Đình Hưng Học là di tích lịch sử lưu niệm danh nhân Quận công Vũ Hoàng Đào là người có công với bản xã, vị thần trừ ôn dịch giúp dân. Ông là một trong những Tiên công đỗ Giám sinh vào thời Hậu Lê, có công quai đê lấn biển, khai canh lập ấp hình thành lên thị xã Quảng Yên nói riêng và tỉnh Quảng Ninh nói chung. Ngoài ra, ông còn có công bảo vệ làng xã chống giặc cướp và có tài trị thủy. Theo truyền miệng của dân làng Hưng Học: cụ Vũ Hoàng Đào (武 皇 燾)là thế tổ đời thứ năm của dòng họ Vũ ở Hưng Học. Theo gia phả, dòng họ Vũ có truyền thống khoa bảng, Cụ học cao thi đỗ Quận Công. Ngày vinh quy bái tổ, đã thác ở sông Rút và hiển linh thành Thần Đông Hải - một vị thần biển phù hộ cho dân làng Hưng Học đi sông, đi biển được an lành. Ngài còn có khả năng trừ ôn dịch cứu dân. Dân làng Hưng Học đã tạc tượng và lập miếu thờ ở gần nơi Ngài thác (vẫn còn đến ngày nay, gọi là Miếu Chính Phủ). Thần được vua Khải Định phong làm Thần Đông Hải, là Bản Thổ Thành hoàng Trung đẳng thần, là Thông minh Hình tướng, là thần trừ ôn dịch cứu dân. Người dân Hưng Học tôn thần là Thành Hoàng. Mỗi lần đi sông, đi biển đánh cá hay đi thuyền vận tải, dân làng đều vào miếu Chính Phủ thắp hương cầu khấn. Khi dân làng bị dịch bệnh đều có lễ cầu Đức Đông Hải đệ tam Thành Hoàng đều tai qua, nạn khỏi, rất linh nghiệm. Khi dân làng Hưng Học tổ chức lễ hội Đại Kỳ phúc hàng năm ở đình Hưng Học đều cúng phối hưởng Thần Vũ Hoàng Đào. Hiện ở đình Hưng Học còn thờ một đạo sắc phong của vua Khải Định năm thứ 2 phong Đức Đông Hải Vũ Hoàng Đào làm Thành hoàng bản cảnh của làng Hưng Học. Với lịch sử xây dựng và các di sản văn hóa đang được bảo tồn, đình giúp các nhà nghiên cứu tìm hiểu được lịch sử hình thành và phát triển của làng Hưng Học và phường Nam Hòa thị xã Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh vào thế kỷ XV. Đình còn thờ danh nhân Huyền Quang tổ sư, Tổ thứ ba của thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Ông là người tài năng đức độ, đỗ đạt cao (năm 20 tuổi đỗ Hương cử, năm 21 tuổi đỗ đầu khoa Đại tỷ thủ sỹ). Ông vừa là một nhà thơ lớn với nhiều bài thơ còn được lưu lại, vừa là một nhà tu hành lỗi lạc, một thi sĩ lớn của dân tộc thời đại nhà Trần, một danh nhân của đất nước. Đình Hưng Học với tín ngưỡng thờ Thành hoàng là Tổ sư Huyền quang, Bản thổ Thành hoàng Vũ Hoàng Đào (nhân thần địa phương), đồng thời qua các hiện vật thờ tự, tượng thờ, sắc phong và nghi lễ cúng tế, hội hè đình đám ở di tích Đình Hưng Học giúp chúng ta tìm hiểu được tín ngưỡng dân gian tục thờ Thành hoàng của làng Hưng Học nói riêng và làng xã Việt Nam nói chung. Đặc biệt, tục thờ và rước thần Phạm Nhan - một tướng giặc bại trận về đình làng Hưng Học cúng tế vào dịp lễ Đại kỳ phước là một nét văn hóa độc đáo của nhân dân làng Hưng Học đã được nhiều nhà nghiên cứu văn hóa và khoa học đánh giá cao tính nhân văn của người Việt Nam: dù là kẻ thù, khi đã thất bại vẫn được cho ăn, uống và cho về nước; đó là tính dân chủ trong tục thờ cúng của người Việt Nam (thờ cúng thần thì thần phải phù hộ cho người thờ). Tục thờ trên một trướng giặc bại trận trong Chiến thắng Bạch Đằng 1288 oanh liệt diễn ra ngay trên quê hương Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh. Tục rước và cúng phối hưởng Thần ở đình Hưng Học còn biểu hiện nhân sinh quan tâm linh người Việt: cách thức để Tam tổ Huyền Quang dùng Phật pháp giáo hóa cho thần Phạm Nhan phù hộ chúng sinh; tục thờ thần Phạm Bá Linh và Vũ Hoàng Đào: một thần gây ôn dịch, một thần trừ ôn dịch là một nét văn hóa hết sức độc đáo của cư dân vùng sông nước Bạch Đằng. Qua kiến trúc các vì