Di tích Kỳ Đài nằm trên Quảng trường 26 tháng 3 thuộc phường Nguyễn Trãi, thành phố Hà Giang. Kỳ Đài là nơi ghi dấu lưu niệm sự kiện Bác Hồ thăm và nói chuyện với hơn 16.800 đồng bào các dân tộc tỉnh Hà Giang vào ngày 27/3/1961. Trong dịp này Bác Hồ căn dặn nhân dân các dân tộc tỉnh Hà Giang 8 nội dung chủ yếu sau: Trước hết, tất cả các dân tộc đều phải đoàn kết chặt chẽ, thương yêu giúp đỡ nhau như anh em một nhà. Hai là: Đồng bào phải ra sức tăng gia sản xuất, và thực hành tiết kiệm để làm cho mọi người đều áo ấm cơm no. Ba là: Muốn sản xuất tốt, phải có đủ nước, nhiều phân bón và cải tiến nông cụ. Bốn là: Cần phát triển chăn nuôi trâu, bò, lợn, gà… là nguồn lợi lớn, lại là nguồn phân bón cho ruộng nương. Năm là: Khai thác lâm thổ sản, bảo vệ rừng và trồng cây gây rừng, trồng cây ăn quả và cây làm thuốc. Sáu là: Đồng bào phải chú ý vệ sinh, để giữ gìn sức khoẻ thì phải ăn uống sạch, mặc sạch, ở sạch. Sức khoẻ thì lao động sản xuất mới tốt. Bảy là: Đồng bào phải cố gắng xoá nạn mù chữ, phải biết đọc, biết viết thì làm ăn mới tiến bộ được. Tám là: Đời sống của đồng bào rẻo cao còn có nhiều khó khăn hơn đồng bào các nơi khác, nhân dân các cấp và cán bộ từ khu đến huyện cần phải ra sức giúp đỡ đồng bào rẻo cao khắc phục khó khăn, xây dựng cuộc sống mới. Lời căn dặn của Bác Hồ thấm sâu vào lòng nhân dân các dân tộc Hà Giang trong sự nghiệp xây dựng và phát triển tỉnh Hà Giang trong thời gian qua. Kỳ Đài được Bộ Văn hoá Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích cấp quốc gia năm 1993. Ngày 30/3/2001 UBND tỉnh Hà Giang khởi công xây dựng Quảng trường và cụm tượng đài trước cửa Kỳ Đài lấy tên là Quảng trường 26 tháng 3. Quảng trường bao gồm toàn bộ phần sân vận động trước đây. Chính giữa quảng trường đặt nhóm tượng đài "Bác Hồ với đồng bào các dân tộc Hà Giang". Mẫu tượng do nhà điêu khắc Nguyễn Phú Cường sáng tác, công ty Mỹ thuật Trung ương thi công. Công trình cao hơn 11m, gồm 200 khối đá, nặng 600 tấn. Hình tượng Bác Hồ đứng giữa nhóm 7 nhân vật, đứng nép âu yếm gần Bác là 2 em bé dân tộc Mông và Nùng. Đứng thấp hơn một chút là thiếu nữ dân tộc Kinh và Dao. Phía sau là hình tượng người chiến sỹ biên phòng và anh cán bộ người Tày, với ánh mắt rạng rỡ như muốn ghi lại từng lời dạy của Bác. Bố cục nhóm tượng hoà quyện với nhau, liên kết theo một sợi dây tình cảm xuyên suốt, sống động. Sự hình thành nhịp điệu đó chính là một sử lý sáng tạo có chủ đích mang tính biểu trưng của khối phụ trợ, đem lại cho người xem cảm giác về không gian hùng vĩ của núi rừng Hà Giang với tầng tầng mây bay lượn, hoà với lớp lớp ruộng bậc thang.... Với lợi thế tượng đài được đặt ở quảng trường, nên công trình có một không gian hoành tráng với chiều cảm thụ đa hướng, nhiều chiều. Đây là công trình văn hoá - nơi hội tụ của đông đảo người dân, chiêm ngưỡng vẻ đẹp hoành tráng của công trình và tiến hành các sinh hoạt cộng đồng. Kỳ Đài và quảng trường 26 tháng 3 trở thành nơi tham quan của du khách trong và ngoài nước. Là địa điểm sinh hoạt văn hoá cộng đồng của nhân dân các dân tộc Hà Giang. Nguồn: Sở Văn Hóa Thể Thao Và Du Lịch Tỉnh Hà Giang
Tuyên Quang 7403 lượt xem
Di tích Bãi đá cổ thuộc địa phận thôn Nấm Dẩn, xã Nấm Dẩn, huyện Xín Mần. Theo tiếng Nùng địa phương, “Nấm Dẩn” có nghĩa là khu vực nguồn nước. Bãi đá cổ Nấm Dẩn được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng là di tích cấp quốc gia ngày 21/02/2008. Bãi đá cổ Nấm Dẩn được phát hiện vào năm 2004 bởi các nhà khoa học Viện Khảo cổ học và Bảo tàng Hà Giang. Khu di tích đá cổ chạm khắc các hình vẽ có cách đây cả nghìn năm nằm trong một thung lũng rộng. Khác với di tích đá cổ ở Sa Pa (Lào Cai), bãi đá cổ Nấm Dẩn còn được ít người biết đến nhưng vẻ đẹp của các hình vẽ và những điều bí ẩn xung quanh các phiến đá thì không kém phần hấp dẫn và lôi cuốn. Các di tích cự thạch này nằm giữa dãy núi Tây Ðản và dãy núi đồi Nấm Dẩn, ngay gần sát với con suối Nậm Khoòng. Nhiều tảng đá trầm tích lớn nằm dọc bờ suối với hình thù đa dạng và độc đáo. Có tảng đá như một bàn cờ phẳng, có tảng lại giống tấm phản nằm hay một chiếc ghế ngồi. Trên bề mặt và ở các rìa cạnh của tấm đá vẫn giữ được nguyên trạng phong hóa tự nhiên. Nhân dân trong vùng gọi khu vực này là Nà Lai (ruộng nhiều chữ) vì trên một số tảng đá có khắc hình, chữ. Các hình khắc vẽ rất đa dạng, mang vẻ đẹp riêng trong phong cách tạo hình của nghệ thuật cổ. Ngoài hơn 80 hình khắc vẽ, trên bề mặt tảng đá còn có khoảng 80 lỗ vũm, được khoét với đường kính trung bình 5 - 6cm, sâu 1 – 2cm, các vũm phân bố chủ yếu ở đầu phía tây của tảng đá. Mỗi tảng đá là một điều bí ẩn, gắn với những câu chuyện ly kỳ mang dấu ấn tín ngưỡng, thể hiện sự linh nghiệm cầu ứng các đấng thần linh của nhân dân các dân tộc thiểu số trong vùng. Bãi đá bao gồm bảy phiến đá lớn và hai cự thạch (tảng đá cực lớn) khắc và vẽ 79 hình thù, bao gồm: sáu hình hồi văn hình vuông, hai hình hồi văn hình tròn, 40 hình tròn, một hình vuông, hai hình chữ nhật, sáu hình đục khắc song song tương tự ruộng bậc thang, năm hình biểu tượng sinh thực khí phụ nữ, còn lại là các hình bàn chân người với kích thước tương đương kích cỡ thật, có ngón chân khắc lõm sâu vào đá, hình người trong tư thế giơ hai tay, dang hai chân... Theo lời những già làng tại Nấm Dẩn thì: “Ở đây có tục thờ đá từ lâu đời nên những khối đá cổ bí ẩn kia không ai dám xâm phạm tới”. Cùng với đó người dân địa phương cũng đã truyền tai nhau qua biết bao nhiêu thế hệ về truyền thuyết rằng khu bãi đá cổ chính là nơi thần thánh đã cất giữ những bí mật “thiên cơ bất khả lộ”. Những hình vẽ trên các tảng đá được người dân coi là “thiên tự” còn khu vực này là “đất thánh” mà không ai ở đây dám coi nhẹ. Cho đến nay, ở Việt Nam, những dấu tích nghệ thuật tạo hình thời tiền sử còn tìm thấy khá ít. Theo các nhà KH, di tích cự thạch Nấm Dẩn có niên đại khoảng 2000 năm. Đây có thể là di tích mộ của thủ lĩnh cộng đồng hoặc là khu đất thiêng, thờ cúng thần linh, tổ tiên và các nhân vật lỗi lạc của cộng đồng dân cư. Ngoài ra, di tích cự thạch Nấm Dẩn còn có khả năng liên quan đến tục thờ thần đá của các cư dân tiền sử. Có thể nói Bãi đá cổ Nấm Dẩn có giá trị đặc biệt về văn hoá, lịch sử, tín ngưỡng và giá trị nghiên cứu khoa học cao. Nguồn: Sở văn hoá thông tin du lịch tỉnh Hà Giang
Tuyên Quang 4205 lượt xem
Đền Lê Hoàn ở làng Trung Lập, xã Xuân Lập, huyện Thọ Xuân (Thanh Hóa) là di tích lịch sử quốc gia đặc biệt và được ví là ngôi đền cổ nhất xứ Thanh. Đền Lê Hoàn ở ngôi làng hàng trăm năm tuổi, nơi đã sinh ra vị khai quốc của Triều Tiền Lê hiển hách trong lịch sử dân tộc - Lê Đại hành Hoàng đế. Hiện nơi đây vẫn còn một ngôi đền thờ Vua nằm ở cuối làng được mệnh danh là một trong những ngôi đền cổ bậc nhất xứ Thanh và được công nhận là di tích lịch sử Quốc gia đặc biệt. Theo sử sách, Lê Hoàn sinh ngày 15 tháng 7 năm Tân Sửu (941) tại trang Kẻ Xốp, huyện Di Phong Châu Ái (nay là làng Trung Lập, xã Xuân Lập, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa) trong một gia đình nông dân nghèo. Cha là Lê Mịch, mẹ là Đặng Thị. Năm lên 6 tuổi, Lê Hoàn mồ côi cả cha lẫn mẹ, làm con nuôi cụ Lê Đột ở trang Kẻ Mía (nay là làng Phong Mỹ, xã Trường Xuân, huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa). Lớn lên, Lê Hoàn tòng quân phò giúp Đinh Tiên Hoàng dẹp loạn 12 xứ quân, lập nhiều công trạng và được phong Thập đạo Tướng quân. Ông một lòng phò tá góp phần cùng Vua Đinh vỗ yên trăm họ, đất nước thái bình. Mùa Đông tháng 10 năm Kỷ Mão (979), vua Đinh Tiên Hoàng và con trai cả Nam Việt Vương Đinh Liễn bị Đỗ Thích sát hại. Lê Hoàn được cử làm nhiếp chính, giúp ấu Chúa nhà Đinh giữ yên biên cương xã tắc, dẹp tan nội phản, được Thái hậu Dương Vân Nga trao áo long bào. Năm Canh Thìn 980 Lê Hoàn lên ngôi Hoàng đế, đặt niên hiệu là Thiên Phúc. Vua đánh tan quân Tống, giữ yên bờ cõi, chinh phạt Chiêm Thành từng bước khẳng định chủ quyền đất nước dân tộc, cho đúc tiền Thiên Phú chú trọng đến việc phát triển nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp giao thông, thương mại. Sau đó, Lê Hoàn mất ngày 8 tháng 3 năm Ất Tỵ (1005) tại Cố Đô Hoa Lư - tỉnh Ninh Bình, thi hài Lê Hoàn được an táng tại Sơn Lăng, châu Trường Yên, ở ngôi 24 năm, thọ 65 tuổi, miếu hiệu là Đại Hành Hoàng đế. Nguồn: Cổng thông tin điện tử Huyện Thọ Xuân
Thanh Hóa 5616 lượt xem
Di tích Hang Con Moong và các di tích phụ cận thuộc huyện Thạch Thành, tỉnh Thanh Hóa, có tổng diện tích 4.999.180m2, khai quật lần đầu tiên vào năm 1976. Năm 2008 - 2009, hang Con Moong được đoàn kiểm tra, nghiên cứu tổng thể và khảo sát các di tích phụ cận. Trong thời gian khai quật hang Con Moong (2010 - 2015), đoàn khảo cổ học Việt - Nga đã phát hiện thêm các di tích là hang Lý Chùn, hang Bố Giáo, di tích đất đắp núi Đầu Voi, hang Mang Chiêng, Hang Diêm, đồng thời khai quật 4 di tích xung quanh là: Hang Lai (2010), hang Lý Chùn (2010), hang Mang Chiêng (2011 - 2012) và Hang Diêm (2013 - 2014). Cụ thể: 1. Hang Con Moong: nằm trong núi đá vôi tuổi Triat thượng (Upper Triassic) thuộc hệ tầng Đồng Giao (Tađg), khoảng 240 triệu năm. Hang Con Moong có địa tầng dày trung bình từ 9,5m - gồm 10 lớp có cấu trúc khác nhau. Từ lớp 1 đến lớp 6 (độ sâu từ 1m - 6m) tìm thấy nhiều công cụ lao động, xương cốt động vật, vỏ nhuyễn thể. Các lớp 7 đến 10 không gặp dấu tích động thực vật, nhưng có nhiều công cụ mảnh tước, chế tác bằng đá quartz, tập trung nhất là ở lớp 10. Theo nghiên cứu bước đầu, hang Con Moong trải qua 4 giai đoạn phát triển về văn hóa. Kết quả nghiên cứu các bon phóng xạ (C14) các lớp trên, độ từ cảm, tập trầm tích ở Con Moong và so sánh tương thích văn hóa với các di chỉ khảo cổ khác cho thấy niên đại sớm nhất của Con Moong được dự đoán 40.000 đến 60.000 năm cách ngày nay. Từ kết quả khai quật khảo cổ cho thấy, hang Con Moong là 1 trong số rất hiếm di chỉ khảo cổ học có địa tầng dày và được bảo tồn tốt nhất hiện nay ở Việt Nam và cả Đông Nam Á. 2. Các di tích phụ cận: - Di tích Hang Lai: nằm trong dãy núi đá vôi thuộc thôn Thành Trung, xã Thành Yên, huyện Thạch Thành. Hang có hình hàm ếch. - Di tích Hang Lý Chùn: Lòng hang như một mái đá nhỏ, cửa hướng