnh Hưng Yên.
Hưng Yên 3028 lượt xem
Đình thờ Triệu Đà (thời Triệu Vũ Đế), thôn 10, xã Xuân Quan, huyện Văn Giang. Đình được xây dựng từ lâu, trùng tu thời Nguyễn niên hiệu Tự Đức thứ 24 (1871). Hiện nay còn lưu giữ hiện vật như: Kiệu, bia đá, ngai, tượng thờ. Lễ hội hằng năm từ ngày 14 đến 16 tháng 2 âm lịch. Đình Triệu Đà xã Xuân Quan, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên có tên là “Nam Việt Linh từ”, đến thời Lý Anh Tông mới đổi tên là đình Long Hưng. Đình Triệu Đà mang đậm nét kiến trúc của thế kỷ 17 – 18. Khuôn viên đình rộng rãi, thoáng đãng với diện tích vào khoảng 13000m. Đình được xây dựng theo kiểu nội công ngoại quốc, các hạng mục công trình nằm trên một trục đường thẳng trải dài từ cổng đình vào đến hậu cung. Các hạng mục chính của di tích gồm có: cổng ngoài, Nghi Môn, đại bái, hậu cung hạ, hậu cung thượng và hai dãy giải vũ. Mặt tiền đình quay hướng Nam, đó là hướng của trí tuệ, của sự sống. Nghi môn ở đình Triệu Đà khác hẳn so với Nghi môn của rất nhiều tích khác. Nghi môn được làm theo kiểu chồng diêm hai tầng tám mái, các đao đắp đầu rồng và đầu con sô ngẩng cao, mái lợp ngói mũi, đường bờ lóc lưỡng long chầu phật. Phần cổ diêm đắp ba chữ Hán: “Long Hưng Điện” (Điện Long Hưng). Kết cấu kiến trúc Nghi môn kiểu chồng rường đấu sen, bào trơn đóng bén, hai gian bên cạnh đặt hai pho tượng Túc Vệ (lính canh cổng), tượng tạo tác trong tư thế đứng thẳng nghiêm trang của người đứng gác. Hai bên Nghi môn còn có hai cổng phụ làm theo kiểu hai tầng tám mái, phía bên trong cổng phụ là con đường nhỏ đi vào khu nội tự. Đình Triệu Đà xây một cổng chính và hai cổng phụ như ngày nay có thể nơi đây xưa kia Vua quan trong triều thường về đây tế lễ, cầu đảo điều linh ứng. Qua sân là đến khu nội tự, công trình đầu tiên là tòa đại bái với 3 gian 2 dĩ được xây theo kiểu chồng diêm 2 tầng 8 mái. Các đao mái hình đầu rồng ngẩng cao. Đầu bờ nóc đắp hai con sô chầu mặt nhật ở giữa nóc. Đại bái được làm kiểu thông phong, hai đầu hồi bít đốc, mặt dưới và sau để trống tạo lên sự thông thoáng cho di tích. Các bộ vì đại bái được kết cấu kiểu chồng rường đấu sen, các con rường, đầu 7 đều được chạm hoa lá cách điệu. Gian giữa đại bái đặt nhang án thờ công đồng, nhang án làm bằng gỗ và được chạm khắc tứ linh, tứ quý. Trên nhang án để các đồ thờ cúng như: bát hương, bộ đỉnh đồng, đôi lục bình…Hậu cung đình Triệu Đà bao gồm ba gian hai dĩ, mái lợp ngói mũi. Ở gian giữa phía hè hiên được dựng nhô về phía trước tạo thành một gian. Gian này được làm kiểu tứ trụ với hai tầng tám mái. Nơi đay đặt cỗ điệu bát cống. Hai bên hồi hiên đắp hai pho tượng Túc Vệ (lính canh cổng), Tượng tạo tác tư thế đứng thẳng vẻ mặt nghiêm trang. Ngăn cách giữa hè hiên và bên trong là hệ thống của bức bàn, mỗi cách cửa được trạm khắc một chủ đề như: phượng cưỡi mây, long mã cuốn mây….rất tinh sảo theo phong cách nghệ thuật thời Nguyễn. Kết cấu các bộ vì hạ cung kiểu giá chiêng đơn giản được bào trơn đóng bén. Nâng đỡ mái là hệ thống hai hàng cột cái và hai hàng cột quân. Tại trung tâm gian giữa đặt bàn thờ, bên trên để ngai bài vị Thành Hoàng Làng Triệu Vũ Đế. Ngai, bài vị cao 2,1m; dài 0,73m; sâu 0,7m. Đế ngai được làm kiểu chân quỳ dạ cá, mặt hổ phù. Bài vị; phần chán hình quả cầu lửa, bên trong trạm 6 con rồng nằm cuộn tròn; phần thân trang chí tứ linh đường riềm làm thành hình đao lửa; trên thân bài vị khắc bài văn bằng chữ Hán ca ngợi công đức của thần. Ngoài ra trên bàn còn bài trí một số đồ thờ tự như: chóe, đôi chân nến, …đặc biệt là một bát hương cổ mầu me ngọc có đường kính 0,3m; cao 0,32m được trang trí hoa văn sơn thủy hai bên bàn thờ đặt hai pho tượng Thái Giám cao 1,76m; ngang vai 0,5m. Tượng tạo tác trong tư thế đứng thẳng. Hai bên dĩ hạ cung đặt bàn thờ; gian bên trái thờ con, cháu của Triệu Đà; Gian bên phải thờ hoàng hậu và hai công chúa, Trưởng Trang và thứ công chúa. Tiếp nối với tòa hạ cung là ba gian thượng cung với kết cấu kiến trúc kiến trúc các vì kiểu vì kèo trụ chốn, bào trơn đóng bén. Các mảng trạm khắc ở tòa này tập trung chủ yếu ở mặt trước cửa ra vào với các đề tài: hoa lá cách điệu, lưỡng long chầu nguyệt, đao lửa, phượng ngậm hoa sen…, được bàn tai nghệ nhân trạm trổ rất tài tình và đầy chất sáng tạo. Ngoài ra, ở hai bên khu nội tự còn có hai dãy giải vũ, mỗi dãy có 10 gian, kết cấu đơn giản, được sử dụng làm nơi tiếp khách và hội họp. Đình được xếp hạng "Kiến trúc nghệ thuật" theo Quyết định số 49/2007/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thể Thao, ngày 3/8/2007. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Văn Giang , tỉnh Hưng Yên
Hưng Yên 2556 lượt xem
Đồng chí Lê Văn Lương - người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thế hệ đảng viên đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam, với 83 năm tuổi đời, gần 70 năm hoạt động cách mạng liên tục, đồng chí đã có những đóng góp quan trọng vào thắng lợi của sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Ghi nhận những công lao, cống hiến to lớn đó, đồng chí Lê Văn Lương đã được Đảng và Nhà nước tặng thưởng nhiều danh hiệu cao quý: Huân chương Sao Vàng, Huy hiệu 50 năm tuổi Đảng và nhiều huân, huy chương cao quý khác. Nhà tưởng niệm đồng chí Lê Văn Lương được xây dựng năm 2003 thuộc xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên. Đây là công trình được Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh Hưng Yên cùng con cháu dòng họ Nguyễn xây dựng nhằm ghi nhớ tới những công lao, cống hiến to lớn của đồng chí với cách mạng Việt Nam. Đây cũng là nơi trưng bày các tư liệu, hình ảnh cũng như tôn thờ đồng chí Lê Văn Lương - Nhà lãnh đạo tiền bối tiêu biểu của Đảng, của cách mạng, người con ưu tú của dân tộc Việt Nam. Nhà tưởng niệm có kết cấu kiểu chữ Đinh (丁), gồm hai tòa Tiền tế, Hậu cung và các hạng mục khác như: cổng, nhà tiếp khách, nhà thờ họ Nguyễn, lầu bia... Các hạng mục kiến trúc được làm theo phong cách cổ truyền còn tương đối đồng bộ vững chắc. Tiền tế là nơi trưng bày và giới thiệu gần 100 tài liệu, hình ảnh, hiện vật tiêu biểu về thân thế, cuộc đời và sự nghiệp hoạt động cách mạng cùng những đóng góp to lớn của đồng chí Lê Văn Lương với quê hương, đất nước. Nối với Tiền tế là một gian Hậu cung kiến trúc đơn giản kiểu kèo cầu quá giang không trang trí hoa văn. Hậu cung là nơi linh thiêng, trang trọng nhất đặt ban thờ đồng chí Lê văn Lương, trên ban thờ đặt pho tượng chân dung đồng chí Lê Văn Lương được đúc bằng do Thủ tướng Phan Văn Khải tặng nhân dịp khánh thành nhà tưởng niệm năm 2003 thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với đồng chí. Cùng trong khuôn viên Nhà tưởng niệm đồng chí Lê Văn Lương là Nhà thờ dòng họ Nguyễn được đồng chí Nguyễn Thị Bích Thuận (vợ đồng chí Lê Văn Lương) xây dựng năm 2005. Nhà thờ đơn sơ nhưng trang trọng, trên ban thờ đặt ngai và bài vị đề “Nguyễn gia Liệt Tổ”. Bên cạnh nhà thờ dòng họ Nguyễn là lầu bia được dựng kiểu tứ trụ với bốn mái cong xoắn chôn ốc. Bên trong đặt tấm bia đá khắc ghi những lời ca ngợi công đức và tấm lòng son sắt vì Đảng vì dân của đồng chí Lê Văn Lương và phu nhân Nguyễn Thị Bích Thuận. Hàng năm, ngày giỗ đồng chí Lê Văn Lương được chính quyền địa phương cùng con cháu dòng họ tổ chức vào ngày 26/3 âm lịch (ngày mất của đồng chí). Đây cũng là dịp mọi người cùng quây quần gặp mặt để tưởng nhớ tới công ơn của các bậc tiền bối đã hy sinh vì độc lập, tự do, hạnh phúc của con cháu hôm nay và mai sau. Để tôn vinh những cống hiến to lớn của đồng chí Lê Văn Lương đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc, đồng thời khẳng định giá trị văn hóa, lịch sử của Nhà tưởng niệm đồng chí Lê Văn Lương, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã ban hành Quyết định số 673/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thể Thao Du Lịch ngày 24/3/2022 công nhận xếp hạng Địa điểm lưu niệm đồng chí Lê Văn Lương là “Di tích lịch sử” cấp Quốc gia./. Nguồn Sở văn hóa thể thao và du lịch.
Hưng Yên 2681 lượt xem