kèo và điêu khắc trên các cấu kiện của đình cho thấy: đình làng Hưng Học được xây dựng vào khoảng thế kỷ XVIII - đầu thế kỷ XIX, gồm có ba gian, hai chái, bốn vì kèo. Kết cấu vì kèo bằng làm bằng gỗ lim theo kiểu thượng thu hạ thách với các cấu kiện cột cái, cột quân, câu đầu, giá chiêng bụng lợn, đầu dư, kẻ chuyền, đầu bẩy đỡ mái, đây là lối kiến trúc đặc trưng của đình làng Việt Nam thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIX. Các cấu kiện của đình Hưng Học như các bức cốn, đầu dư, đầu bẩy, con chồng, bát đấu đỡ hoành đều được chạm kênh bong rất nghệ thuật, chạm nổi tinh xảo với các đề tài tứ linh truyền thống làm phong phú nghệ thuật điêu khắc đình làng thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIX của Việt Nam. Trong đình hiện còn bảo lưu nhiều hiện vật, đặc biệt 31 cổ vật là đồ thờ tự có giá trị giúp ích các nhà nghiên cứu mỹ thuật cổ Việt Nam. Với những giá trị nêu trên, đình Hưng Học, phường Nam Hòa, thị xã Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh được Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng là Di tích lịch sử quốc gia tại Quyết định số 1985/QĐ-BVHTTDL ngày 29/6/2021./. Nguồn Cục Di Sản Văn Hóa .
Quảng Ninh 2827 lượt xem
Tên đình Lưu Khê xuất phát từ tên làng Lưu Khê. Đình được dựng lên để thờ hai vị Tiên Công là ông Đỗ Độ và ông Đào Bá Lệ. Hai ông có công chiêu tập người tới bãi bồi cửa sông Bạch Đằng quai đê lấn biển vào năm 1434 lập nên làng Lưu Khê ngày nay. Thời Lê gọi là xã Lương Qui, đến thời Nguyễn đổi thành Lưu Khê. Căn cứ tư liệu hiện còn của đình ở đảo Hà Nam, qua lời kể của các cụ cao niên trong làng và hoa văn điêu khắc ở đình có thể thấy đình Lưu Khê được xây dựng vào năm Nhâm Ngọ, tức tháng tư năm 1822. Cho tới nay, đình Lưu Khê đã trải qua nhiều lần trùng tu, tu bổ, tôn tạo. Lần tu bổ lớn vào năm 1942 đã lợp lại đình bằng ngói tây, xây tường đá bao quanh, đắp phù điêu rồng ở trái hồi và làm hai trụ đèn lồng phía trước đình. Ngần đây nhất, năm 2006 đình Lưu Khê lại được trùng tu, tu bổ tôn tạo một số hạng mục của nhà Đại Bái như nối và gia cố các mộng, xử lý tiêu tâm một số cột gỗ bị mối mọt, thay hoành mái bằng gỗ tròn, lợp lại ngói mới (ngói màn và ngói mũi); xây lại tường hồi nhà Đại Bái, lát lại nền bằng gạch Bát (theo hình chữ công), bổ sung các viên đá tảng bị mất; phục hồi hai chái nhà Đại Bái... đình hiện nay khang trang, to đẹp hơn khi khởi dựng rất nhiều! Đình vừa là nơi thờ hai vị Tiên Công là Đỗ Độ và Đào Bá Lệ có công khai phá đồng điền, vừa là nơi thờ tự có liên quan đến ngôi đền thờ Trần Hưng Đạo của làng cách đình Lưu Khê khoảng 800 mét. Đình tuy đã trải qua nhiều lần trùng tu, sửa chữa nhưng phần cấu trúc các vì kèo và điêu khắc còn giữ nguyên được trạng thái ban đầu. Phong cách điêu khắc của đình mang đậm nét của điêu khắc dân gian đình làng cuối thế kỷ 17 và thế kỷ 18. Trên bức cốn của hai vì gian giữa và trên các đầu bẩy đều được chạm nổi bong kênh tinh vi, sắc sảo hình rồng, mây, tôm, cá, ly, phượng. Hai bên thân kẻ các vì kèo đều được chạm nổi bong kênh hình rồng, mây. Trên câu đầu là con chồng ghép khít nhau được chạm bong kênh tinh vi hình long đảo vũ. Đặc biệt trên xà nách nối cột cái với cột quân của hai vì kèo gian giữa của bái đường là hai bức cốn được chạm nổi bong kênh tinh vi hình long quần vũ hình tôm, cá, hoa sen... Các bức chạm trổ công phu, tỉ mỉ, mang giá trị nghệ thuật cao. Đình được Bộ Văn hóa - Thông tin ra quyết định xếp hạng cấp Quốc gia số 65/QĐ-BT, ngày 16/01/1995 bởi giá trị tiêu biểu về lịch sử và nghệ thuật. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Quảng Ninh.