Tây - Tây Nam, vòm cao 2m không phẳng nhiều diềm và nhũ đá rủ xuống, chiều dài sâu trên 2m, vách hang có những vỉa đá lan ra cửa, có nhiều mảng khối trầm tích chứa xương răng động vật hóa thạch. - Di tích Hang Bố Giáo: thuộc địa phận thôn Yên Sơn 2, xã Thành Yên, huyện Thạch Thành, tỉnh Thanh Hóa. Hang có hai khoang, ngăn cách nhau bởi các cột nhũ đá lớn. - Di tích Đất đắp Núi Đầu Voi (hay còn gọi là Hệ thống hào lũy núi Đầu Voi, Thành đất đắp núi Đầu Voi, Thành Lý Chùn, Lũy Đầu Voi, Đồn Binh Lý Chùn) nằm sát (bao bọc ba mặt) núi Đầu Voi, trong vùng đệm của Vườn Quốc gia Cúc Phương. - Di tích Hang Diêm: nằm trong khu vực vùng đệm của Vườn Quốc gia Cúc Phương. Hang có hình ống dài trên 50m, rộng trung bình 10m. - Di tích Hang Mang Chiêng (hay còn gọi là Vang Chiêng): nằm trong địa bàn của Vườn Quốc gia Cúc Phương, trước cửa hang có hai cây Vông lớn nên nhân dân còn gọi là hang Cây Vông. - Di tích Hang Mộc Long và Mái đá Mộc Long: nằm trên một phía của núi Chùa thuộc xã Thành Minh. Sau quá trình nghiên cứu, khai quật hang Con Moong và các di tích phụ cận, các nhà khoa học bước đầu nhận xét, đánh giá những giá trị nổi bật: - Cấu tạo địa tầng và tầng văn hóa ở di tích hang Con Moong và các di tích phụ cận cho thấy, đây là di tích cư trú, mộ táng của cư dân thuộc nhiều thời kỳ. Hang Con Moong là 1 trong số rất hiếm di chỉ khảo cổ học, có địa tầng dày và được bảo tồn tốt nhất hiện nay ở Việt Nam và cả Đông Nam Á. - Các di vật khai quật được ở hang Con Moong là những bằng chứng xác thực về truyền thống cư trú trong hang, chế tác và sử dụng công cụ đá với sự thay đổi về loại hình và kỹ thuật chế tác công cụ, từ đó, có thể nghiên cứu sự thay đổi về hành vi, ứng xử của người cổ trước những biến động của cổ khí hậu và môi trường tự nhiên... - Giá trị lịch sử văn hóa nổi bật ở hang Con Moong là sự thích nghi của con người với môi trường trong suốt hàng vạn năm, từ hái lượm săn bắt, tiến dần đến trồng trọt, chăn nuôi... Kết quả khai quật cho thấy, con người đã có mặt ở hang Con Moong từ khoảng 60.000 năm trước, song không thường xuyên. Từ khoảng 25.000 - 20.000 năm trước, khí hậu ấm dần, có thời kỳ xen kẽ ấm và lạnh, người ta cư trú trong hang thường xuyên hơn. Từ sau 20.000 năm là thời kỳ nóng ẩm mưa nhiều, khiến các loài ốc và nhuyễn thể sinh sôi, là nguồn thức ăn thường xuyên của con người, bằng chứng là vỏ nhuyễn thể chất đầy cửa hang, có chỗ dày tới 4m. Từ 11.400 năm đến 8.000 năm là thời kỳ mưa nhiều, người Tiền sử liên tục cư trú ở cửa hang Con Moong. Tại khu vực này đã thu được trong địa tầng rất dày toàn vỏ ốc với hàng trăm công cụ lao động bằng đá, xương, sừng, vỏ nhuyễn thể… với kỹ nghệ chế tác công cụ phát triển từ văn hóa Sơn Vi đến văn hóa Hòa Bình - Bắc Sơn. Từ 7.000 năm cách ngày nay là thời kỳ biển lùi, mưa ít, con người bắt đầu rời hang động dần chiếm lĩnh đồng bằng, ven biển, xác lập các nền văn hóa biển đầu tiên trong thời kỳ Tiền sử. Những dấu tích lớp văn hóa trên cùng ở Con Moong gồm những chiếc rìu mài và gốm văn đập thô sơ tương thích với lớp sớm nhất của văn hóa Đa Bút cho thấy sự chuyển cư của cư dân hang Con Moong đã tiến dần xuống đồng bằng ven biển, lập nên văn hóa Đa Bút. - Song song với việc hoàn thiện khai quật hang Con Moong, các nhà khoa học đã khảo sát, khai quật và nghiên cứu các hang động xung quanh khu vực hang Con Moong. Qua đây cho thấy Con Moong là di tích cổ xưa nhất, có mối quan hệ nhất định với các di tích xung quanh ở các bình tuyến khác nhau. Từ Con Moong, trải qua hàng chục ngàn năm do biến đổi của khí hậu, thời tiết dẫn đến môi trường sinh sống được mở rộng, kỹ nghệ chế tác công cụ lao động, sinh hoạt ngày càng tiến bộ, người nguyên thủy đã tách ra từng bầy nhóm, di chuyển đến các hang động Mang Chiêng, hang Diêm, hang Lai, hang Mộc Long, Mái đá Mộc Long, Hang Đắng (Động Người xưa), hang Bố giáo … Những kết quả nhiên cứu đó đã góp phần nâng tầm giá trị lịch sử - văn hóa của quần thể di tích - hang động khu vực hang Con Moong. Với giá trị tiêu biểu, di tích khảo cổ hang Con Moong và các di tích phụ cận (huyện Thạch Thành, tỉnh Thanh Hóa) được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng là di tích quốc gia đặc biệt ngày 23/12/2015. Nguồn: Cục Di sản văn hóa
Thanh Hóa 6632 lượt xem
Bà Triệu (tên là Triệu Thị Trinh, còn gọi là Trinh Nương, hay Triệu Ẩu), sinh năm 226, người huyện Quân Yên (Quan Yên), quận Cửu Chân. Bà có dung mạo hơn người, võ nghệ cao cường, thích giao du bạn bè, có hoài bão lớn thể hiện qua câu nói nổi tiếng: “Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá trường kình ở biển Đông, đánh đuổi quân Ngô giành lại giang sơn, cởi ách nô lệ, chứ không chịu khom lưng làm tỳ thiếp cho người!" Năm 248, Bà Triệu cùng anh trai Triệu Quốc Đạt tập hợp trai tráng trong vùng tụ nghĩa chống lại ách đô hộ nhà Ngô. Một thời gian ngắn sau, Triệu Quốc Đạt lâm bệnh qua đời, Bà được tướng sĩ tôn làm Chủ tướng. Trước sức mạnh của quân ta, các thành ấp của quân Ngô ở Cửu Chân lần lượt bị đánh hạ. Cuộc khởi nghĩa phát triển, lan rộng ra các vùng Giao Chỉ, kéo