Quảng Ninh 2790 lượt xem
Đình Phong Cốc hay còn gọi là đình Cốc, đình có tên gọi như vậy bởi đình nằm trên một vùng đất có thế tựa hình con chim Cốc, ở nơi giáp gianh giữa xã Phong Cốc và xã Phong Hải huyện Yên Hưng, tỉnh Quảng Ninh trước kia là thôn Phong Cốc, thuộc xã Phong Lưu huyện Yên Hưng. Đình Phong Cốc và miếu Phong Cốc là một quần thể di tích thuộc xã Phong Cốc, huyện Yên Hưng. Hàng năm dân làng tổ chức lễ cầu mưa và rước tứ vị Thánh Nương từ miếu Phong Cốc về đình để cầu tế và sau đó lại đưa về miếu. Đến cải cách ruộng đất, miếu bị sụp đổ nhân dân địa phương đã đưa tứ vị về đình để thờ. Đến nay miếu Phong Cốc đã được đầu tư tu bổ, phục hồi lại và đã được xếp hạng cấp Quốc gia theo quyết định số 25/2007/QĐ-BVHTT, ngày 03/8/2007. Đình Cốc là nơi thờ thần Hoàng làng Phong Cốc và thờ thần Nông, theo truyền thuyết thần Hoàng làng Phong Cốc hiện nay vốn là người Việt ở Châu Hoàn (tức Nghệ Tĩnh) thuộc cửa biển Đại Kiên, xã Hương Cát, vốn là người yêu nước dưới đời nhà Lý, sau khi ngài mất dân địa phương lập đền thờ ở cửa biển Hương Cát. Đình Cốc hiện nay kiến trúc gồm 3 ngôi nhà: Tiền đường, Bái đường và Hậu cung. Tiền đường được dựng vào năm 1805 (tức thời Gia Long tứ niên). Bái đường được dựng vào năm 1801 (tức Cảnh Thịnh bát niên). Thời vua Trần Anh Tôn sau trận chiến thắng ở Chiêm Thành vua ban cho 300 quan kinh phí tu sửa đình. Đến thời Lê đình tiếp tục được trùng tu miếu mộ. Tuy đã trải qua nhiều lần trùng tu, sửa chữa, chống xuống cấp nhưng đình vẫn giữ được nguyên vẹn những yếu tố nguyên gốc cấu thành di tích. Đình Cốc có giá trị tiêu biểu về kiến trúc - nghệ thuật. Kết cấu chủ yếu bằng gỗ có nhiều mảng chạm khắc đường nét tinh tế, hình tượng phong phú, bố cục phóng khoáng mang phong cách thời Lê với nhiều đề tài sinh hoạt như tứ linh, chọi gà, đánh vật, bơi thuyền, đi hội... . Các bức chạm của đình Phong Cốc có chiều sâu cả về không gian, màu sắc lẫn nội dung được thể hiện bằng kỹ thuật chạm bong kênh, chạm lộng, chạm nông... Với giá trị tiêu biểu về kiến trúc - nghệ thuật đình Phong Cốc đã được Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) xếp hạng cấp Quốc gia theo Quyết định số 191/VH-QĐ, ngày 22/03/1988. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Quảng Ninh.
Quảng Ninh 3020 lượt xem
Đền Quan Đại nằm ở thôn La Khê, xã Tiền An thị xã Quảng Yên, thờ hai vị đại thần của triều đình nhà Nguyễn là Trương Quốc Dụng và Văn Đức Giai đã chỉ huy quân sỹ cùng nhân dân Quảng Yên đánh đuổi bọn giặc cướp nước và bè lũ tay sai của thực dân Pháp để bảo vệ biên cương, vùng hải đảo thuộc miền Đông bắc của Tổ quốc. Đền Quan Đại nằm ở thôn La Khê, xã Tiền An thị xã Quảng Yên, thờ hai vị đại thần của triều đình nhà Nguyễn là Trương Quốc Dụng và Văn Đức Giai đã chỉ huy quân sỹ cùng nhân dân Quảng Yên đánh đuổi bọn giặc cướp nước và bè lũ tay sai của thực dân Pháp để bảo vệ biên cương, vùng hải đảo thuộc miền Đông bắc của Tổ quốc. Truyền thuyết kể lại, sau khi hai ông tử trận, hai con voi của họ đã đưa chủ vào rừng trúc (nơi người dân dựng đền thờ ngày nay), dẫm quang một khoảng rừng trúc để đặt thi thể hai chủ soái rồi nằm phục bên cạnh. Khi nhân dân biết tin ra chôn cất, đã thấy mối đùn lên thành 2 ngôi mộ lớn. Hai con voi cũng nhịn ăn mà chết theo chủ. Để tỏ lòng biết ơn hai vị công thần đã hy sinh vì dân, vì nước, người dân trong làng đã lập đền thờ hai ông, quanh năm hương khói, phụng thờ (đền thờ 2 vị trung thần, nên người dân trong vùng còn gọi là Song Trung từ). Nhân dân trong vùng đã lấy ngày mất của hai ông làm ngày mở hội đền, còn gọi là ngày “giỗ trận” - lễ hội lớn của làng La Khê. Theo các tài liệu khảo cổ, đền Quan Đại vốn có kiến trúc kiểu chữ Nhị. Trải qua thời gian, đền bị phá hủy, chỉ còn lại nền móng và bia mộ. Ngôi đền ngày nay được người dân Tiền An góp công góp của xây dựng vào năm 1993 với ba gian bái đường và 3 gian hậu cung. Hiện nay trong đền vẫn còn lưu giữ nhiều hiện vật có giá trị lịch sử, văn hóa của hai danh nhân, như bia ký, sắc phong, ảnh, đồ thờ tự… của 2 vị công thần anh hùng Trương Quốc Dụng và Văn Đức Giai... Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Quảng Ninh .
Quảng Ninh 2873 lượt xem
Đình Hải Yến có tên chữ là “Hải Yến đình” thuộc xóm Tây (xóm Hai) thôn Hải Yến, xã Yên Hải, huyện Yên Hưng, tỉnh Quảng Ninh. Làng Hải Yến trước đây có tên là Hải Triền. Làng Hải Triền được lập vào thời Lê do một số cư dân ở Tuần Châu và Hải Dương đến quai đê lấn biển lập nên. Đầu thế kỷ XIX, Hải Triền được đổi thành Hải Yến. Theo tài liệu Hán Nôm còn lại đình Hải Yến được xây dựng thời Hậu Lê, do nhân dân trong làng cùng nhau đóng góp tiền của và công sức xây dựng. Đình đã qua nhiều lần trùng tu, sửa chữa đặc biệt năm 1815 niên hiệu Gia Long và năm 1963 đã tổ chức trùng tu với quy mô lớn. Căn cứ vào sắc phong của các vua triều Nguyễn phong tặng cho đình Hải Yến thì thành hoàng của đình là 3 vị thần: Diệu cảm mặc phu, chương hiển đôn ngưng, dực bảo trung hưng, linh phù đương cảnh thành hoàng Linh Ứng chi thần; Dực bảo trung hưng linh phù đương cảnh thành hoàng Uy Minh chi thần; Dực bảo trung hưng linh phù bản thổ thành hoàng Đại Hải Phạm chi thần. Nhưng hiện nay chỉ còn lại thần tích của một vị thần là “Đại Hải Phạm chi thần”. Đại Hải Phạm chi thần chính là Phạm Tử Nghi. Ông là một võ tướng thời Mạc, tên húy là Phạm Thành, tên chữ là Tử Nghi. Ông là một vị tướng tài. Sau khi ông qua đời các triều đại phong kiến đều phong ông làm thần. Nhân dân làng Hải Triền (Hải Yến ngày nay) thì tôn ông làm Thành hoàng và thờ ở đình làng. Đình Hải Yến là một ngôi đình làng bề thế, tọa lạc giữa làng mạc trù phú, dân cư đông đúc. Đình có kiến trúc độc đáo, kết cấu bằng gỗ, mái lợp ngói vẩy, bốn mái đao cong vút như những mũi thuyền đang rẽ sóng lướt tới, các vì kèo liên kết với nhau chắc chắn, những bức chạm trổ công phu, khéo léo với các hình rồng, tản mây, hoa lá, tứ linh... tạo thành bức tranh sinh động, hấp dẫn. Đây là một công trình kiến trúc nghệ thuật đặc sắc mang nét đặc trưng của thời Hậu Lê giai đoạn đầu thế kỉ XVIII. Tuy đã trải qua 300 năm kể từ khi khởi dựng, nhưng được sự đầu tư trùng tu, tôn tạo qua các thời, ngôi đình vẫn giữ được tương đối nguyên vẹn nét kiến trúc cổ truyền. Với giá trị tiêu biểu về kiến trúc nghệ thuật đình Hải Yến đã được Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng cấp Quốc gia theo Quyết định số 59/2003/QĐ-BVHTT, ngày 29/10/2003. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Quảng Ninh.