dài vào tận Nhật Nam. Trước tình hình đó, Ngô vương Tôn Quyền đã phải cử viên tướng Lục Dận làm Thứ sử đem quân sang đàn áp. Sau nhiều trận chiến ác liệt, nghĩa quân không thể chống chọi được với cường địch. Bà Triệu đã tuẫn tiết trên Núi Tùng (nay thuộc xã Triệu Lộc, Hậu Lộc, Thanh Hóa) vào ngày 22 tháng Tám, năm Mậu Thìn (248), khi mới tròn 23 tuổi. Để tưởng nhớ ân đức của Bà Triệu và các tướng sĩ, nhân dân đã lập đền thờ ngay tại địa điểm trước đây Bà cùng nghĩa quân đã chiến đấu và hy sinh oanh liệt. Trải qua biến cố của thời gian và lịch sử, đền thờ Bà Triệu tại Núi Tùng vẫn được nhân dân gìn giữ, là nơi tổ chức các sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng. Khu di tích Bà Triệu được xây dựng, trùng tu, tôn tạo qua nhiều thời kỳ khác nhau, bao gồm các địa điểm: Đền thờ và lăng mộ Bà Triệu, mộ ba Ông tướng họ Lý, miếu Bàn thề, đình Phú Điền, đền Đệ Tứ. 1. Đền Bà Triệu: tọa lạc hướng Bắc, gồm: Nghi môn ngoại, hồ sen hình chữ nhật, bình phong, Nghi môn trung, sân dưới, Nghi môn nội, sân trên (hai bên có Tả/hữu mạc), Tiền đường, sân thượng, Trung đường, sân thiên tỉnh, Hậu cung. 2. Khu lăng mộ Bà Triệu Lăng Bà Triệu: nằm trên đỉnh núi Tùng, hình trụ đứng (tứ giác) nhỏ dần về phía đỉnh gồm 2 tầng mái: có chiều cao từ mặt nền đến đỉnh là 5,8m. Mái lăng làm theo kiểu mái kiệu long đình, đỉnh lăng gắn hình nậm rượu. Toàn bộ Lăng được chế tác từ đá xanh nguyên khối, bên trong đặt bát hương, mặt chính của Lăng đặt bàn thờ bằng đá. Mộ: được xây cao hơn 0,50m so với nền. Cấu trúc mộ vuông bốn mặt có kích thước 1,5m, chiều cao 2,3m. Mộ được mở cửa hình vòm ra 4 phía, mái tạo dáng cong ở các góc, đỉnh mộ gắn quả cầu tròn. Tháp chúa: cấu trúc hình trụ vuông bốn mặt làm bằng đá nguyên khối cao 1,45m, đế tháp cao 0,5m, vuông bốn mặt. 3. Mộ Ba ông tướng họ Lý: nằm dưới chân núi Tùng, kích thước ba ngôi mộ đều là 3m. Phía sau mộ có bàn thờ xây gạch hình chữ nhật dùng làm nơi đặt đồ tế lễ. Ngoài khu mộ còn có tấm bia đá, trán bia ghi “Kỷ niệm bia chí”. 4. Miếu Bàn thề: tương truyền đây là nơi ba anh em họ Lý tổ chức ăn thề đi theo nghĩa quân của Bà Triệu, thuộc khu ruộng Đồng Bảng, làng Phú Điền. Hiện trạng miếu chỉ là một bệ thờ xây bằng gạch, dài 2,04m, rộng 1,48, cao 1,38m. 5. Đình Phú Điền: được dựng dưới thời vua Cảnh Hưng thứ 33 (1772), tọa lạc về hướng Tây Nam, nhìn ra núi Tùng, gồm các hạng mục sau: Nghi môn: kiểu tứ trụ, bằng đá xanh nguyên khối, với 3 cửa ra vào. Cột tứ trụ lớn, chân đế tạo tác kiểu chân quỳ, bốn mặt chạm tứ linh, đỉnh cột gắn tượng chim phượng lá lật. Tòa Đại đình: kiến trúc chữ Đinh, dài 18,40m, rộng 14,37m, mặt trước có hiên rộng 1,9m, cánh cửa kiểu bức bàn. Tiền đường: có kiến trúc đẹp, hài hòa, vì kèo được chạm trổ tinh vi theo phong cách chạm lộng, chạm bong, chạm nổi, chạm chìm với đề tài trang trí truyền thống như tứ linh, cá chép hóa rồng, hoa sen, hoa mai, chim sáo, hươu nai, gà trống, đặc biệt là hình tượng người phụ nữ và những hoạt cảnh dân gian. Hậu cung: 3 gian 2 chái, vì kèo kiểu "giá chiêng chồng rường kẻ bẩy" với 4 hàng chân cột, 4 vì kèo gỗ. Hậu cung được mở 3 cửa, cửa kiểu bức bàn, khung gỗ được tạo tác hình tròn ở tất cả các cấu kiện. Các bức chạm khắc tập trung ở bức tường long cốt bằng gỗ, trên hệ thống xuân hoa và các bức cốn ở ngoài hiên. 6. Đền Đệ Tứ: nằm gần khu vực núi Eo, làng Phú Điền, nên nhân dân còn gọi là Nghè Eo. Tại di tích, hiện còn lưu giữ 3 đạo sắc phong, trong đó, có 1 bản niên hiệu Cảnh Thịnh thứ 5 (1797). Đền gồm 2 gian xây dọc, dài 6,12m, chiều rộng trung bình 2,88m, cao 3,85m, gồm Hậu điện và Tiền đường, xây theo kiểu cuốn vòm, nền lát gạch bát màu đỏ cổ. Đền Bà Triệu, có 297 di vật, cổ vật thuộc nhiều chủng loại, đa dạng về chất liệu như giấy, gỗ, đồng, gốm,... niên đại từ cuối thế kỷ 17 đến đầu thế kỷ 20. Những tài liệu, hiện vật còn được bảo lưu trong di tích có giá trị về lịch sử, văn hóa, giúp chúng ta tìm hiểu về nguồn gốc, quá trình tồn tại của di tích và truyền thống văn hóa, tín ngưỡng, phong tục của địa phương. Di tích là nơi nhân dân làng Phú Điền tổ chức sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng theo phong tục cổ truyền (ngày lễ, Tết cổ truyền, ngày mất của nhân vật lịch sử). Lễ hội đền Bà Triệu diễn ra trong 3 ngày (từ 19 - 22 tháng Hai âm lịch) gồm lễ tế, lễ rước kiệu, trò diễn dân gian với sự tham gia đông đảo của cộng đồng trong vùng và thu hút hàng vạn du khách đến tham quan và hành lễ. Với giá trị đặc biệt tiêu biểu, di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật Khu di tích Bà Triệu (huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa) đã được xếp hạng là di tích quốc gia đặc biệt ngày 31/12/2014. Nguồn: Cục Di sản văn hóa
Thanh Hóa 6711 lượt xem
Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật Lam Kinh nằm trên địa bàn thị trấn Lam Sơn và xã Xuân Lam (huyện Thọ Xuân), xã Kiên Thọ (huyện Ngọc Lặc), với tổng diện tích quy hoạch bảo tồn là 200ha. Lam Kinh vốn là đất Lam Sơn, quê hương của anh hùng Lê Lợi, người có công chiêu mộ hiền tài, quy tụ nhân dân đánh đuổi giặc Minh xâm lược (1418 - 1427). Năm 1428, Lê Lợi lên ngôi hoàng đế (Lê Thái Tổ), lập nên vương triều Hậu Lê, đóng đô ở Thăng Long, mở ra thời kỳ phát triển mới cho quốc gia Đại Việt. Năm 1430, Lê Thái Tổ đổi tên vùng đất Lam Sơn thành Lam Kinh. Kể từ đó, các kiến trúc điện, miếu... cũng bắt đầu được xây dựng tại đây, gắn với hai chức năng chính: - Điểm nghỉ chân của các vua Lê khi về cúng bái tổ tiên, đồng thời, cũng là nơi ở của quan lại và quân lính thường trực trông coi Lam Kinh; - Khu tập trung lăng mộ của tổ tiên, các vị vua, hoàng thái hậu nhà Lê và một số quan lại trong hoàng tộc. Về diện mạo kiến trúc của di tích hiện nay, có thể điểm tới một số công trình tiêu biểu như: Chính điện Lam Kinh: theo tư liệu lịch sử và khảo cổ học, chính điện Lam Kinh được dựng ngay sau khi vua Lê Thái Tổ băng hà (năm 1433). Bố cục mặt bằng của kiến trúc này có dạng hình chữ “công”, với tổng diện tích là 1.645,04m2,gồm 3 tòa điện chính: Quang Đức, Sùng Hiếu và Diên Khánh. Hiện nay, trong khu vực này chỉ còn lại dấu tích nền móng, với 127 tảng kê chân cột, nền lát, bó vỉa cùng một số hiện vật khác. Thái miếu: là nơi thờ cúng tổ tiên, các vị vua và hoàng thái hậu nhà Lê. Theo kết quả khai quật khảo cổ, trong khu vực này gồm 9 tòa kiến trúc. Hiện nay, đã tôn tạo, phục hồi được 5 tòa (các tòa số 3, 4, 5, 6, 7). Sân rồng: là một trong những kiến trúc có diện tích lớn nhất trong khu trung tâm của điện Lam Kinh, nằm tại phía sau Ngọ môn, chính giữa có 3 lối đi lên chính điện theo bậc thềm rồng. Đông trù: nằm ở phía Đông Nam của chính điện, được coi như khu vực hậu cần, bếp núc để phục vụ cho toàn bộ khu vực trung tâm của Lam Kinh. Tả vu, Hữu vu: nằm về hai bên sân rồng, hiện chỉ còn lại nền móng và một số chân tảng kê cột cùng một số hiện vật khác. Tây thất: nằm trên một gò đất nhỏ ở phía Tây của Chính Điện, ngoài phạm vi thành Nội. Hiện nay, khu vực này chỉ là phế tích kiến trúc. Cầu Bạch: mới được phục hồi, dài 17m, rộng 5,50m, bắc qua sông Ngọc, nằm trên trục đường chính dẫn vào khu trung tâm chính điện Lam Kinh. Hệ thống tường thành: gồm 3 vòng thành (La thành, thành Nội và thành Ngoại). Năm 2008, một số đoạn của La thành phía Đông và phía Tây cầu Bạch đã được khôi phục (với tổng chiều dài 21m). Hồ Như Áng, kênh dẫn nước đập nhà Lê, hồ Tây: trước kia, khu vực này vốn là vùng đất trũng, xung quanh có nhiều khe suối nhỏ. Lợi dụng địa thế tự nhiên, nhà Lê đã cho đào kênh dẫn nước về hồ Tây, để cung cấp cho toàn bộ khu vực Lam Kinh. Núi Dầu: cách lăng vua Lê Thái Tổ khoảng 500m. Trên núi có đền thờ bà hàng Dầu, gắn liền với truyền thuyết về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Lăng mộ Lê Thái Tổ và bia Vĩnh Lăng: Vĩnh Lăng được xây dựng trên một dải đất bằng phẳng, ở phía Nam chân núi Dầu. Năm 1995, Vĩnh Lăng đã được trùng tu, xây lại bằng gạch, bên ngoài ốp đá đục nhám, phía trước lăng có 2 tượng quan hầu và 4 đôi tượng con giống bằng đá, đứng chầu vào đường “thần đạo” của lăng. Bia Vĩnh Lăng được làm bằng đá trầm tích nguyên khối, cao 2 mét 79, rộng 1 mét 94, đặt trên lưng rùa đá. Nội dung văn bia ghi lại thân thế, sự nghiệp của Lê Thái Tổ. Đây là một công trình điêu khắc đá có giá trị nghệ thuật, đồng thời cũng là tư liệu quý giá trong việc nghiên cứu lịch sử giai đoạn Lê Sơ. Lăng mộ Lê Thái Tông và Bia Hựu Lăng: nằm trên đỉnh cao của rừng Phú Lâm, thuộc xã Xuân Lam, cách Vĩnh Lăng 800 mét. Bia Hựu Lăng được dựng cách lăng khoảng 20m. Hiện nay, bia đã bị mất, chỉ còn lại rùa đá nằm nguyên ở vị trí ban đầu. Lăng mộ Hoàng Thái hậu Ngô Thị Ngọc Dao và bia Khôn Nguyên Chí Đức: tọa lạc trên một khu đất thấp, gọi là Xà Đàm (đầm Rắn), cách Vĩnh Lăng 700 mét về phía Đông. Năm 1998, lăng mộ được trùng tu lại bằng gạch vồ, mặt ngoài trát xi măng, hai bên tạc tượng người và động vật bằng chất liệu đá. Bia Khôn Nguyên Chí Đức dựng năm Mậu Ngọ (1498), làm bằng chất liệu đá xanh nguyên khối, cao 2 mét 76, rộng 1 mét 90. Trán bia và diềm bia trang trí hình rồng 5 móng và hoa lá cách điệu... Lăng mộ Lê Thánh Tông và Bia Chiêu lăng: nằm sát gò Đình (xã Xuân Lam). Bia được dựng vào mùa xuân năm Mậu Ngọ, niên hiệu Cảnh Thống (1498). Lăng mộ vua Lê Hiến Tông và Bia Dụ Lăng: nằm ở bên phải của Vĩnh Lăng, giáp hồ Tây. Bia Dụ Lăng nằm cách lăng mộ khoảng 30 mét, được làm bằng đá nguyên khối, cao 2 mét 78, rộng 1 mét 98. Lăng mộ Lê Túc Tông và Bia Kính Lăng: được xây trên đỉnh núi “Hổ Xứ Ngọc Giăng Đèn”, thuộc địa phận xã Kiên Thọ, huyện Ngọc Lặc. Bia Kính Lăng được dựng vào tháng 3 năm Đoan Khánh thứ nhất (1505), nội dung bia ghi về thân thế, sự nghiệp của vua Lê Túc Tông. Đền thờ vua Lê Thái Tổ: tọa lạc ở phía Đông Nam khu di tích Lam Kinh, Năm 1996, đền này được tôn tạo lại, với kết cấu khung gỗ lim, theo mẫu thức của kiến trúc truyền thống, bao gồm các hạng mục: tiền đường, nhà cầu (ống muống) trung đường và hậu cung. Ngoài các kiến trúc kể trên, trong khu vực Lam Kinh còn có hệ thống công trình phụ trợ cùng nhiều di vật, cổ vật có giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học khác. Tại Khu di tích, vào dịp tháng 8 (Âm lịch) hàng năm, cứ đến ngày 21 (giỗ Lê Lai) và 22 (giỗ Lê Lợi), nhân dân trong vùng lại long trọng tổ chức lễ hội để tưởng nhớ công ơn của các vị anh hùng giải phóng dân tộc, đồng thời thể hiện ước vọng cầu cho mưa thuận gió hòa, đời sống ấm no hạnh phúc... Với những giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học đặc biệt của di tích, ngày 27/9/2012, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định xếp hạng Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật Lam Kinh là Di tích quốc gia đặc biệt. Nguồn: Cục Di sản văn hóa