Quảng Ninh 3091 lượt xem
Miếu Tiên Công (còn gọi là Đền Thập cửu Tiên Công) nằm ở Thôn Cẩm Thành, xã Cẩm La, cách trung tâm thị xã khoảng 5km, thờ 17 vị tiên Công “Thập thất Tiên Công”, quê ở Phường Kim Hoa, phủ Hoài Đức, thành Thăng Long. Đây là những người có công đầu trong sự nghiệp quai đê lấn biển, lấn sông thành lập nên khu đảo hà Nam, trong đó có xã Cẩm La. Miếu tiên công xưa kia là ngôi đền thờ 19 vụ Tiên Công có công đầu tiên quai đê lấn biển lập nên khu đảo Hào Nam – Yên Hưng vào năm 1434. Các vị Tiên Công được thờ tại Miếu gồm: Vũ Song, Vũ Hồng Tiệm, Bùi Huy Ngoạn, Ngô Bách Đoan, Nguyễn Phúc Cốc, Nguyễn Phúc Thắng, Nguyễn phúc Vinh, Lê Khép, Lê Mở, Vũ Tam Tỉnh, Vũ Giai, Nguyễn Nghệ, Nguyễn Thực, Bùi Bách Niên, Phạm Việt, Dương Quang Tín, Dương Quang Tấn, Hoàng Nông, Hoàng Nênh. Tuy nhiên hiện nay còn 17 vị có quê gốc ở phường Kim Hoa, phủ Hoài Đức, Hà Nôi được thờ tại Miếu, vì nhân dân thôn Trung Bản đưa 2 bài vị của 2 vị Tiên Công là Hoàng Nông, Hoàng Nênh là tổ họ của xã mình về thờ tại “Tiên Công cổ Miếu” thuộc thôn Trung Bản. Miếu Tiên Công thờ Thập thất Tiên Công có từ thời Hậu Lê trên vị trí hiện nay, nhưng ban đầu bằng ngôi nhà vách đất lợp tranh tre. Đến triều vua Gia Long năm thứ III (1804) mới xây dựng bằng gạch ngói khang trang. Miếu được xây dựng trên một khu đất cao, quay về hướng Đông, có diện tích 2.912m2, kiến trúc kiểu chữ nhị (=), kết cấu 3 gian, 2 trái, mái lợp ngói mũi hài. Phía trước là bái đường, tiếp là sân, sau là nhà thờ tổ. Kiến trúc trong miếu thể hiễn rõ phong cách nghệ thuật kiến trúc thời Nguyễn. Miếu Tiên Công đã trải qua nhiều lần trùng tu, gần đây nhất là các năm 1804, 1920, 1931, 1946, 1994. Tại bái đường, trên ban thờ còn lưu giữ được bức đại tự khắc 4 chữ sắc phong của vua Tự Đức năm thứ 28 “Phong Lưu nghĩa dân” và một sắc phong bằng gỗ của vua Khải Định năm thứ 9 sắc phong 17 vị Tiên Công là “Dực bảo Trung hưng chi thần” Trong Miếu có đôi câu đối đáng chú ý: Thiên cổ khai canh công vĩnh tại Ức niên phụng trị phúc du đồng Nghĩa là: Muôn thuở khai canh công còn mãi Ngàn năm thờ phụng phúc vô cùng Miếu Tiên Công không chỉ có giá trị về lịch sử - văn hoá, mà còn là một “Bảo tàng” mỹ thuật trưng bày các hiện vật rất có giá trị về điêu khắc gỗ. Ngoài các bức chạm truyền thống được thể hiện ở các vì kèo, đầu bẩy, đầu dư, con rường… các đồ thờ tự ở đây đều thể hiện được sự điêu luyện của nghề mộc mỹ nghệ của nhân dân địa phương. Các khán thờ, sắc phong, hương án, bát bửu đều được sơn son thếp vàng. Những đường nét chạm trổ trên các hiện vật thờ tự, từ bài vị cho đến các khám thờ, các bức cửa võng, đại tự, câu đối, đều mang đậm nét riêng biệt của bản sắc văn hoá dân tộc với nhiều đề tài phong phú, đa dạng như tứ linh, hổ phù, rồng chầu, hoa lá cách điệu, mây mác, cá chép hoá rồng… tất cả đều tạo nên một vẻ linh thiêng, tôn kính. Miếu Tiên Công được Nhà nước công nhận Di tích Lịch sử & Văn hóa năm 1989. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Quảng Ninh .
Quảng Ninh 3023 lượt xem
Khu di tích lịch sử Pò Hèn là nơi ghi lại những giây phút chiến đấu anh dũng, hào hùng của quân và dân ta, trận chiến bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc. Ngày 17/2/1979 đã đi vào lịch sử Việt Nam như một khúc ca bi tráng về tinh thần anh dũng, bất khuất, kiên trung của những người con nơi địa đầu đã không tiếc máu xương, sẵn sàng hi sinh để bảo vệ chủ quyền biên giới của dân tộc. Trong cuộc chiến đó, 73 chiến sỹ đã anh dũng hy sinh để bảo vệ toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ, biên giới thiêng liêng của Tổ quốc. Tiêu biểu phải kể đến đó là: Trung Úy đồn phó Đỗ Sỹ Họa, tuy bị thương vẫn không rời trận địa, chiến đấu đến hơi thở cuối cùng; Chiến sỹ Nông Văn Điều - Người đã phát hiện ra địch sớm nhất và tiên phong chiến đấu với quân địch khi chúng mới bắt đầu tấn công vào cổng đồn; Chiến sỹ Hoàng Văn Túc đã kiên cường chiến đấu đến khi hết đạn lại đến chốt khác của đơn vị để chiến đấu và hi sinh trong tư thế đang chiến đấu; Hoàng Thị Hồng Chiêm – Người con gái dũng cảm của Móng Cái - Cô nhân viên thương nghiệp Hải Ninh đã anh dũng hi sinh để bảo vệ mảnh đất quê hương, bảo vệ biên cương Tổ quốc Việt Nam… Với những thành tích xuất sắc trong cuộc đấu tranh bảo vệ Tổ Quốc, ngày 19/12/1979, cán bộ, chiến sĩ Đồn biên phòng 209 Pò Hèn đã được Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.. Sau sự kiện tháng 2/1979, Đồn 209 Pò Hèn chuyển đi xây dựng ở địa điểm mới. Khu tưởng niệm liệt sỹ Pò Hèn, được khởi công tôn tạo vào ngày 19/5/2010, nhân kỷ niệm 110 năm ngày sinh nhật của Bác và được khánh thành vào ngày 10/1/2011; Là công trình được huy động XHH 100%, do Bộ chỉ huy BP Tỉnh Quảng Ninh làm chủ đầu tư, với sự hiến tặng kinh phí, cơ sở vật chất của các tập thể, đơn vị, cá nhân ở khắp mọi miền đất nước với tầm lòng tri ân sâu sắc. Đài tưởng niệm quay mặt về hướng Bắc, với tổng diện tích khuôn viên là 86.304m2, gồm các hạng mục công trình chính là: đài tưởng niệm, đỉnh hương, nhà bia, sân khu tưởng niệm và vườn cây ; cao 16 mét được xây dựng bằng chất liệu bê tông cốt thép, ốp đá trắng. Hai bên là hai nhà bia, bên trong có đặt một tấm bia làm bằng đá xanh nguyên khối khắc tên 86 liệt sỹ là bộ đội biên phòng Đồn 209 Pò Hèn, nhân viên thương nghiệp và công nhân lâm trường Hải Sơn. Hàng năm, vào các dịp Lễ, Tết, ngày kỷ niệm, ngày truyền thống và nhân dịp tổ chức các sự kiện chính trị của địa phương, các hoạt động “Tri ân các anh hùng liệt sỹ” được tổ chức tại đây. Khu di tích lịch sử Pò Hèn không chỉ là bằng chứng lịch sử về tinh thần, ý chỉ quyết tâm, sự chiến đấu dũng cảm, ngoan cường quyết tâm bảo vệ chủ quyền từng tấc đất thiêng liêng nơi biên giới của Tổ quốc, của tập thể cán bộ, chiến sĩ Đồn Biên Phòng 209 Pò Hèn, của tập thể cán bộ, nhân viên Lâm Trường và nhân dân nơi đây. Đây còn là một địa chỉ đỏ để giáo dục truyền thống yêu nước nơi biên giới. Di tích được xếp hạng cấp tỉnh theo Quyết định số 178/QĐ-UBND ngày 23/01/2014 và xếp hạng cấp Quốc gia theo Quyết định số 2288/QĐ-BVHTTDL ngày 20/9/2022 và được giao cho Đồn biên phòng Pò Hèn trực tiếp quản lý. Nguồn Cổng thông tin điện tử thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh.