Thanh Hóa 6782 lượt xem
Thành Nhà Hồ là công trình kiến trúc lịch sử ở xã Vĩnh Long, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa, nơi đây cách trung tâm Hà Nội khoảng 140km. Thành Nhà Hồ được xây dựng từ những năm cuối của thế kỷ 14 tính đến hiện tại đã tồn tại hơn 600 năm. Đến năm 1962, Thành Nhà Hồ chính thức trở thành di tích cấp quốc gia. Năm 2011, di tích lịch sử này được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới. Thành được Hồ Quý Ly cho xây dựng vào năm 1397. Di sản bao gồm: Thành nội, La thành, Đàn tế Nam Giao rộng 155,5 ha và được bao bọc bởi một vùng đệm có diện tích 5078,5 ha. Vị trí của Thành được lựa chọn theo những nguyên tắc phong thủy trong cảnh quan thiên nhiên tuyệt đẹp giữa hai dòng sông Mã và sông Bưởi ở huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa. Ngày nay, tòa thành vẫn còn giữ được 4 cổng thành, các cổng thành được xây bằng những khối đá lớn, nhiều khối đá nặng từ 10 đến 26 tấn. Tường thành có chu vi hơn 3,5km với nhiều đoạn tường thành gần như nguyên vẹn cùng rất nhiều hiện vật lưu dấu nơi từng được coi là kinh đô, trung tâm chính trị, văn hóa, xã hội, đồng thời, là công trình quân sự phòng thủ lớn nhất của Nhà Hồ. Đến thăm Thành Nhà Hồ, du khách không khỏi kinh ngạc về khối lượng đá khổng lồ, cách thức lắp ghép đá xây nên những tường thành, cổng thành đồ sộ, vững trãi. Du khách càng kinh ngạc, thán phục khi biết rằng: ở cái thời cách đây tới hơn 600 năm mà ngôi thành đá to lớn này được xây dựng xong chỉ vẻn vẹn trong thời gian 3 tháng. Giá trị nổi bật của tòa thành là những khối đá nặng hàng chục tấn được ghè đẽo thủ công nhưng đạt đến công năng, hiệu quả sử dụng tối đa, riêng biệt và duy nhất có tại Đông Á những năm cuối thế kỷ 14 đầu thế kỷ 15. Đây là kỳ tích“vô tiền khoáng hậu” hiện nay vẫn chưa được khoa học lý giải. Các đợt khai quật khảo cổ đã làm xuất lộ những dấu tích kiến trúc cùng rất nhiều hiện vật từng góp mình làm nên một Tây Đô tráng lệ, uy nghiêm. Tất cả đã minh chứng rằng: Thành Nhà Hồ là một kinh đô cổ đã được xây dựng hoàn chỉnh vốn đầy đủ cung điện, đền đài, miếu mạo ở bên trong và được sử dụng liên tục trong suốt tiến trình lịch sử của văn minh Đại Việt. Di sản càng trở nên hấp dẫn, khi trong khu vực nội thành và khu vực làng cổ bao quanh thành có rất nhiều di tích văn hóa - lịch sử và cả những câu chuyện truyền thuyết liên quan đến ngôi thành đặc biệt này. Ngày nay, Thành Nhà Hồ trở thành chứng nhân lịch sử và những giá trị tự thân của nó đương nhiên đã mang “tầm” thế giới khi chính thức ghi tên mình vào “ngôi đền” di sản văn hóa nhân loại. Di sản Văn hóa Thế giới Thành Nhà Hồ giữ vai trò quan trọng, là nguồn tài nguyên vô hạn cho việc khai thác, phục vụ phát triển du lịch. Nguồn: Trang thông tin điện tử Thành Nhà Hồ
Thanh Hóa 6472 lượt xem
Tên gọi Đồng Văn được phiên âm từ tiếng quan hỏa “Tổng Puôn” có nghĩa là cánh đồng buôn bán, trong lịch sử đây là trung tâm giao thương của cả huyện Đồng Văn rộng lớn, là đầu mối chính trung chuyển thuốc phiện sang Trung Quốc. Khu vực trung tâm thị trấn Đồng Văn xưa thuộc tổng Đông Quan, châu Nguyên Bình, phủ Tường Yên tỉnh Hà Tuyên. Sau đó tách nhập thuộc châu Bảo Lạc do một thổ quan người Tày họ Nông ở Bảo Lạc cai quản. Khi thực dân Pháp chiếm đóng đã tách Đồng Văn ra khỏi Bảo Lạc. Năm 1887 khu vực Đồng Văn bị thực dân Pháp chiếm giữ và để thuận tiện cho việc cai trị đô hộ, chúng chia Đồng Văn thành các Châu nhỏ, đứng đầu mỗi Châu là một dòng họ thổ ty cai quản.Vùng đất Đồng Văn ngày ấy do thổ ty họ Nguyễn là ông Nguyễn Chấn Quay cai quản. Trước đây khu Phố cổ chỉ là một vùng thung lũng hoang sơ, dân cư thưa thớt. Đến cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 khi người Pháp chiếm đóng Hà Giang, với ý định đưa khu vực này trở thành trung tâm giao thương sầm uất nên khu Phố cổ đã được xây dựng và hình thành. Từ trên cao nhìn xuống, 3 dãy nhà chợ xếp thành hình chữ U, lợp ngói âm dương. Khi mới xây dựng chợ được dựng lên bằng tranh tre nứa lá, Những người già hiện đang sống trên khu phố kể lại: Tết Nguyên Đán năm 1923, khu vực phố cổ Đồng Văn xảy ra trận hỏa hoạn lớn. Ngọn lửa đó thiêu trụi gần như toàn bộ các ngôi nhà, hàng quán lợp bằng lá tranh, nứa. Thực dân Pháp chiếm đóng lúc bấy giờ đã cho quy hoạch lại và cử một số người Tày, Mông sang thuê thợ từ Trung Quốc sang thiết kế xây dựng khu nhà chợ ngày nay. chợ cổ gồm 15 gian nhà chợ, chia thành 3 dãy đối xứng tạo thành kiến trúc chữ U. cột trụ là những cột đá lớn dầy 3,4 người ôm