Quảng Ninh 3479 lượt xem
Đền Xã Tắc tọa lạc tại một vị trí đặc biệt, cạnh bờ sông Ka Long (Ranh giới biên giới Việt – Trung), thuộc khu 3 phường Ka Long, thành phố Móng Cái. Năm 2005 , di tích đền Xã Tắc đã được công nhận là di tích cấp Tỉnh - theo quyết định số: 2332/QĐ-UBND tỉnh Quảng Ninh ngày18/7/2005. Theo Hồ sơ xếp hạng di tích, Đền được xây dựng vào khoảng cuối thế kỉ XIII, đầu thế kỷ thứ XIV dưới thời nhà Trần để thờ thần Xã Tắc – Bản cảnh thành hoàng của châu Móng Cái xưa. Tại đây thờ Xã Tắc Đại Vương, Hưng Nhượng Đại Vương Trần Quốc Tảng, Cao Sơn Đại Vương, Long thần thổ địa của bản thôn và các vị tiên công của những dòng họ đã có công đến khai khẩn vùng đất này. Năm 2005, đền đã được UBND tỉnh Quảng Ninh xếp hạng là di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh. Theo lời kể của các cụ cao niên sống quanh khu vực này, trước kia, Đền Xã Tắc được xây dựng tại mép sông Thác Mang với quy mô khá lớn gồm ba gian nhà, mặt quay về hướng Nam, mái lợp ngói âm dương. Đầu thế kỷ XX, trong một lần bão lớn, Đền bị sạt lở và được nhân dân di chuyển vào trong khu vực Xoáy nguồn với quy mô nhỏ hơn trước. Trải qua những biến đổi thăng trầm của thời gian, đến nay, đền được trùng tu nhiều lần, lần trùng tu lớn nhất là vào năm Kỷ Mão 1879. Trong cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc năm 1979, đền bị phá hủy, chỉ còn lại một vài tấm bia và nền móng cũ. Sau năm 1989, đền được phục hồi lại với quy mô nhỏ. Để đáp ứng mong mỏi của quần chúng nhân dân dân muốn có một cơ sở thờ tự khang trang, quy mô, năm 2009, đền Xã Tắc đã được UBND tỉnh Quảng Ninh ra Quyết định cho phép phục hồi và giao cho UBND thành phố Móng Cái làm chủ đầu tư giai đoạn I và BTS Giáo hội phật giáo tỉnh Quảng Ninh làm chủ đầu tư giai đoạn II, triển khai dự án bằng nguồn vốn xã hội hóa. Đền Xã Tắc ngày nay được xây dựng theo hướng Nam, trên một khu đất cao, thoáng mát với diện tích khuôn viên khoảng 20.000m2 , phía Đông giáp sông Ka Long, ba mặt còn lại giáp với khu vực đất thuê của công ty liên doanh khách sạn Hồng Vận. Ngôi đền chính có diện tích 308 m2, được xây dựng theo kiểu chữ “công”. Trong đó: tòa tiền đường gồm ba gian hai chái, hai gian chung đường và ba gian hậu cung. Đền được xây dựng chủ yếu bằng gỗ lim, mái lợp ngói vảy rồng, tường xây gạch. Đền được xây hai tầng tám mái với những họa tiết hoa văn chạm trổ truyền thống, tinh xảo, mái lợp ngói mũi hài. Hiện nay, Đền Xã Tắc vẫn còn lưu giữ được ba tấm bia cổ có niên đại từ những năm 1879, trên đó có ghi danh những người đã góp công, góp của để trùng tu, xây dựng lại đền. Đền Xã Tắc là một di tích lịch sử văn hóa có quy mô lớn và lịch sử lâu đời. Đây từng là địa điểm sinh hoạt tín ngưỡng, tâm linh linh thiêng của cư dân Móng Cái và các vùng lân cận, ngoài những ngày cúng rằm và mồng một hàng tháng. Hàng năm, tại đền còn diễn ra 5 ngày lễ chính là ngày 16/1, 2/5, 16/8, 16/12, 18/12 (ÂL). Trong những ngày này, người dân trong khu vực được chia thành 5 tổ. Trong một năm, mỗi tổ được phân công lo một lễ chính. Ngày 16/1 là ngày lễ cầu an. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch vừa ban hành Quyết định số 3238/QĐ-BVHTTDL ngày 4/11/2020 về việc xếp hạng Di tích cấp Quốc gia đối với Di tích lịch sử đền Xã Tắc (phường Ka Long, TP Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh). Nguồn Cổng thông tin điện tử thành phố Móng Cái , tỉnh Quảng Ninh.