được đục đẽo kỳ công dưới những bàn tay con người. Theo tài liệu thu thập được thì hiện tại Phố cổ Đồng Văn còn 2 ngôi nhà có niên đại trên 100 năm tuổi. Ngoài ra trong khu phố này còn có một số biệt phủ của các thổ ty khác như biệt thự của thổ ty người Tày Nguyễn Đình Cương (1828-1865) và dòng họ Nguyễn, hiện nay đã bị đánh sập chỉ còn cái nền nhà cũ. Từ 1923-1940 các ngôi nhà ở khu vực phố Đồng Văn lần lượt được các người thợ Tứ Xuyên và những người thợ địa phương xây dựng. Về kiến trúc: Hầu hết các ngôi nhà cổ ở Phố Đồng Văn do những người thợ Trung Quốc và thợ địa phương thiết kế xây dựng nên có những sắc thái rất chung, như: phần móng nhà và hàng hiên được xây dựng bằng đá xanh, tường thì được trình bằng đất sét trộn vôi, mật mía và giấy bản hoặc gạch nung hay gạch mộc do đó có độ bền vững chắc. Cửa ra vào và cửa sổ được thiết kế dưới dạng cửa vòm hoặc cửa vuông có ốp đá hay gạch nung ở khung cửa. Cột nhà được xây dựng bằng gạch nung hoặc gỗ nghiến, gỗ thông chắc chắn, hiện nay một số nhà trong khu phố còn giữ lại được những chân cột bằng đá có chạm trổ cầu kỳ với nhiều hình dạng khác nhau, chủ yếu là hình trụ 4 cạnh hoặc hình tròn với dáng vẻ của quả hoa Anh Túc. Trong ngôi nhà những sàn, gác 2 đều được lát ván bằng các loại gỗ quý. Các ngôi nhà được thiết kế xây dựng theo kiểu 3 gian 2 mái, lợp ngói âm dương hoặc nhà vuông ở giữa sân có lát đá (như nhà UBND cũ). Nhà cổ ở Phố cổ Đồng Văn được xây dựng trang trí, sắp đặt giống nhau gian giữa là gian quan trọng dùng để đặt bàn thờ, thẳng cửa ra vào đồng thời cũng là nơi tiếp khách, sau bàn thờ của gian giữa và hai gian bên cạnh là phòng ngủ, buồng giữa sau bàn thờ là phòng của những người lớn tuổi trong gia đình, hai bên cạnh là buồng của con cháu, nếu nhà rộng thì có thể làm bếp riêng hoặc cầu thang lên gác hai tùy theo cách bố trí của từng gia đình Những ngôi nhà có dáng vẻ oai phong và nét mềm mại tinh sảo của chạm khắc gỗ đá kết hợp hài hoà giữa kiến trúc cổ TQ và nghệ thuật VN. Đến vùng cao nguyên đá thăm phố cổ Đồng Văn, thăm chợ phiên vùng cao để được hòa mình vào dòng văn hóa bản địa. Có thể nói chợ phiên là nơi thể hiện rõ nét nhất bản sắc văn hóa của người dân nơi đây. Chợ phiên vùng cao không chỉ là nơi giao thương mà còn là nơi hò hẹn gặp gỡ của các chàng trai cô gái, đây thực sự là ngày hội của đồng bào nơi biên cương heo hút đá.vào những ngày Chủ Nhật hàng tuần khi chợ phiên được tổ chức, một không khí ồn ào, tấp nập và huyên náo, những chàng trai cô gái súng sính với những bộ váy áo sặc sỡ xuống chợ phiên. Họ có thể đi mất nửa ngày đường mới tới chợ, có người đi chợ để mua bán sản phẩm hàng hóa. Các bà vợ, bà mẹ đi chợ để mua sắm, các ông chồng đi chợ để giao lưu uống rượu, ăn Thắng Cố, còn các thanh niên nam nữ thì đi chợ để giao lưu tìm kiếm bạn tình. Đây là những biểu hiện đậm nét bản sắc văn hóa chợ của vùng cao nguyên đá. Chúng ta có thể bắt gặp đâu đó hình ảnh người vợ đứng che ô chờ chồng say rượu ngủ ở góc chợ, lề đường. Đó là hình ảnh đẹp mang đậm bản sắc không nơi nào có được. Với những nét cổ kính rêu phong tồn tại theo dòng chảy của thời gian, Phố cổ Đồng Văn đã được công nhận là di tích lịch sử, văn hoá, kiến trúc nghệ thuật năm 2010. Nguồn: Ban tuyên giáo tỉnh uỷ Hà Giang
Tuyên Quang 4060 lượt xem
Dinh thự Vua Mèo hay còn được biết đến với cái tên Dinh thự họ Vương, tọa lạc tại thung lũng Sà Phìn (Xà Phìn), xã Lũng Phìn, huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang, cách trung tâm thành phố khoảng 125km và cách cao nguyên đá Đồng Văn nổi tiếng chỉ 15km. Căn nhà cổ này gắn liền với cuộc đời và sự nghiệp của 2 cha con người Mông là Vua Mèo Vương Chính Đức và Vương Chí Sình (hay Vương Chí Thành). Ông Vương Chính Đức (1886 - 1962) là người đứng đầu chế độ thổ ty phong kiến miền núi của dân tộc Mông nên còn được gọi với cái tên đầy quyền lực là Vua Mèo. Còn con trai ông là người đi theo con đường cách mạng, nhờ những cống hiến cho đất nước nên được bầu làm đại biểu Quốc hội 2 nhiệm kỳ đầu tiên. Công trình được bắt đầu xây dựng vào năm 1898 và chính thức hoàn thành vào năm 1907, tiêu tốn một khoảng tiền khổng lồ là 15 vạn đồng bạc trắng Đông Dương, tương đương với 150 tỷ VNĐ ngày nay. Dinh thự được thiết kế và xây dựng bởi những người thợ Vân Nam Trung Quốc kết hợp với đồng bào người Mông, tạo ra một công trình rộng hơn 1200m2 trên diện tích khoảng 3000m2. Nhờ lịch sử lâu đời và giá trị văn hóa không thể bàn cãi, Dinh thự Vua Mèo đã được Bộ Văn hóa Thể Thao và Du lịch xếp hạng di tích quốc gia năm 1993, sau gần 1 thế kỉ tồn tại. Ngoài ra dinh thự này cũng mất đến 5 năm để khởi công xây dựng, tất cả đều được xây dựng bằng sức người chứ không hề dùng phương tiện máy móc gì. Dinh thự Vua Mèo nằm dưới chân một thung lũng được bao bọc phía trên bằng một vùng đất cao. Với kiểu địa thế này, toàn bộ công trình được bảo vệ bởi những cánh cung núi gọi là thế mai rùa, hỗ trợ phòng thủ rất tốt trong thời kỳ chiến tranh ác liệt. Trải qua hơn trăm năm tồn tại, mọi thứ trong dinh thự vẫn vẹn nguyên như ngày đầu. Kiến trúc bên