Quảng Ninh 3027 lượt xem
Chùa Nam Thọ (có tên gọi khác là Vạn Linh Khánh Tự), thuộc khu Nam Thọ, phường Trà Cổ là một trong những di tích có giá trị tiêu biểu của thành phố Móng Cái, được Bộ Văn hóa Thông tin xếp hạng là di tích nghệ thuật cấp Quốc gia năm 1999. Theo bài minh trên chuông đồng đúc lại, Chùa có từ Thiệu Trị thứ 3 (1843), vào năm Cảnh Thịnh thứ 15 triều vua Lê Hiển Tông (1754). Chùa Nam Thọ được xây dựng quay về hướng Bắc, với kết cấu kiểu chữ Hồi mang ý nghĩa là sự hội tụ của các dòng nước. Đó cũng là lý giải cho tên chữ của chùa: Vạn Linh Khánh (Sự linh thiêng, tốt lành). Chùa Nam Thọ gồm các công trình chính: Tam quan, Nhà Tổ, Nhà Mẫu, Nhà Khách ; đã nhiều lần được trùng tu, dấu ấn thời Lê không còn nữa. Nhưng tại đây vẫn còn lưu giữ được một hệ thống tượng gồm 53 pho tượng cổ. Đáng chú ý nhất là 4 pho tượng Thích Ca sơ sinh, 2 pho tượng Quan Âm Tống tử và 2 pho tượng Tam thế nhỏ mang đậm bản sắc văn hóa của dân tộc Việt Nam. Cũng chính vì thế, nơi đây là một “bảo tàng điêu khắc cổ” thu nhỏ của vùng Đông Bắc Việt Nam. Một nét đặc biệt nữa của chùa Nam Thọ mà ít có di tích nào có được, đó là rừng cây cổ thụ phía sau chùa. Không chỉ là địa điểm sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng của nhân dân địa phương, chùa Nam Thọ còn là một di tích lịch sử văn hóa gắn liền với quá trình đấu tranh bảo vệ tổ quốc và xây dựng đất nước của nhân dân ta. Vào năm 1905, Phan Bội Châu trên đường đi Trung Quốc để sang gặp gỡ các nhà cách mạng Nhật Bản, Trung Quốc đề nghị họ hỗ trợ cho phong trào Đông Du. Trong một lần bị giặc truy đuổi, ông đã ẩn náu tại chùa Nam Thọ và được nhân dân cưu mang, giúp đỡ. Trong hai cuộc kháng chiến chống Thực dân Pháp và Đế quốc Mỹ xâm lược, chùa là nơi tích trữ lương thực, nuôi giấu cán bộ cơ sở, cất giấu tài liệu cách mạng và là nơi tiễn đưa hàng ngàn con em địa phương lên đường tham gia kháng chiến. Năm 2014, UBND tỉnh Quảng Ninh đã ký quyết định phê duyệt dự án tu bổ, tôn tạo, phục hồi di tích chùa Nam Thọ với tổng mức vốn đầu tư huy động xã hội hóa trên 12 tỷ đồng. Nằm ở vị trí quan trọng nơi địa đầu tổ quốc, chùa Nam Thọ cũng như các công trình kiến trúc nghệ thuật và văn hóa khác của thành phố Móng Cái là “cột mốc” vững bền khẳng định chủ quyền lãnh thổ quốc gia, khắc ghi dấu ấn lịch sử và mang đậm những nét văn hóa đặc trưng của dân tộc Việt Nam tại vùng biên cương của Tổ quốc. Nguồn Cổng thông tin điện tử thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh.
Quảng Ninh 3050 lượt xem
Di tích lịch sử cách mạng khu mỏ gồm 03 điểm: + Địa điểm thứ nhất: Nơi thành lập Chi bộ Đảng đầu tiên tại khu mỏ (Khu Dân Chủ) + Địa điểm thứ Hai: Xưởng cơ khí - mỏ Mạo Khê, là nơi các thành viên hội thanh niên cách mạng đồng chí Hội – Do Đ/c Hoàng Quốc Việt ( Tức Hạng Bá Cang ) đứng đầu, đã tiến hành chủ chương vô sản hóa- Đây là chủ trương tuyên truyền, rèn luyện và truyền bá tư tưởng chủ nghĩa Mác – Lê Nin vào gia cấp công nhân vùng mỏ, tạo điều kiện hình thành những tổ chức cao hơn của công nhân mỏ Mạo khê sau này. + Địa chỉ thứ Ba: Chùa Non Đông : Là cơ sở bí mật của tổ chức Đông dương cộng sản những năm 1929 – 1930. 3 địa điểm của Di tích lịch sử mỏ than Mạo Khê là nơi ghi dấu ấn hoạt động của nhà chí sĩ yêu nước Nguyễn Văn Cừ và cũng là nơi thành lập Chi bộ Đảng đầu tiên ở Khu mỏ Quảng Ninh. Trong đó, chùa Non Đông được sử sách ghi lại có từ năm Trùng Hưng 1285; nhà máy cơ khí hoạt động trong thời kỳ Pháp thuộc. Trải qua thời gian, các địa điểm này đều đã bị hư hại, chỉ còn là phế tích. Năm 2015, từ nhiều nguồn vốn, tỉnh Quảng Ninh đã khởi công dự án trùng tu, tôn tạo di tích lịch sử mỏ than Mạo Khê. Hiện nay, di tích lịch sử Mỏ than Mạo Khê là một trong 14 điểm du lịch trên địa bàn TX Đông Triều. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch vừa có Quyết định số 3013/QD-BVHTTDL ngày 30/8/2019 về việc xếp hạng di tích quốc gia cho Di tích lịch sử mỏ than Mạo Khê (phường Mạo Khê, TX Đông Triều). Nguồn Sở Văn hóa và thể thao tỉnh Quảng Ninh.
Quảng Ninh 3388 lượt xem