trong dinh thự vô cùng độc đáo, là sự kết tinh của 3 nền văn hóa khác nhau gồm người Mông, người Pháp và người Trung Quốc. Công trình gồm 4 căn nhà ngang, 6 căn nhà dọc chia thành 3 khu vực tiền dinh (dành cho lính canh và nô tì), trung dinh và hậu dinh (là nơi ở và làm việc) với 64 buồng nhỏ chia thành 2 tầng. Để đáp ứng được tiêu chí kiên cố, những người thợ xây đã sử dụng đá xanh để xây dựng giúp dinh thự đứng vững trước kẻ thù và thời gian. Mái vách và cột trụ được làm bằng gỗ để tôn thêm sự uy nghiêm và uyển chuyển cho những căn phòng. Một vật liệu nữa được sử dụng là đất nung dùng cho việc xây các mái ngói để tạo hình dễ hơn nhưng không kém phần chắc chắn. Cho đến tận ngày nay, Dinh thự Vua Mèo là một trong số ít những công trình đáp ứng tất cả các yêu cầu về nơi ở, làm việc và trở thành một căn cứ phòng thủ mỗi khi có chiến sự xảy ra. Dù có sự kết hợp của 3 nền văn hóa trong kiến trúc nhưng nhiều người nhận xét rằng dinh thự họ Vương vô cùng hài hòa, uyển chuyển nhịp nhàng như thành một khối thống nhất mà không hề gò bó, khiên cưỡng. Thêm vào đó, tuy là công trình được xây dựng trên một khu đất lên tới 3000m2 nhưng Dinh thự không hề to lớn hay đồ sộ như nhiều người vẫn hình dung vì nó được cấu tạo từ những phân khu nhỏ, mang nét giản dị, mộc mạc của văn hóa kiến trúc dân gian. Kiểu thiết kế với nguyên tắc trong thấp ngoài cao khiến cho tổng thể Dinh thự càng gần gũi với cảnh vật xung quanh hơn nữa. Nhìn chung, đa số nội thất và vật dụng gắn liền với Vua Mèo khi còn sống đều được lưu giữ và bảo quản tốt đến tận ngày nay. Duy chỉ có một số ghế và đồ gỗ được làm bằng thông đá, về sau đã được nhà nước ta thay đổi bằng gỗ lim và gỗ nghiến để không bị mai một dần theo thời gian. Các cấu kiện gỗ mang bản sắc văn hóa địa phương đậm đà bằng cách khắc những hoa văn hình bông hoa bản địa như đào, anh túc… Những trụ nhà thì được chế tác sao cho giống quả của cây thuốc phiện, là loại cây mà Vua Mèo kinh doanh để làm ra tiền xây dinh thự. Một số vật dụng bị ảnh hưởng bởi phương tây có trong công trình này có thể kể đến như bồn tắm sữa dê bằng đá, cửa sổ chớp kính bên cạnh lò sưởi, lối ra vào thì được làm bằng đá hoa cương kết nối bằng khung hoa sắt đậm chất kiến trúc Pháp. Nguồn: Báo du lịch Hà Giang
Tuyên Quang 4677 lượt xem
Khu di tích lịch sử và danh thắng Tràng Kênh thuộc thị trấn Minh Đức, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng có bề dày lịch sử văn hóa, đồng thời đây còn là một danh thắng với cảnh quan thiên nhiên đẹp đẽ do hệ thống núi đá vôi và sông ngòi tạo thành. Tràng Kênh, vùng đất cổ được biết đến qua di chỉ khảo cổ học nổi tiếng, hiện còn bảo lưu trong lòng đất. Theo các nhà nghiên cứu, Tràng Kênh là một di chỉ khảo cổ học, một công xưởng chế tác đồ trang sức bằng đá lớn nhất vùng Đông bắc Tổ quốc, có niên đại cách ngày nay gần 4000 năm, thuộc sơ kỳ thời đại kim khí. Từ buổi khai sơn, phá thạch, tạo dựng cuộc sống, người Tràng Kênh với bàn tay khéo léo đã chế tác ra những đồ trang sức bằng đá tinh xảo, với những vòng tay, hoa tai, chuỗi hạt đa dạng, phong phú, đầy màu sắc. Thông qua các cuộc khai quật và nghiên cứu, các nhà khảo cổ học đã kết luận rằng: Tràng Kênh cách đây gần 4000 năm đã thực sự là một công xưởng chế tác đồ đá có quy mô lớn, sản phẩm của nó không chỉ được trao đổi ở nội địa, mà còn vượt biển tới các nước Đông Bắc Á và Đông Nam Á. Trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước, vùng đất này được coi là một phên dậu chống giặc ngoại xâm. Dấu ấn lịch sử để lại đến nay cho biết, Tràng Kênh là một trận địa quan trong trận thủy chiến Bạch Đằng năm 1288 do Quốc công tiết chế Trần Hưng Đạo chỉ huy, đánh tan đội quân xâm lược Nguyên - Mông thế kỷ XIII. Với các địa danh đã đi vào sử sách dân tộc như núi U Bò, Hoàng Tôn, Phượng Hoàng hay cửa Bạch Đằng, nơi hợp lưu của 3 con sông đổ về, cùng các dấu tích về những trận địa cọc hay những địa danh như Áng Hồ, Áng Lác cho biết vùng đất này đã ghi dấu về một chiến trường do quân và dân triều Trần bày trận đòn đánh quân thù. Ngày nay dưới chân núi Hoàng Tôn trong hệ thống núi đồi ở Tràng Kênh còn ngôi đền thờ một vị tướng của vương triều Trần. Đó là đền thờ Trần Quốc Bảo. Ông thuộc tôn thất nhà Trần có công trong trận Bạch Đằng năm 1288, khi mất được nhân dân địa phương lập đền thờ. Theo nội dung tấm bia dựng vào niên hiệu Vĩnh Tộ thứ 8 (1626) đời vua Lê Thần Tông, ngôi đền được xây dựng ở nơi có thắng cảnh đẹp vào hạng thứ nhất của xứ Hải Dương. Tràng Kênh - Bạch Đằng, một địa danh lịch sử từ lâu đã đi vào tiềm thức của người dân thành phố Hải Phòng như một ký ức không thể nào quên về một chiến công vĩ đại chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta cách đây trên 7 thế kỷ. Cùng với nhiều di sản mang những nội dung lịch sử văn hóa có giá trị, Tràng Kênh - vùng đất thuộc thị trấn Minh Đức, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng đã được nhà nước xếp hạng di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh năm 1962. Nguồn: Cổng thông tin điện tử Thành Phố Hải Phòng
Hải Phòng 3901 lượt xem